Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.198
123.208.460
 
Tìm về Bên Sông Huyền Thoại của Cha
Lâm Bích Thủy

Thỉnh thoảng trên báo thấy bài viết về Yến Lan, tôi chăm chú xem thử họ nói gì về ông già của mình. Ừ! Sao mà nhiều người viết về bài thơ “Bến My Lăng” của cha tôi đến thế. Nghe nói ngày trước, vì thích bài thơ quá có họa sĩ dựa vào ý thơ đã vẽ cảnh Bến My Lăng rất nên thơ nữa kia. Và nghe đâu bức tranh ấy đang ở đâu đó trong nhà của một người thuộc dòng giõi quan lại ở Huế. Nó là cái bến nào ở quê tôi (An Nhơn-Bình Định) (?). Cái bến có gì lạ hay sao mà người nào cũng muốn tìm về “Bến My Lăng” của ba tôi đến thế? Người ta đọc rồi suy luận, mỗi người tự giải thích theo cách nghĩ của riêng mình thật thi vị:

 

Nhà thơ Thanh Thảo thì nghĩ: “Bến My Lăng- hình như ở trong mơ, dưới ánh trăng bạc xám, ám ảnh trên Thành cổ Đồ Bàn. Có thể là một bến sông của một cô gái người Chàm, của một ông lái đò không tên, không tuổi, quên quá khứ, không nghĩ tới tương lai, ông lái đò của thời khắc hiện tại, của dòng sông trôi chảy. Bến My Lăng ở đâu? Có lẽ bến sông ấy chỉ có trong thơ Yến Lan, trong những tầng sâu nhớ quên của nhà thơ. Đừng giải thích, đừng định vị

 

Bến My Lăng nằm không thuyền đợi khách

Rượu hết rồi ông lái chẳng buông câu

 

Ở đời đủ giàu như Thạch Sùng, thì cũng không qua được cái trăm năm đong đưa, như đùa, như thật “Chỉ những câu thơ còn xanh”. Yến Lan mãi còn Bến My Lăng của ông, cái bến riêng của linh hồn ông, với tiếng gọi đò tha thiết, tiếng gọi đò như đến từ cõi khác, từ một đời sống khác:

 

Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách

Gọi đò-thôi, run rẫy cả ngành trăng

(Trích bài viết trong BDNS-21  Nhà thơ của một bến sông” của Thanh Thảo)

 

Còn Từ Quốc Hoài với  Yến Lan-cốt cách một đời thơ”)

Đã chắc chắn rằng “Độc giả Việt Nam biết đến Yến Lan trước hết với Bến My Lăng. Mười bảy tuổi, Yến Lan trình làng một thi phẩm mà chỉ riêng nó thôi đủ làm nên tên tuổi một thi sĩ. Vào năm nhà thơ ra đời (Bính Thìn 1916), cảnh nhật thực, nguyệt thực xảy ra nhiều vùng trên thế giới trong đó có Việt Nam. Cuộc đấu tranh sinh tử xóa bỏ ách nô lệ, giành độc lập  cho xứ sở. Những sự kiện lớn lao ấy có sức chấn động trong ông, làm ông ý thức được tính chất vô thường của cuộc sống, cái đẹp, cái cao cả có thể bị xâm hại cần được bảo vệ.

 

Bến My Lăng là nỗi niềm khắc khoải về một quyền năng huyền nhiệm, khả dỉ mang lại hạnh phúc cho con người. Bến My Lăng giống như một giấc mơ. Một ông lão lái đò u buồn đợi khách trên một bến sông đầy trăng. Không có khách, ông thả hồn chơi vơi tận “bến trăng cao”, tự làm thanh bạch mình ở cái “bến trăng” trong tâm tưởng ấy. Chàng kỵ mã nhung y hào nhoáng, có vẻ một kiếm sĩ không phải là người khách mà ông lái đò mong đợi.

 

Ông lão vẫn say trăng đầu gối sách

Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng…

 

Bài thơ khép lại một Bến My Lăng đầy trăng lạnh, và đã bao trăng ông lái buồn đợi khách.

Bài thơ có sức ám ảnh. Ngôn ngữ thơ nhẹ bổng như được chiếu sáng lung linh bởi ánh trăng huyền ảo. Nhưng cái tình của bài thơ thì rất thật. Chính cái tình ấy dã neo Bến My Lăng vào lòng người ngay từ khi mới ra đời.”

 

Với lớp trẻ, họ nghĩ như thế nào về Bến My Lăng” :

Trên chương trình Vầng trăng cổ Nhạc lần thứ 6 ở đài  HTV9, người dẫn chương trình đã đưa khán giả đến với bài thơ bằng lời mở đầu: “Trong nền Văn học Việt Nam có rất nhiều bài thơ tả về trăng, nhưng bài thơ tả về trăng hay nhất là Bến My Lăng” Khi nói đến Bến My Lăng thì phải nói đến Yến Lan và nói đến Yến Lan thì phải nói về Bến My Lăng

 

Cảm nghĩ về “Bến My Lăng” còn nhiều lắm.., những nhận xét mang đậm tính nhân văn và mơ mộng, nhưng tôi không thể đưa hết vào bài viết này. Song le cũng có người suy luận rằng; vì mê cô Lan quá (sau này chính là bà xã của ông) nên nhà thơ gọi chệch từ Mê Lan thành My Lăng. Thế nên gây cho tôi sự tò mò không kém. Tôi bắt đầu vào cuộc tìm hiểu. Tôi hỏi nhà thơ, được ông kể về nét sơ khai thuần khiết sự ra đời của bài thơ:

 

“Cuộc sống nghèo khó đã cướp đi sức lực và tuổi trẻ của bà nội tôi. Trước khi mất, bà ốm nặng lắm, không ăn được gì ngoài thứ bánh canh nấu với tôm mua ở chợ. Chợ xa, phải qua một lần đò. Sợ bánh canh nguội mẹ không ăn được, sợ trẻ chăn trâu chặn đánh đổ hết bánh canh về nhà mẹ không có ăn; Vì vậy ba hối hả gọi ông lái đò-chính là cậu của ba, thường neo đậu ở bên kia sông. Tiếng gọi đò của ba : -Đò ơi! ơi đò!. Lần nào cũng vậy, khản cả cổ mà cậu không nghe thấy, bởi hai bờ sông quá rộng, tiếng của ba thì nhỏ, phả đều trên mặt sông thành những làn sóng lăn tăn như ru thêm cho cậu ngủ ngon giấc hơn. Dẫu vậy, ba vẫn phải gọi, tiếng gọi đò tha thiết, như giục dã, như hối hả, nó ăn sâu vào tìm thức của ba. Lớn lên, có thêm chút triếc lý, cộng với thực tế của cuộc sống, ba viết bài thơ này và tiếng gọi đò đã vào thơ:

 

Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả/ Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi”.. “Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách/Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng

 

Tôi hỏi về nghĩa bóng của bài thơ”. Ông cười, mà rằng: “Viết bài thơ này ba muốn nói về hạnh phúc của con người. Đời người ai cũng có quyền ước mơ. Có người mơ về vật chất, tiền tài danh vọng. Có người chỉ mơ được sống trong một gia đình mà niềm vui được chia sẽ. Hoặc ông giải thích hạnh phúc là khi nhu cầu được thỏa mãn, giống như Thằng Bờm tài sản chỉ có cái quạt mo, gặp lúc đói quá, đâu dám mơ gì cao sang, mỹ vị, chỉ mơ có cục xôi. Còn ông lái đò trên Bến My Lăng, mơ có khách, dù chỉ một người để được làm cái nhiệm vụ đưa sang bờ bên kia sông. Nếu tất thảy ước mơ thành hiện thực có nghĩa là niềm hạnh phúc đến . Ở bến sông này, người dân sống dưới thời phong kiến khổ lắm, họ không có tiền để qua bên chợ mua sắm nên bến sông lúc nào cũng vắng khách. Ông lái đò đợi hoài đợi mãi mà chẳng thấy một ai. Sự chờ đợi làm ông mỏi mệt, ngủ say. Say đến nỗi quên rằng cái thực của ước mơ đã đến với mình. “Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã / Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly / Trong thời khắc chớp nhoáng ấy, ông lái đã không biết chớp lấy và nắm giữ niềm hạnh phúc nhỏ nhoi mà mình phải chờ đợi “Suốt cả bao trăng” để nó vuột mất

 

Đề cập đến cái triết lý của bài thơ, ba tôi nói thêm: “hạnh phúc không phải lúc nào cũng phụ thuộc bên ngoài. Nó ở bên trong ta. Chỉ có những gì do bàn tay lao động của mình làm nên thì ta mới ý thức được hạnh phúc đáng quí như thế nào và mới biết cách gìn giữ nó bền lâu. Ta đừng bao giờ chờ đợi người khác mang hạnh phúc đến cho mình, ít có điều ấy lắm. Mà nếu có thì không được bền vững bằng chính bàn tay mình xây nên. Người xưa đã dạy ta “Đừng chờ sung rụng”

 

Gần đây, anh Can con bà chị nhà thơ người được ông viết bài “Khi chị đi lấy chồng” có chút vốn chữ Hán, luận ra vì sao nhà thơ đặt tên của bài thơ là “Bến My Lăng”:

Về chữ My Lăng  Nếu viết đúng nguyên chữ là “My –bơ –lăng”. Viết theo chữ Nôm là “My blăng”   My = lông mày -> có hình cong.

Quê ngoại tôi nằm trên khúc sông cong

Thuyền ai về đậu khúc sông eo

Còn chữ   Blăng : suy từ chữ Nôm có nghĩa là trăng.

Vậy từ chữ “My-bơ-lăng” thành My Lăng. Có thể hiểu là “Bến sông trăng

Chẳng thế mà thơ của nhà thơ chứa nhiều trăng. Ngay những ngày mới lọt lòng mẹ, ông đã được ánh trăng vàng ngàn đời vây phủ chở che.

Võng mẹ ru hời dưới mái hiên

Hương đồng cỏ nội-mặc, kề bên

Tôi nằm trong vũng ca dao lạnh

Đón những vầng trăng mẹ vớt lên.

 

Trăng đi từ tóc, đi vào máu

Như sữa tuôn dòng chảy khắp thân,

Tôi yêu trăng quá, mê trăng quá

Như má yêu môi, đến đến….gần

 

Tôi đã thành người mắc  bệnh trăng

Chiều mây sớm nắng mỗi bâng khuâng

Chỉ riêng báo hiệu niềm vui đến

Khi ứng lòng đêm một ngấn hằng.

“Trích Bệnh trăng”

(Rút trong tập Mưa bay)

TTTN số 16

 

Năm đoàn quay phim nhà báo Thụy Kha về An Nhơn, gồm có nhà thơ Thanh Thảo, nhạc sĩ Văn Cao, nhạc sĩ  Nguyện Trọng Tạo, vào ngày 31 tháng 3 năm 1985, có câu hỏi về cái bến trong tâm tưởng này. Nhà thơ Yến Lan vẽ và giải thích tương tự như lời giải thích trên. Đoàn làm phim đã hiểu vì sao nhà thơ đặt tựa cho bài thơ của mình là Bến My Lăng. Sau này hoàn thành, bộ phim tư liệu mang tên “Yến Lan – Một bến sông trăng

 

Bến My Lăng


My Lăng nằm không, thuyền đợi khách

Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu

Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách

Ông lái buồn để gió lén mơn râu

 

Ông không muốn run người ra tiếng địch

chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao

vì đìu hiu, đìu hiu trời tĩnh mịch

Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao.

 

Trôi quanh thuyền những lá vàng quá lạnh

Tơ vương trời nhưng chỉ rải trăng… trăng

Chiều ngui ngút dài trôi về nẻo quạnh

để đêm buồn vây phủ bến My Lăng

Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã

Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly

Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả

Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi

 

Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách

để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng

Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách

Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng

 

Bến My Lăng còn lạnh, bến My Lăng

Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng…

 

Nhiều người còn cho rằng, có một khía cạnh nữa làm người yêu thơ và nhất là người Bình Định mê say bài thơ. Đó là do cái - âm thanh mà nhà thơ đã đưa vào thơ đầy kịch tính mang đậm màu nhân văn - Âm thanh đó chính là tiếng gọi đò tha thiết của chàng kỵ mã trong một đêm đầy trăng.

 

Theo sự hiểu biết rất hạn hẹp của tôi thì trong giai đoạn từ 1930 đến 1945 có hai bài thơ chứa đựng những âm thanh.

Bài thứ nhất chứa những âm thanh dồn dập “hối hả”, những âm thanh như oán trách, những âm thanh làm run rẫy cả ngành trăng. Đó là tiếng gọi đò mãi mãi vang vọng trên “Bến My Lăng” của nhà thơ:

chàng gọi đò, gọi đò như hối hả/ sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi”.

 

Bài thứ hai là những âm thanh não nùng của hàng trăm con quạ, giữa đêm khuya đang ngủ, bỗng có tiếng động đã thức dậy cất tiếng kêu hoảng loạn, ầm ỹ. Những con quạ này, đập cánh ào ào trong đêm tối “bóng lẫn đêm khuya tiếng rộn ràng”. Tiếng quạ kêu thật rùng rợn, thật ấn tượng. Đó là tiếng quạ trong “Đêm thu nghe quạ kêu” của bác Quách Tấn. Cái tiếng của cả một bầy quạ kêu từ bờ tre trên sông Côn nằm trên chặng đường từ An-Vinh đi về Phú Phong đã gây cho bác Quách Tấn một ấn tượng mạnh mẽ làm cho cả đời ông nhớ mãi. Chỉ nghe tiếng quạ kêu mà bác đã viết một bài thơ đường rất nổi tiếng nọ.  Nhưng, nếu so sánh tiếng quạ kêu của bác Tấn với tiếng gọi đò của Chàng Kỵ Mã áo xanh của nhà thơ Yến Lan thì nhiều người ưa tiếng gọi đò của Yến Lan hơn. Nó thể hiện sự độc đáo mà nhà thơ Yến Lan đã gieo vào lòng người đọc, khiến họ nhớ mãi về cái bến hoang tưởng trong hư vô của thị trấn An Nhơn không dứt, khiến họ liên tưởng đến tiếng ếch kêu đã làm Tú Xương giật mình ngỡ là tiếng gọi đò trước đây

Đêm nghe tiếng ếch bên tai/ giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò” ..

 

Tất thảy những điều đó đã khơi dậy một niềm tự hào về mảnh đất của quê hương Bình Định ở nơi sâu, tận đáy lòng nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Liễn, bằng 2 câu đối dưới dạng 4 câu thơ viết tặng nhà thơ Yến Lan

 

Bến My Lăng, bến ấy ở đâu?

Trời tĩnh mịch, trăng rơi vàng, thuyền đợi khách

 

Đất Bình Định đất này lạ nhỉ!

Rượu ân tình, hoa tư tưởng - xứ lên men./.

Lâm Bích Thủy
Số lần đọc: 2741
Ngày đăng: 12.03.2010
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Chiều và kẻ lữ hành cô độc. - Nguyễn Thành Nhân
Cuốn lịch bí ẩn - Fekete István
Bên nội & bên ngoại. - Nguyễn Thị Hậu
Ghi…vụn! - Thụy Vi
Có còn mơ mãi được không? - Nguyễn Thành Nhân
Nhìn về phía núi thắp nén nhang cho những người đồng đội đã ra đi - Trần Quang Vinh
Lãng Du Trong Văn Học Nga - Lương Văn Hồng
Nói, những điều phải nói! - Thụy Vi
Ngôi chùa nhỏ trong con hẻm rất nhỏ - Nguyễn Khương Bình
Tháng giêng nhớ Vũ Hữu Ðịnh - Trần Trung Sáng
Cùng một tác giả
Tình lên ngơ ngác (truyện ngắn)
Chàng Ngốc (truyện ngắn)
Thư cảm ơn (sự kiện)