Lê Phong Trần tự nhận là dòng dõi vua chúa, thuộc chi nhánh của Lê Chiêu Thống (*). Có người hỏi, tại sao lại nhận cái ông vua bán nước “cõng rắn cắn gà nhà” ấy làm cụ Tổ thì Lê Phong Trần nói: “Tôi không có quyền lựa chọn tổ tiên! Bố tôi bảo vậy thì tôi biết vậy.Ai cũng chê bai, chửi rủa, phỉ nhổ, thật tội nghiệp cho ông vua bạc mệnh này! Tôi cố gắng hương khói đều đặn cho linh hồn ông khỏi cô quạnh!”. Lại hỏi: “Nhưng theo như sử sách đã ghi thì cả hai cha con Lê Chiêu Thống đều chết bên Tàu, làm sao mà còn lại con cháu nữa?”. Trả lời: “Sử sách đâu có ghi lại được hết mọi chuyện? Bậc vua chúa ngày xưa đâu có ít con, đâu có chịu tuyệt tự? Thời gian từ năm 1787 đến năm 1789, vua Lê Chiêu Thống chạy lên mạn Kinh Bắc, rồi Cao Bằng, Thái Nguyên… tập hợp lực lượng để chống lại quân Tây Sơn của Vũ Văn Nhậm (**). Thời gian này, vua sống hòa đồng trong dân gian, đã có bao nhiêu cô thôn nữ được vua ban ân sủng, làm sao mà biết được? Tôi chỉ biết bà cố của tôi là một cô gái Kinh Bắc rất xinh đẹp và đã được hầu hạ bên cạnh vua Lê Chiêu Thống tới chục ngày và sau đó bà đã mang Long thai! Ông của tôi còn giữ được nhiều kỷ vật của bà cố tức của vua Lê Chiêu Thống ban cho bà!”. Khi Lê Phong Trần nói đến đây thì dường như người nghe không còn thắc mắc gì nữa. Gần hai năm lăn lộn khắp mấy tỉnh phía Bắc Thăng Long, Vua Lê Chiêu Thống đã ban ân sủng cho bao nhiêu cô gái và bao nhiêu cô gái đã mang Long thai thì không một sử gia nào trả lời được!
Khi nói đến thời gian vua Lê Chiêu Thống chạy loạn tới vùng Kinh Bắc, Lê Phong Trần còn say sưa kể: “Người dân ở vùng này còn lưu truyền rất nhiều những câu chuyện dã sử gần giống như chuyện về Nguyên Phi Ỷ Lan. Chẳng hạn như chuyện Thứ Phi Ỷ Mít: một lần , vua đang trên đường chiêu tập binh mã thì bị lạc đường, bụng lại đói cồn cào, khiến vua ngất xỉu. Trong giấc ngủ mơ màng, vua thấy Thổ Địa hiện ra nói: “Nhà vua đi về hướng Bắc, chỉ một khắc, sẽ thấy một cây mít cổ thụ đã có ba quả chín thơm phức, đã có người ngồi đợi bổ mít cho nhà vua thưởng lãm!”. Vua nghe theo, tới nơi quả nhiên thấy có một cây mít cực lớn, dưới gốc mít có ba quả rất to, đã chín mõm, tỏa hương thơm phức và có một cô gái rất xinh đẹp, thân hình nở nang cân đối, tràn trề sinh lực, đang tựa gốc mít lim dim ngủ! Khi vua đi lại gần thì cô gái bừng tỉnh, nói giọng như tiếng chuông ngân: “Thần thiếp đợi Bệ hạ đã lâu, xin được phụng mệnh!”. Vua rất mừng, cùng ăn mít với cô gái rất thân mật. Vua ăn mít xong thì không những hết đói mà sức lực như tăng lên bội phần, cùng cô gái ân ái mười phần mãn nguyện. Sau đó, vua phong cho cô gái là Thứ Phi Ỷ Mít, tức bà Thứ Phi tựa cây mít! Tương truyền về sau, bà Thứ Phi sinh đôi được hai hoàng tử, nhưng do phải chạy trốn sự truy sát của quân Tây Sơn nên đã mai danh ẩn tích, không biết lưu lạc nơi nào? Mấy ngày sau chuyện Thứ Phi Ỷ Mít, Vua đi đến một vườn vải thì cũng gặp một thôn nữ đang tựa gốc vải và sau đó cũng phong cho thôn nữ này là Đệ Nhị Thứ Phi Ỷ Vải, tức bà Thứ phi thứ hai, tựa gốc cây vải! Tương truyền bà Phi tựa cây vải này ăn vải nhiều nên sinh hạ tới ba hoàng tử, nhưng sau đó cũng phải mai danh ẩn tích lưu lạc tứ phương!”.
Nghe Lê Phong Trần kể chuyện Thứ Phi Ỷ Mít và Thứ Phi Ỷ Vải, lúc đầu tôi không thể tin được và nghĩ chắc là anh ta sáng tác ra mà thôi. Nhưng khi được mục kích sở thị mít và vải ở vùng này thì quả là không thể không tin vì khi ăn mít và vải ở đây, ta chỉ có thể nói: Không thể ngon hơn được nữa!
*
Lê Phong Trần học cùng khóa với tôi ở Đại học, nhưng khác Khoa, tôi học Khoa Toán còn anh ta học Khoa sử. Chúng tôi chỉ biết nhau khi cùng nhập ngũ một đợt. Khi biết tôi rất thích đọc sách về các nhân vật lịch sử, Phong Trần đã cho tôi hai cuốn sách viết về Napoleon Bonapac, một cuốn viết về Thành Cát Tư Hãn và một cuốn viết về mười ba triều đại Nhà Thanh là “Thanh cung mười ba triều”. Khi đưa sách cho tôi, Phong Trần nói: “Cho cậu những cuốn sách này vì tôi đã đọc nhiều lần và thuộc lòng rồi. Cậu đọc đi rồi sẽ thấy rất thích làm vua, huống hồ là hậu duệ của vua chúa như tôi!”. Tôi hỏi: “Cậu thích làm vua sao không tìm cái trường nào dạy làm vua? Vả lại ở nước ta đâu còn chế độ vua chúa như xưa? Chỉ có vài nước như Thái Lan, Anh…mà thôi!”. Phong Trần bình thản nói: “Đối với lịch sử, không thể nói trước được điều gì, nó đầy bất ngờ như…bóng đá!”. Tôi thầm nghĩ thằng cha này thuộc loại tâm thần, nhưng sau khi đọc xong mấy cuốn sách mà anh ta đưa thì quả là tôi rất thích … làm vua và còn nghĩ rằng nếu mình làm vua thì không thể dẫn đến những kết cục bi thảm như vậy! Trở lại với ý nghĩ về anh chàng Lê Phong Trần, tôi cứ băn khoăn không hiểu anh ta sẽ làm vua như thế nào? Hay là miễn có chữ “Vua” là được chẳng hạn như “Vua bóng đá Pê-lê”? Khi gặp nhau, tôi đem sự băn khoăn ấy ra hỏi thì Phong Trần nói: “Tớ đã làm vua là phải có triều đình với hai hàng bá quan văn võ nghiêm chỉnh chứ đâu phải là chỉ có chữ “Vua” như “Vua bóng đá Pê-lê?”. Khi nghe Phong Trần nói vậy, tôi khẳng định dứt khoát là anh chàng Phong Trần này bị bệnh tâm thần, hoang tưởng hay đại loại như vậy! Song, khi có sự việc sau đây thì tôi lại phải tự “đính chính” là Phong Trần không hề có bệnh tật gì cả!
Sau khi nhập ngũ được khoảng ba tháng, năm người lính chúng tôi được điều động đến một đơn vị mới hiện đang đóng quân trên đồi Đồng Lư, thuộc huyện Quốc Oai, lúc đó là tỉnh Hà Tây. Từ chỗ đơn vị chúng tôi đang đóng quân đến chỗ đơn vị mới là khoảng năm mươi cây số và chúng tôi sẽ phải tự đi đến chứ không có xe pháo đón rước gì cả!
Khi ra đến đường Quốc lộ số 5, Phong Trần nói là nên vào ngồi trong một quán nước ven đường, ăn uống gì đó thoải mái, khi thấy có xe ô tô mà thùng phía sau trống thì chặn lại xin đi nhờ, cứ nối tiếp từng chặng như thế, khi nào tới nơi thì thôi! Khi vào ngồi trong một quán nước rồi, Phong Trần kêu nước thuốc, kẹo lạc…thoải mái và nói: “Các cậu cứ ăn uống thoải mái, hôm nay tớ đãi!”. Trong khi ăn uống, một người tên là Hận Sĩ, học cùng Khoa Sử với Phong Trần, nói: “Trước khi chia tay nhau, tớ xin đọc tặng những chàng “Sin sin Cos cos” (mấy khoa khác thường gọi dân Khoa Toán như vậy, ba người còn lại chúng tôi đều học Khoa Toán) các cậu ba bài thơ tình, coi như ba người ba bài, mỗi người một bài!”. Tôi liền nói ngay: “Tại sao lại là chia tay, chẳng phải là chúng ta cùng được lệnh đến đơn vị mới sao?”. Phong Trần trả lời ngay: “Đúng là có lệnh ấy nhưng chúng tớ còn có lệnh của Trái tim. Chúng tớ phải về nhà thăm vợ (cả Phong Trần và Hận Sĩ đều là người Hà Bắc, nơi có truyền thống lấy vợ sớm), chưa biết bao giờ mới có thể gặp lại!”. Tôi nói nhỏ: “Như thế chẳng phải là đào ngũ sao? Chúng tớ sẽ nói thế nào với thủ trưởng đơn vị mới?”. Phong Trần nói tỉnh khô: “Thì các cậu cứ nói là chúng tớ bị trúng bom, hy sinh rồi! Các cậu không thấy là mấy hôm nay bom nổ râm ran khắp nơi à?”. Nghe Phong Trần nói vậy, tôi vụt hiểu ra chuyện gì đang xảy ra và thấy câu thơ dân gian đang lưu truyền về tình trạng đào ngũ của bộ đội ta lúc đó thật là đúng: Hà chuồn, Nam trốn, Thái Bình bay / Hà Bắc anh dũng trốn ban ngày / Thanh Hóa mất mùa xin ở lại / Nghệ An, Hà Tĩnh có ai hay?
*
Sau khi chia tay ở cái quán nước ven quốc lộ số 5 đó, phải đến năm 1976, tức mười năm sau, tôi mới có dịp gặp lại Phong Trần, và thật bất ngờ khi gặp lại cả anh chàng nhà thơ Hận Sĩ luôn cặp kè bên cạnh Phong Trần. Thì ra tổ tiên của Hận Sĩ chính là viên quan Tri huyện huyện Yên Dũng, xứ Kinh Bắc, đã có công hộ giá Lê Chiêu Thống khi bị quân Tây Sơn của Vũ Văn Nhậm đánh đuổi khỏi thành Thăng Long, dần dần khôi phục lại được lực lượng ở mạn Cao Bằng, Thái Nguyên. Khi biết chuyện ấy, nhìn lại Hận Sĩ thì quả là anh ta rất có phong cách quan Huyện, lại có cả phong thái thi nhân (các quan tri Huyện thời xưa phần lớn rất giỏi thi phú). Và điều thật bất ngờ đối với tôi là : Hiện Hận Sĩ đang là Chánh Văn phòng UBND Huyện quê hương, và cái ghế Chủ tịch Huyện đã trong tầm tay, chỉ còn là thời gian, sớm hay muộn! Khi biết Phong Trần vừa tốt nghiệp một khóa diễn viên Chèo ở Trường Nghệ thuật Sân Khấu Mai Dịch, đang chờ về đoàn chèo của tỉnh nhà, hiện đang sống “lưu vong” ở nhà Chánh văn phòng UBND Hận Sĩ, tôi ngạc nhiên hết sức mà nói: “Nhìn hai người bên nhau, tớ cứ ngỡ là cái hình ảnh vua Lê Chiêu Thống chạy loạn về Kinh Bắc ngày xưa hiện về! Thật kỳ lạ! Chẳng lẽ lịch sử luôn có những sự trở lại kỳ quặc như thế?”. Phong Trần nói: “Có người muốn mời tớ tham gia một vở chèo lớn và vào vai vua Quang Trung đại phá quân Thanh, nhưng tớ không nhận lời mà sẽ tự làm một vở về thời kỳ gian khó nhất của vua Lê Chiêu Thống, tớ sẽ vào vai vua Lê Chiêu Thống!”. Tôi nghĩ bụng cho là anh ta nói khoác nên không để ý.
Song, khoảng hơn một năm sau thì tôi nhận được lời mời tới xem Phong Trần chạy đường dây một vở chèo viết về vua Lê Chiêu Thống do anh ta vừa viết kịch bản, vừa đạo diễn và vào vai chính là vua Lê Chiêu Thống. Hỏi kỹ thì vở diễn không phải được dàn dựng ở đoàn chèo của Tỉnh mà chỉ do một đội chèo bán chuyên nghiệp của Huyện do Phong Trần và Hận Sĩ gầy dựng, trong đó hơn nửa số diễn viên là nghiệp dư, số còn lại là bạn bè, chiến hữu của Phong Trần và Hận Sĩ, đều là con cháu của những cựu thần nhà Lê mà tụ họp đến giúp. Tuy chỉ là một “đội quân không chính quy”, nhưng khi xem Phong Trần chạy đường dây lần cuối thì quả là không có thể làm tốt hơn. Tuy nhiên, vào thời điểm lúc đó, một vở diễn chỉ tập trung vào việc thể hiện nhân vật Lê Chiêu Thống thì quả là rất khó được duyệt để công diễn. Tôi nói ý ấy với Phong Trần thì anh ta nói: “Buổi tổng duyệt sẽ rất đông người xem, như vậy là tớ mãn nguyện rồi!”. Quả nhiên, buổi tổng duyệt có số người tới xem chật kín cả Hội trường của Ủy Ban Huyện. Khi Phong Trần xuất hiện trên sân khấu trong vai Lê Chiêu Thống, nhìn anh ta không còn là Phong Trần nữa mà là đã trở thành Lê Chiêu Thống của hơn 200 năm trước!
Sau buổi tổng duyệt, tôi tìm gặp Phong Trần thì không thấy đâu cả. Hỏi mấy người thì họ nói Chánh Văn phòng UB Huyện Hận Sĩ đã đưa Phong Trần về nhà anh ta. Tới nhà Hận Sĩ thì thấy anh ta đang ngồi uống rượu một mình. Nhìn thấy tôi, Hận Sĩ nghẹn ngào nói: “Phong Trần không còn là Phong Trần nữa, anh ta đã đã hóa thành Lê Chiêu Thống của hơn 200 năm trước rồi! Anh ta cứ luôn mồm nói những lời thoại của vở chèo, tôi phải điểm huyệt cho anh ta ngủ rồi!”. Nghe Hận Sĩ nói vậy, tôi không biết là nên vui hay buồn đây?
Sài Gòn, 2005-2010
Đỗ Ngọc Thạch
------------
(*) Lê Chiêu Thống (tên huý: Duy Khiêm, Duy Kỳ; 1765 - 1793), vua cuối cùng của nhà Hậu Lê. Cháu nội vua Lê Hiển Tông, con của thái tử Duy Vĩ, bị Trịnh Sâm giam cầm hơn 10 năm. Năm 1786, quân Tây Sơn ra Bắc lần thứ nhất diệt Trịnh, Lê Hiển Tông mất, Lê Chiêu Thống được đưa lên làm vua. Tính khí nhu nhược. Bị Trịnh Bồng lấn át, Lê Chiêu Thống gọi Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An ra phò giúp. Năm 1787, khi quân Tây Sơn ra Bắc lần thứ hai diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, Lê Chiêu Thống phải trốn chạy, cho người sang Trung Quốc cầu cứu nhà Thanh.
Tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) kéo quân ra Bắc Hà, chỉ một trận quét sạch 29 vạn quân Thanh, Lê Chiêu Thống lại phải theo bại quân nhà Thanh chạy sang Trung Quốc. Chiêu Thống lại tiếp tục xin nhà Thanh cho quân cứu viện. Nhà Thanh, phần sợ Quang Trung, phần đã ngán ngẩm việc chinh chiến, chỉ hứa hão với Chiêu Thống mà không cho quân. Thân vương nhà Thanh là Phúc Khang An hứa giúp quân cho Chiêu Thống, nhưng lại tâu với vua Thanh Càn Long rằng Chiêu Thống không còn muốn trở về. Tháng tư năm đó, theo lời tâu của Hòa Thân và Phúc Khang An, Càn Long phong Nguyễn Huệ là An Nam quốc vương và nhận tiếp sứ của nhà Tây Sơn. Tháng 5 năm Nhâm Tý, tức năm Càn Long thứ 57 (1792), con trai chết, Chiêu Thống thất vọng và chán nản, lâm bệnh rồi qua đời ngày 16 tháng 10 (âm lịch) năm 1793 tại Yên Kinh. Nhà Thanh chôn Lê Chiêu Thống theo nghi thức tước công.
Năm 1802, sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế, mở đầu thời kỳ nhà Nguyễn, đã cho sứ giả sang thông hiếu và quy phục nhà Thanh. Nhân đó các bầy tôi nhà Hậu Lê dâng biểu xin trở về nước nhà. Năm 1804, vua Gia Khánh nhà Thanh cho phép đưa linh cữu vua Lê, thái hậu và con trai Chiêu Thống về nước. Tháng 11 cùng năm táng nhà vua ở lăng Bàn Thạch.
(**) Tháng 11 năm Đinh Mùi, Chiêu Thống thứ nhất (1787). Quân Tây Sơn do Vũ Văn Nhậm chỉ huy tấn công Bắc Hà. Chiêu Thống sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân chống cự, nhưng trong trận đánh lớn trên sông Thanh Quyết, bị Văn Nhậm đánh tan. Hữu Chỉnh và em là Hữu Du chỉ kịp đem vài trăm quân chạy về Thăng Long.
Tháng 12 năm đó, Văn Nhậm kéo quân tới Thăng Long, Chiêu Thống nghe lời Hữu Chỉnh, bỏ Thăng Long chạy đi Kinh Bắc. Lúc đi, thị vệ và các bầy tôi tản mát bỏ trốn hết. Vua lại phải cho người sang nhờ Hữu Chỉnh đi hộ giá. Khi vua đến Kinh Bắc, trấn thủ là Nguyễn Cảnh Thước, vốn đã bí mật đầu hàng Tây Sơn, đóng cửa thành cáo bệnh không đón. Vua cùng Hữu Chỉnh qua đò sông Nguyệt Đức, đi theo chỉ còn sáu, bảy người, lại bị bọn vô lại cướp mất áo bào. Tình cảnh hết sức thê thảm. Khi Chiêu Thống tới huyện Yên Dũng mới được tri huyện huyện ấy giúp đỡ, xin hộ giá, rồi dần dần khôi phục lại được lực lượng ở mạn Cao Bằng, Thái Nguyên.
Sau đó, Nguyễn Văn Hòa, bộ tướng của Văn Nhậm, đuổi kịp quân nhà Lê. Chiêu Thống thân chinh cầm quân ngự chiến, nhưng thua trận, Nguyễn Hữu Du chết tại trận, Nguyễn Hữu Chỉnh bị bắt giải về kinh, rồi bị Văn Nhậm xử tử, quân nhà vua tan vỡ, Dương Đình Tuấn hộ vệ vua chạy sang trại Sơn Lộc. Các bầy tôi khác đều tan tác hết.
Sau đó, Chiêu Thống lẩn quất chạy trốn quân Vũ Văn Nhậm ở mạn bắc sông Nguyệt Đức, khi thì ở huyện Gia Định, lúc lại đi Chí Linh, Thủy Đường, Vị Hoàng. Tháng tư năm Mậu Thân (1788), Nguyễn Huệ lại ra bắc, vào thành Thăng Long, bắt giết Vũ Văn Nhậm, cho Ngô Văn Sở cai quản binh quyền, đặt Lê Duy Cận làm giám quốc coi việc thờ cúng tôn miếu nhà Lê. Chiêu Thống chạy ra Kinh Bắc lần thứ hai.
Trước kia, khi Thái hậu là mẹ vua đến Cao Bằng, bị các thế lực cát cứ địa phương uy hiếp, bầy tôi nhà Lê là Đốc đồng Nguyễn Huy Túc, phiên thần Địch quận công Hoàng Ích Hiểu, tụng thần Lê Quýnh và Nguyễn Quốc Đống bảo vệ Thái hậu và con trai Chiêu Thống qua cửa ải Thủy Khẩu chạy sang Long Châu nhà Thanh, gặp Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị và Tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh cầu xin cứu viện.