Khánh Hoà là một miền đất độc đáo về địa lý và phong cảnh thiên nhiên. “Non cao, biển rộng” đan xen, giao hoà làm nên một vẻ đẹp tự nhiên kỳ thú, một hòn ngọc quý mà tạo hoá ban tặng cho con người. Một miền đất như thế ắt sẽ là cái nôi nuôi dưỡng những tâm hồn thi ca, là môi trường diễn xướng của ca dao, dân ca.
Vốn là tiếng nói của người lao động, ca dao “trao đổi với thiên nhiên nhiều hơn là giao tiếp với xã hội” (1). Thiên nhiên càng hữu tình thì nhu cầu trao đổi, giao lưu của con người với thiên nhiên càng lớn. Có thể coi đây là một giả thiết để xem xét trữ lượng ca dao ở Khánh Hoà.
Tuy vậy cho đến nay chưa ai trả lời được câu hỏi ở Khánh Hoà có khoảng bao nhiêu bài ca dao? Trở lại lịch sử vấn đề nghiên cứu sưu tầm văn học dân gian nói chung và ca dao dân ca nói riêng ở Khánh Hoà chúng ta không khỏi băn khoăn về những gì còn tồn tại.
Trước giải phóng 1975 đã có một vài người quan tâm đến vấn đề này, nhưng tất cả chỉ dừng lại ở việc ghi chép một cách tổng hợp về lịch sử, địa lý, danh lam, thắng cảnh, con người và những nghề truyền thống (Quách Tấn-Xứ Trầm hương, Nguyễn Đình Tư-Non nước Khánh Hoà). Có thể nói nghiên cứu sưu tầm văn học dân gian Khánh Hoà trước 1975 là một vùng hầu như còn bỏ trống.
Sau giải phóng 1975 công việc đó mới được khởi đầu với các công trình như: Thơ ca dân gian Phú Khánh của nhóm tác giả: Trần Việt Kỉnh, Hà Nam Tiến, Nguyễn Chí Trang. Truyện cổ dân gian Phú Khánh của nhóm tác giả: Trần Việt Kỉnh, Nguyễn Thành Thi, Trần Trung Thành, Chu Thanh Bằng. Nữ thần Pônaga của tác giả Trần Việt Kỉnh.
Những công trình này tiến hành trong hoàn cảnh Khánh Hoà, Phú Yên sát nhập thành Phú Khánh do đĩ việc sưu tầm nghiên cứu VHDG cũng mang tính chất chung cho cả hai miền đất.
Năm 1989, theo quyết định của Bộ chính trị Trung ương Đảng và nghị quyết của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, tỉnh Phú Khánh lại được tách ra làm hai tỉnh Phú Yên, Khánh Hoà. Trong hoàn cảnh cấp bách phải giới thiệu vùng đất Khánh Hoà với những nét tổng thể, nhà nghiên cứu Trần Việt Kỉnh đã biên soạn cuốn “Đất nước con người Khánh Hoà” do Trung tâm Thông tin Cổ động Khánh Hoà xuất bản năm 1989, trong dó có một phần giới thiệu về văn học dân gian Khánh Hoà.
Bài viết này dựa trên nguồn tư liệu thơ ca dân gian Khánh Hoà, chúng tôi sưu tầm được, chắc chắn là chưa đầy đủ, nhưng cũng giúp hình dung được những nét chung thống nhất với ca dao của nhiều vùng đất khác, đồng thời cũng mang nhiều nét đặc thù của địa phương Khánh Hoà. Chúng tôi xin nêu một số nét tiêu biểu của ca dao Khánh Hoà như sau:
I.CA DAO KHÁNH HOÀ VỚI PHONG CẢNH VÀ SẢN VẬT:
1.Về phong cảnh
Ca dao Khánh Hoà nhắc tên các miền quê : Vạn Giã, Tu Bông, Ninh Hoà, Cầu Thành, Cồn Cạn, Nha Trang, Cam Ranh, Diên Khánh… Những con sông, con suối như: sông Dinh, sông Cù, sông Cái, suối Tiên, suối Đổ, suối Ngổ… Những hòn đảo và núi như: hòn Hèo, hòn Đỏ, hòn Kẽm, hòn Chữ, hòn Dữ, hòn Dung, hòn Chồng…
Việc nhắc đến nhiều địa danh không những chứng tỏ sự phong phú của ca dao Khánh Hoà mà còn là căn cứ quan trọng để xác định ca dao Khánh Hoà, phân biệt với ca dao của các miền đất khác. Đồng thời qua đó ta cũng thấy được sự đa dạng của thiên nhiên và địa hình mang dấu ấn địa phương Khánh Hoà.
Suối Tiên nước chảy lững lờ
Tiên đi đâu, để bàn cờ rêu phong
Nước mây vắng vẻ tăm mòng
Bền gan nay vẫn rày mong mai chờ
Bài ca dao nhắc lại sự tích suối Tiên, với không gian yên tĩnh, nước suối trong mát, êm trôi. Tương truyền xưa kia tiên ở trên trời thường xuống đây tắm, đánh cờ, vui chơi. Ngày nay nơi đây trở thành một thắng cảnh. Khách du lịch trong và ngoài nước đến đây tận hưởng cái không khí trong lành, tắm mát, phơi mình trên các tảng đá ở giữa dòng suối và mơ màng về cái thuở Tiên còn về trần thế.
Bãi biển Nha Trang, một phong cảnh hữu tình, nên thơ:
Bãi biển Nha Trang mịn màng trắng trẻo
Nước trong leo lẻo, gió mát trăng thanh
Đêm đêm thơ thẩn một mình
Đố sao cho khỏi vương tình nước mây.
Cát trắng, nước trong, trăng thanh, gió mát. Thiên nhiên quả là ưu đãi. Một thiên nhiêu dịu lành, thân thiện với con người. Nó thức dậy những nỗi niềm thầm kín trong sâu thẳm tình cảm con người, đó là nỗi vấn vương, cùng khát vọng giao hoà với thiên nhiên.
Thiên nhiên thuận hoà là đặc điểm của vùng đất.
Tỉnh Khánh Hoà đậm đà mưa nắng
Non chồng nghĩa nặng, nước chứa tình thâm.
Câu ca dao khái quát được đặc tính khí hậu Khánh Hoà “mưa nắng rất điều độ và mùa mưa không “lạnh cắt ruột” “lạnh nhức xương “ như ở Huế, ở Cao nguyên. Trong mưa có khí ấm, trong nắng có khí mát (2). Đúng là cái mưa, cái nắng cũng có mối tình sâu đậm với con người. Nó là thứ keo gắn kết con người với quê hương xứ sở, để ai đó vì một lý do gì phải đi xa vẫn hướng về quê hương thiết tha, chung thuỷ.
Ai về Xóm Bóng quê nhà
Hỏi thăm điệu múa Dâng Bà còn không?
Đó là lời nhắc nhở về khu di tích Tháp Bà Nha Trang, Xóm Bóng là xóm của những người hát bóng. Và điệu múa Dâng Bà đã trở thành nghi lễ trong lễ hội hàng năm vào ngày 23 tháng 3 âm lịch, để tưởng nhớ, ca ngợi Bà mẹ xứ sở Thiên Y A Na. Như thế tình yêu quê hương đã gắn liền với ý thức giữ gìn, trân trọng những truyền thống lịch sử, văn hoá.
Ca dao phong cảnh Khánh Hoà mang tính chất địa phương, đặc thù rõ nét: Khác với ca dao Bắc Bộ, phong cảnh thiên nhiên là những cánh đồng bát ngát, thẳng cánh cò bay, những ngọn núi xa “mây mù che phủ”, khác với ca dao Nam bộ, phong cảnh thiên nhiên là những miệt vườn, sông nước, kinh rạch, trong ca dao Khánh Hoà, phong cảnh thiên nhiên nổi bật lên hình ảnh non- nước, núi-biển. Không ở đâu non và nước giao thoa một cách sống động và ân tình đến thế.
Phong cảnh thiên nhiên Khánh Hoà không chỉ đẹp một cách đơn thuần mà bao giờ cũng gắn liền với những sản vật quí, đặc trưng cho một miền quê nào đó.
2.Về sản vật
Trầm hương, yến sào là đặc sản quí hiếm mà thiên nhiên đã ưu đãi cho Khánh Hoà cả về số lượng và chất lượng. Không phải ngẫu nhiên mà Khánh Hoà cón có một tên gọi thứ hai là Xứ Trầm Hương. Sản vật trầm hương, yến sào đi vào ca dao đã làm nên tính chất địa phương Khánh Hoà. Cho nên trầm hương, yến sào không dừng lại ở giá trị sản vật mà đã trở thành biểu tượng của quê hương non nước Khánh Hoà.
“Miếng ngon nhớ lâu”. Rồi từ nỗi nhớ vị ngon ngọt của món ăn, người ta nhớ đến tên đất, tên làng, tên sông, tên hồ… quê hương của vị ngon ngọt đó!
Yến sào hòn Nội
Vịt lội Ninh Hoà
ôm hùm Bình Ba
Nai khô Diên Khánh
Cá tràu Võ Cạnh
Sò huyết Thuỷ triều
Đời anh cay đắng đã nhiều
Về đây ngọt sớm, ngon chiều với em.
Sản vật có loại do thiên nhiên ưu đãi, cũng có loại do con người vất vả làm ra, nhưng tất cả đều được ca dao nhắc đến bằng một thái độ trân trọng tự hào.
Khoai lang hòn Chúa
Đậu phụng hòn Dung
Chồng đào vợ mót đổ chung một gùi.
Ca dao sản vật Khánh Hoà thường đi đôi với tình cảm con người mà nhất là tình yêu đôi lứa. Không ít những câu ca dao mượn sản vật để tỏ tình, hay giãi bày tâm sự buồn vui, yêu thương, hờn giận:
Cây quế Thiên Thai mọc bên khe đá
Trầm nơi Vạn Giã hương toả Sơn lâm
Đôi đứa mình đây như quế với trầm
Trời xui, đất khiến sắt cầm trăm năm
Trầm hương quí còn bởi nó được dùng làm thuốc chữa bệnh. Nó gắn bó với con người khi ốm đau, trái gió trở trời, thất thường mưa nắng, với tình chồng, nghĩa vợ hôm sớm, buồn vui, tan hợp. Trầm hương nhắc người ta đừng quên nhân ngãi ân tình.
Anh ngồi trong bếp lửa đau cái bụng
Em ngoài cửa nát nửa lá gan
Biết thuốc chi mà chữa bệnh cho chàng
ấy trầm hương cho uống sao chàng vội quên.
Có thể nói ca dao về phong cảnh và sản vật Khánh Hoà khá phong phú. Đó là sự phong phú của một miền đất nhiều cảnh đẹp, nhiều sản vật quí, nhiều thức ăn ngon. Trong bối cảnh đó, con người là nhân vật trung tâm, với tình yêu thiên nhiên đất nước vô bờ, tình yêu con người đằm thắm sâu nặng và một thái độ trân trọng lịch sử.
II. CA DAO KHÁNH HOÀ VỚI CON NGƯỜI VÀ XÃ HỘI.
Một bộ phận lớn ca dao Khánh Hoà đề cập đến con người. Nói thiên nhiên, nói sản vật cũng để nói về con người. Trước tiên ta xem xét con người Khánh Hoà ở góc độ xã hội.
1. Về xã hội
Nếu như ca dao Bắc bộ và Nam bộ chứa đựng những bức tranh xã hội rộng lớn và đậm nét thì ca dao Khánh Hoà ít đề cập đến mâu thuẫn xã hội, đấu tranh giai cấp, vấn đề giàu nghèo, thân phận con người.
Vì sao vậy? Có phải Khánh Hoà từ ngàn xưa đã là một miền đất yên ổn?
Thực ra, dưới chế độ phong kiến, những vùng đất dù khác nhau cũng đều chung một gầm trời. Bất công, đau khổ, đói nghèo là căn bệnh vô phương cứu chữa của xã hội cũ.
Vậy mà trong ca dao Khánh Hoà ít khi có tiếng thở dài, than thân, trách phận, những lời phản kháng, hay thái độ vùng lên.
Những bi kịch phụ nữ như cảnh mẹ chồng nàng dâu, chồng ngược đãi, cảnh lẽ mọn, lao động nặng nhọc, nghèo túng… trong ca dao Khánh Hoà cũng không đậm đặc như ca dao của một số vùng đất khác.
Cái nghèo được nói đến trong ca dao Khánh Hoà nhưng chủ yếu là lời tâm sự, sẻ chia, không nhuốm màu bi quan, trái lại chứa đựng niềm hy vọng ở sự đổi đời.
Đừng than cái áo rách tay
Trời kia ngó lại vá may mấy hồi
Hôn nhân là một đề tài lớn trong ca dao của mọi miền đất nước. Từ các khía cạnh của đời sống hôn nhân và gia đình, ca dao phản ánh những vấn đề xã hội.
Ca dao Khánh Hoà đôi khi cũng có những lời than thở về tình duyên trắc trở, đổi thay, tan vỡ. Tình trạng gả bán, ép duyên, sản phẩm của những luật lệ phong kiến hà khắc: trọng nam khinh nữ, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy… đã đẩy nam thanh niên đến chỗ bế tắc. Họ yêu nhau nhưng không có quyền quyết định hạnh phúc của mình.
Lửa nhen mới bén duyên cầm
Trách lòng cha mẹ nỡ cầm duyên con
Tình yêu có thể vượt qua thử thách của không gian, đèo cao, dốc đứng, nhưng khó lòng vượt qua trở lực phong kiến mà hiện thân của nó không ai xa lạ chính là mẹ, cha của chàng trai, cô gái.
Trèo lên Đèo cả
Ngó xuống Vạn Giã – Tu Bông
Biết rằng phụ mẫu có đành không
Để em chờ, anh đợi uổng công hai đàng
Nhìn chung ca dao Khánh Hoà ít nói đến cái nghèo, ít nói đến mâu thuẫn giai cấp và các quan hệ xã hội phức tạp khác. Đây cũng là một đặc điểm rất đáng lưu ý.
Có lẽ nhờ sự ưu đãi của thiên nhiên nên từ bao đời người Khánh Hoà kiếm miếng ăn không đến nỗi quá nhọc nhằn như ở những vùng đất khác. Vì vậy mà trong ca dao Khánh Hoà ta cũng ít gặp những cảnh một nắng hai sương, lên thác xuống gềnh.
Mặt khác thiên nhiên Khánh Hoà không chỉ mưa nắng thuận hoà, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, mà còn rất hữu tình, chính thiên nhiên dã góp phần làm nên tâm hồn tính cách của người Khánh Hoà: gắn bó, giao hoà với cảnh vật, non nước và chan chứa tình yêu con người.
2.Về con người.
Tính cách con người ở một địa phương, một vùng đất nào đó được hình thành bởi rất nhiều yếu tố như: hoàn cảnh tự nhiên, xã hội, điều kiện lao động và quá trình lịch sử…
Người Khánh Hoà có lòng yêu quê hương đất nước sâu nặng. Tình yêu ấy thể hiện ở niềm tự hào về phong cảnh xinh đẹp, sản vật phong phú và những con người anh hùng đã làm rạng rỡ non sông.
Giá trị cao quí của độc lập tự do đã được người dân Khánh Hoà nhận thức sâu sắc. Mượn lời mẹ nói với con, thế hệ trước nói với thế hệ sau, ca dao đã nhắc nhở mọi người nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc độc lập tự do. Yêu nước, xả thân vì đất nước được xem là chuẩn mực đạo đức, tài năng của con người.
Nghe lời mẹ đứng lên đi
Nước không độc lập sống gì hỡi con
Trai tài yêu nước, yêu nhà
Nước kia có trọn thì nhà mới yên
Người Khánh Hoà vốn không ưa khuếch trương, sống thiên về nội tâm, tình cảm rất dồi dào và chân thành. Cách nói, cách bộc lộ tình cảm của ca dao Khánh Hoà không sôi nổi, bóng gió và có phần hoa mỹ như ca dao Bắc bộ, cũng không thẳng thắn, bộc trực như ca dao Nam Bộ. Tình yêu, tình vợ chồng, tình me ïcon, gia đình, tình người… tất cả được diễn đạt một cách rõ ràng, cụ thể, ít ẩn dụ xa xôi mà rất thắm thiết, rất thật.
Gió đâu bằng gió Tu Bông
Thương ai bằng thương cha , thương mẹ, thương chồng thương con.
Tu Bông là một vùng làng dưới chân đèo Cả, ba bề có núi bao bọc tạo thành cái rốn gió, xưa kia đất này còn gọi là Tụ Phong. Tục ngữ có câu “Mưa Đồng Cọ, gió Tu Bông”. Mưa Đồng Cọ rất lớn. Gió Tu Bông rất mạnh và xoáy. Tình cảm gia đình được ví như cái gió Tu Bông nồng nàn, mãnh liệt.
Tình cảm mẹ con không chỉ được sánh với núi cao, biển rộng, với những cơn gió quê nhà, mà còn được thể hiện bằng việc làm cụ thể, lao động chăm chỉ để phụng dưỡng mẹ già.
Cầm cần câu cá liệt xuôi
Lấy tiền mua gạo mà nuôi mẹ già
Hình ảnh “đèo”, “hòn” xuất hiện nhiều trong ca dao Khánh Hoà. Có lẽ đây cũng là một nét chung của ca dao miền Nam Trung bộ, dải đất Khu V dằng dặc, chạy ven biển, lắm núi, nhiều đèo, nhiều đảo.
Vợ chồng nghĩa nặng tình thâm cũng ví như con đèo sừng sững, ví như hòn đảo trơ gan giữa đất trời.
Đèo nào cao bằng đèo Rọ Tượng
Nghĩa nào trượng bằng nghĩa phu thê
Bao giờ Hòn Chữ bể tư
Biển Nha Trang cạn nước anh mới từ nghĩa em
Trai gái yêu nhau mượn hình ảnh con đèo, cái hòn để tỏ tình, thề thốt.
Anh thương em đặng nghĩa vuông tròn
Mấy sông cũng lội mấy hòn cũng qua
Ca dao Khánh Hoà nói về biển, về cá tôm cũng nhiều như nói về những con đđèo. Đã từ lâu đời người Khánh Hoà sống chủ yếu bằng nghề đi núi và đi biển. Do đó tình yêu, tình người gắn với quế, với trầm, với tôm cá, đó , đăng.
Đôi ta như cặp cá bè
Lênh đênh trên biển ai dè gặp nhau
Đôi ta như cặp cá sơn
Ăn trên mặt nước, đợi cơn mưa rào.
Và để nhắn nhủ nhau yêu thương, chung thuỷ, trai gái thường nhắc đến các công việc quen thuộc thường ngày của nghề biển
Anh đừng ham đó, bỏ đăng
Ham lê quên lựu, ham trăng quên đèn.
Từ ca dao Khánh Hoà ta có thể hình dung được diện mạo con người Khánh Hoà: yêu nhiều hơn ghét, thương nhiều hơn giận, lấy hoà khí làm trọng, không ưa đấu lý, lao động chân chỉ, luôn luôn có một niềm tin ở thời gian, cuộc sống và những giá trị.
Dó lâu năm dó thành kỳ
Đá kia lăn lóc có khi hoá vàng
Đó cũng là lý do vì sao những tâm trạng buồn chán, thất vọng bi lụy vắng bóng trong ca dao Khánh Hoà.
III.VÀI NÉT VỀ NGHỆ THUẬT CA DAO KHÁNH HÒA
1.Về thể thơ
Nói đến ca dao người ta thường nghĩ đến thể thơ truyền thống là lục bát. Thơ lục bát vốn có cấu trúc ưu việt, hoàn hảo: câu 6, câu 8, luật bằng, trắc, mạch thơ đi đều đặn, nhịp nhàng, tạo nên chất ngâm, điệu ru ngọt ngào. Đây là hình thức thơ cổ điển nhất của ca dao.
Theo thống kê của Bùi Mạnh Nhị trong cuốn “Ca dao dân ca Nam bộ” (3) cho thấy tỉ lệ thơ lục bát trong ca dao Bắc bộ cao hơn ca dao Nam bộ. Ca dao Bắc bộ có nhiều bài lục bát đạt đến trình độ điêu luyện, tinh xảo. Ca dao Khánh Hoà có những bài sử dụng hình thức lục bát nguyên vẹn nhưng nhìn chung là sử dụng hình thức lục bát biến thể nhiều hơn.
Đặc điểm của lục bát biến thể là câu trên 6 hoặc hơn 6. Câu dưới không phải là 8 mà là 10, 11 hoặc 12 tuỳ ý, nhưng vần thì tuân theo kiểu vần của lục bát.
Ví dụ:
Sóng sao bọt nước xanh xanh
Chàng bỏ thiếp cuối bãi đầu ghềnh đêm đông
Thiếp hỏi chàng có thương trọn hay không
Làm cho thiếp đợi, mất công thiếp chờ
Đôi ta gá nghĩa chung tình
Dù ăn cơm mắm ngủ ngoài đình cũng ưng.
Thể thơ song thất lục bát cũng được sử dụng trong ca dao Khánh Hoà
Dám đâu quên kẻ anh tài
Rèn gan sắt đá khôn nài bể dâu
Gương tuấn dũng làu làu Phạm Chánh
Cùng Phạm Long chung gánh nước non
Cha con trung nghĩa vẹn toàn
Cùng Nguyễn Sung nguyện mất còn có nhau
Bao phen cay đắng hận thù
Tam hùng tam kiệt nghìn thu trăng rằm
Nhìn chung ca dao Khánh Hoà ít sử dụng lục bát nguyên vẹn họăc song thất lục bát mà sử dụng nhiều lục bát biến thể và tổng hợp.
Đặc biệt thể thơ tổng hợp được sử dụng rất linh động, khéo léo, tạo nên cách nói tự nhiên, chân thật.
Sông Dinh có ba ngọn nguồn
Anh nhớ em băng đèo vượt suối
Nhưng chưa biết đường tìm đến thăm em
Ghé vô chợ Ninh Hoà mua một xâu nem
Một chai rượu bọt
Anh uống say mèn
Để quên nỗi nhớ thương.
Hình thức biến thể và hỗn hợp được sử dụng nhiều trong ca dao Khánh Hoà cho thấy hai điều. “Thứ nhất sáng tác dân gian chưa được kỳ công, tinh xảo như văn chương bác học. Văn chương bác học không có hình thức biến thể, thêm bớt số tiếng. Thứ hai, sáng tác dân gian thể hiện sự hồn nhiên, không gò bó, theo hình thức phóng khoáng của người bình dân” (4)
2.Về hình ảnh.
Như trên chúng tôi đã nói, trong ca dao Khánh Hoà có rất nhiều hình ảnh thiên nhiên, những cơn gió, ngọn núi, con đèo, bãi biển, tảng đá và những hòn (gồm các đảo hoặc gò đất, tảng đá nổi trên biển, trên sông). Những hình ảnh này được ca dao sử dụng với ý nghĩa tượng trưng cho vẻ đẹp, sự phong phú đa dạng của thiên nhiên và những phẩm chất của con người.
Chẳng hạn Hòn Chữ thể hiện sự bền vững, không xê dịch, chuyển dời với thời gian. Gió Tu Bông tượng trưng cho tình cảm con người nồng nàn, thắm thiết. Đèo Rọ Tượng là biểu tượng của tình chồng nghĩa vợ.
Hình ảnh thiên nhiên cùng với tên địa danh cụ thể trong ca dao Khánh Hoà làm nên sắc thái địa phương rõ nét.
3.Về ngôn ngữ.
Ca dao Khánh Hoà ghi lại những từ ngữ thuộc vốn từ địa phương. Qua đó ta hiểu thêm sắc thái ngôn ngữ, lời ăn tiếng nói của người Khánh Hoà (5).
Có thể liệt kê ra hàng loạt từ trong phương ngữ (mang sắc thái riêng về âm và từ ngữ):
Mược : mặc, hông: không, đửng: đừng, hồi: khi (lúc), ảnh: anh ấy, cổ: cô ấy, ổng: ông ấy, bả; bà ấy, trỏng : trong ấy, dơ: bẩn, chi: nào, chừng nào: khi nào, hổm rày: mấy ngày nay, coi, ngó: xem, nhìn xem: trông…
Ví dụ:
Anh thương em dưới dốc thương lên
Đá lăn mược đá miễn thương bền thì thôi
Xưa kia lời nói cũng in
Hoa tàn nhị rữa cũng nhìn hổng dong
Bây giờ nhị rữa hoa tàn
Con thơ trìu mến sao chàng vội dong
(Bài ca dao sưu tầm ở Ninh Giang, Ninh Hoà)
Anh ơi anh đửng ngậm ngùi
Một căn hai nợ anh ừ cho xong
Hồi thương nước đục cũng trong
Hồi ghét nước chảy giữa dòng cũng dơ
Lên non bẻ lá đề thơ
Trai không hết khó gái chờ mãn tang
(Bài ca dao sưu tầm ở Ninh Phong, Nình Bình, Ninh Hoà)
Việc sử dụng ngôn ngữ địa phương trong ca dao giúp ta xác định được nguồn gốc của nó, để phân biệt bài ca dao ấy thuộc miền đất nào góp phần sắc thái hoá tâm hồn, tình cảm của người bình dân
IV. VÀI KẾT LUẬN BAN ĐẦU.
Trên đây là một số nhìn nhận ban đầu về ca dao Khánh Hoà trên cơ sở tư liệu chúng tôi sưu tầm dược. Chắc chắn còn một số lượng lớn ca dao còn nằm trong trí nhớ của người bình dân ở các miền quê Khánh Hoà. Chúng tôi hy vọng công trình nghiên cứu, sưu tầm tục ngữ, ca dao, dân ca Khánh Hoà sẽ được tiếp tục hoàn chỉnh và nâng cao.
Nghiên cứu ca dao thường kết hợp với nghiên cứu dân ca, vì dân ca vốn có nguồn gốc từ ca dao, nhưng do điều kiện về tư liệu dân ca còn hạn chế, chúng tôi xin được trở lại vấn đề này vào một dịp khác.
Nghiên cứu ca dao Khánh Hoà phải đặt nó trong mối quan hệ với ca dao Nam Trung bộ, đặc biệt là miền đất Bình Định, Phú Yên vốn cùng với Khánh Hoà có những nét chung về hoàn cảnh địa lý, xã hội, phong tục tập quán và phương ngữ. Chúng ta đã từng gặp những câu ca dao phản ánh mối quan hệ giao lưu giữa ba miền đất.
Tiếng đồn Bình Định tốt nhà
Phú Yên tốt ruộng, Khánh Hoà tốt trâu
Hay
Ai về Bình Định thăm cha
Phú Yên thăm mẹ, Khánh Hoà thăm em.
Phải chăng đây chính là dấu hiệu giao thoa của một vùng văn hóa Nam Trung bộ phong phú, vô tận mà chúng ta cần có kế hoạch khai thác trong tương lai.
CHÚ THÍCH:
1.Tuyển tập Max – Ăng ghen – NXB Sự thật – Hà Nội 1991 – trang 505
2.Quách Tấn – Xứ Trầm hương – NXB Tổng hợp Khánh Hoà 1992 – trang 156
3.Bùi Mạnh Nhị – Bài “Một số đặc điểm nghệ thuật của ca dao Nam bộ – ca dao Nam bộ – NXB Tp. Hồ Chí Minh 1984 – trang 70
4.Nguyễn Xuân Kính – Tìm hiểu cảnh vật và người Khánh Hoà qua ca dao tục ngữ – Văn hoá nghệ thuật số 12/1997
5.Nguyễn Thành thi – Từ mấy tiếng quê trong những lời quê – Khánh Hoà diện mạo văn hoá một vùng đất – Tạp chí Văn hoá thông tin Khánh Hoà 1998 – trang 39.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.Thơ ca dân gian Phú Khánh – Trần Việt Kỉnh, Nguyễn Chí Trang, Hà NamTiến – Ty Văn hoá Phú Khánh 1982.
2.Xứ Trầm hương – Quách Tấn – NXB Tổng hợp Khánh Hoà 1992
3.Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam – Vũ Ngọc Phan – NXB Khoa học Xã hội – Hà Nội – 1978
4.Khánh Hoà diện mạo văn hoá một vùng đất – Tạp chí Văn hoá Thông tin Khánh Hoà 1998
5.Phê bình, bình luận văn học – Ca dao, tục ngữ, vè- NXB Văn Nghệ Tp. Hồ Chí Minh 1997
6.Đất nước con người Khánh Hoà - Trần Việt Kỉnh – Trung tâm Thông tin Cổ động Khánh Hoà xuất bản 1989.