Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.068
123.234.200
 
Vào Việt Nam (1533-1659), Công Giáo đã gửi Những Giáo Sĩ Trách Nhiệm
Trần Văn Cảnh

Từ năm 1615 đến năm 1659, trong khoảng thời gian 45 năm truyền giáo, các cha Dòng Tên đã thâu nhận một kết quả ngoài sức tưởng tượng : 100.000 người đã được đức tin. Vì đâu mà có kết quả này ? Dĩ nhiên, trước nhất đó là nhờ Ơn Chúa. Nhưng một phần cũng nhờ sự làm việc cần cù, thông minh và phương pháp khôn khéo. Phản ứng đầu tiên, cũng là tâm tình và nhận xét dầu tiên, tự nhiên xuất hiện trong tâm tư chúng ta. Đó là, về việc truyền giáo, vào Việt Nam, các cha Dòng Tên đã là những giáo sĩ truyền giáo trách nhiệm.

 

Theo phương pháp quản trị chất lượng ISO 9000, tám nguyên tắc căn bản để thành công trong việc quản trị đã được xác định. Trong 8 nguyên tắc này, 4 nguyên tắc liên hệ đến 4 tác nhân. Đó là : về khách hàng, làm việc gì cũng phải hướng đến họ ; về người cung ứng, phải nghĩ đến lợi nhuận của họ ; còn người quản lý thì phải có trách nhiệm ; người cộng tác thì phải nhiệt tình. Quản lý trách nhiệm, hiểu theo cả hai nghĩa đọc xuôi và đọc ngược : đọc xuôi thì nhấn mạnh đến người quản lý có trách nhiệm, người dám cam kết, dám làm, người dám dấn thân, dám tiêu dùng tài lực ; và đọc ngược thì nhấn mạnh đến trách nhiệm của người quản lý, lập hệ thống hướng đến « khách hàng » , chỉ hướng đi, điều hành nhân viên và phương tiện, thiết kế, hành động, trông coi, kiểm soát, sửa đổi, thích ứng, cải tiến. Các giáo sĩ Dòng Tên đến truyền giáo ở Việt Nam trong thời Bảo Trợ, nói theo ISO 9000, quả thật đã là những giáo sĩ truyền giáo trách nhiệm, luôn luôn nghĩ đến việc truyền giáo cho lương dân.

 

Các nguyên tắc quản trị chất lượng ISO 9000 hiện đang được áp dụng trên khắp hoàn cầu, trong đó có các cơ quan và xí nghiệp Việt Nam. Thực ra, những nguyên tắc này đã được Tôn Tử nghĩ đến ngay từ thế kỷ thứ -VI, trước giáng sinh. Theo phương pháp của Tôn Tử, người quản lý trách nhiệm là người làm việc theo 6 tiêu chuẩn : chính đạo, thiên thời, địa lợi, nhân hòa, tướng tài, pháp minh.


1. Lập chính đạo

 

Chính đạo là đường ngay ngõ chính, thuận với lẽ trời, đúng với sự thật, hợp với công lý, thuận với lòng người. Để biết việc truyền giáo do các giáo sĩ dòng Tên thực hiện có hợp với chính đạo hay không, ta phải biết các ngài rao truyền điều gì ? Trong sách giáo lý « Phép giảng tám ngày cho kẻ muốn chiụ phép rứa tội,» in năm 1651, cha Đắc Lộ đã ghi rõ những điều ngài và các đồng bạn đã rao giảng trong một khóa trình 8 ngày, một kiệt tác, mà hẳn thật các nhà truyền giáo hiện đại cũng nên đọc lại.

 

Khởi đầu cắt nghĩa về Đạo Thánh Đức Chúa Trời, chẳng phải là đạo nước nọ nước kia, nhưng là đạo thánh và trước và trọng hơn mọi nước thiên hạ. Ngày thứ hai giảng về Đức Chúa Trời là ai, Đức Chúa trời ở đâu, bởi đâu mà có Đức Chúa trời. Ngày thứ ba giảng về việc Đức Chúa Trời tạo dựng trời đất muôn loài trong 6 ngày. Ngày thứ tư giảng về lịch sử loài người, con cháu Adong, sinh ra nhiều đạo, với nhiều lầm lạc. Song le đạo chính, là đạo thờ phượng một Đức Chúa Trời, thì nhận một Chúa Cả làm nên mọi sự, thật là cội rễ đầu. Và xưng linh hồn ta là tính thiêng liêng hằng sống vậy, chẳng hay chết. Đó là điều chẳng những đã do Đức Chúa Trời truyền cho, mà lại vì có lẽ trong ta dạy vậy. Ngày thứ năm, giảng về Một Đức Chúa Trời Ba ngôi. Ngày thứ sáu giảng về thầy thuốc cả. Ngày thứ bảy giảng về con chiên lành và chó sói dữ. Ngày thứ tám giảng về mười bậc thang(điều răn) lên thiên đàng (2).

 

Những điều mà các giáo sĩ truyền giáo giảng dậy chẳng những là những điều mà các ngài đã chân tình cảm nhận, mà còn được lương tri xác nhận và thuận với lòng người. Dấu chứng hợp với lòng người rõ nhất là việc lương dân xin trở lại đạo. Cha Đắc Lộ đã kể lại cuộc ngài gặp gỡ lần đầu tiên người Đàng Ngoài ở Thanh Hóa, ngày 19/03/1627, một cách đơn sơ nhưng qua đó, rõ rệt người ta thấy được chính đạo trong công việc của ngài : « Mãi tới sáng ngày lễ thánh Giuse hiển vinh, trời trở nên quang đãng, hình quái dị tan và sóng hạ, chúng tôi khám phá ra một cửa biển người Đàng Ngoài gọi là Cửa Bạng. Chúng tôi muốn gọi là cửa thánh Giuse, vì chúng tôi may mắn được vào bến đúng ngày lễ kính Người và chúng tôi hy vọng Thiên Chúa để Ngài làm vị quan thày bảo hộ và làm cha nuôi giáo đoàn Đàng Ngoài mới khai sinh này. Viên hoa tiêu liền xuống một chiếc xuồng để thăm dò bến, khi thấy là tốt và có thể cập bến được thì chúng tôi dễ dàng đi xuống và cảm tạ Thiên Chúa đã dẫn chúng tôi may mắn tới nơi.

 

Chúng tôi vừa cập bến thì một số đông dân xứ này thấy chúng tôi đến gần liền lấy thuyền của làng lân cận đến mừng chúng tôi, chất vấn chúng tôi xem chúng tôi là những người nào, từ đâu mà tới và đem những hàng hóa mới lạ vào. Tôi làm thông ngôn cho tất cả đoàn thể, tôi đáp đây là một chiếc tàu người Bồ, những người khắp vùng Đông phương đều khá biết về giá trị võ khí và hàng hóa tinh xảo từ lâu vẫn đem tới xứ này và nhân dịp này họ tới bán cho người Đàng Ngoài một hạt trai quý  mà không đắt để cho người nghèo khó nhất cũng có thể mua được miễn là có ý ngay lành. Thấy dân chúng tỏ ra muốn xem, thì tôi cho họ hiểu là hạt trai này không thể coi bằng con mắt thân thể nhưng bằng con mắt tinh thần biết phân biệt thật giả. Nói tóm lại, người ta đến giảng dạy đạo thật có giá hơn hết các hàng hóa của người Ấn Độ và một mình nó có thể mở đường tới cõi phúc đích thực và trường cửu.

 

Khi nghe nói về điều mà họ thường gọi là đạo theo ngôn ngữ các nho sĩ và Đàng theo ngôn ngữ bình dân có nghĩa là đường lối thì họ tò mò muốn tôi cho biết đạo thật và đàng thật mà chúng tôi định rao giảng. Sau đó tôi lấy đề tài thảo luận với họ về nguyên lý vạn vật, tôi quyết định công bố dưới danh hiệu Chúa Trời đất, vì không tìm được trong ngôn ngữ họ một tên riêng để chỉ Thượng đế, vì họ thường gọi là Phật hay Bụt với nghĩa nơi họ là một thần. Nhưng biết việc tôn thờ vị này không được trọng dụng nơi những người quyền quí và các nho gia trong nước, nên tôi tưởng không nên dùng danh hiệu ấy để xưng Thiên Chúa, nhưng tôi dùng danh hiệu mà thánh Phaolô tông đồ đã xưng khi giảng cho người thành Atênê đã dựng bàn thờ kính Thiên Chúa vô danh, Thiên Chúa mà theo như ngài, đã nói với họ: các người thờ mà chẳng biết, đó là Đức Chúa trời đất. Thế là dưới danh hiệu đầy uy nghi trong tâm trí lương dân, ngay ban đầu tôi rao giảng đạo thật trước hết và chính yếu nhất là thi hành nghĩa vụ chính đáng của ta đối với đức Chúa trời đất theo cách thức Người mạc khải cho ta. Giảng cho họ như thế, tôi tin là họ có đủ khả năng hiểu và hai người trong đám thính giả đã động lòng, sau mấy ngày được dạy dỗ đầy đủ hơn về những niềm tin của chúng ta và đã chịu phép rửa tội cùng cả gia đình. Người thứ nhất chúng tôi gọi là Giuse để dâng kính bạn thánh Đức Trinh Nữ mà ngày lễ Người là ngày chúng tôi cập bến, còn người thứ hai là Inhaxu vị tổ phụ dòng chúng tôi » (3).

 

2 & 3. Lượng thiên thời, Định địa lợi,

 

Lượng thiên thời và định địa lợi là xem môi trường địa dư, lịch sử và xã hội, nhìn địa hình, thế đất, lòng người ; quan sát văn hóa, đặc biệt là văn hóa làng xã và gia đình Việt Nam, ghi nhận những chi tiết của đời sống cụ thể hàng ngày. Một số tài liệu tiêu biểu nói lên ý chí muốn lượng định thiên thời địa lợi và sự hiểu biết của các giáo sĩ truyền giáo Dòng Tên về địa lý, lịch sử và văn hóa, đời sống Việt Nam (4) :

·         Gaspar Luis, S.J. : Tường Trình về Đàng Trong, 1621 ;

·         Giuliano Baldinotti, S.J. : Tường Trình về Đàng Ngoài, 1626.

·         A. Francisco Cardim, S.J. : Tường Trình về Đàng Ngoài, 1595-1659.

·         Gioan Maracci, S.J. : Tường Trình về Đàng Ngoài, Đàng Trong, Cao-Miên và Lào, 1649. 

·         Đắc Lộ : Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài, 1650, 

·         Đắc Lộ : Hành trình và truyền giáo, 1951,

·         Đắc Lộ : Phép giảng tám ngày, 1651…

 

Sự hiểu biết về thiên thời địa lợi này đã được đem ra áp dụng ngay cả vào việc dậy giáo lý. Trong « Phép giảng tám ngày », cha Đắc Lộ đã nhắc đến quan niêm « sinh quí, tử qui », đến tam giáo ở Việt Nam.

Cho biết sự ấy tỏ tường, thì phải nhớ lời đất Annam này nói liên: “Sống thì gửi, chết thì về” (nói chữ: sinh là kí dã, tử là quy dã). Song le thì phải hay đời sau có hai quê: một là quê lành, hai là quê dữ; quê trên, quê dưới, thiên đàng, địa ngục. Vì chưng trên trời thì có thiên đàng: ai đến được trên ấy thì chịu 3 hằng hằng vui vẻ vậy » (5).

 

Lộn lạo tiếng nói đoạn, thì mới ra nước Đại minh, mà Annam thì chịu đạo bởi nước ấy. Khi lộn lạo tiếng nói đoạn, mà Đại minh phải mất tiếng nói trong đạo thật, mà lại chẳng còn có kính truyền đạo thật, thì phải phân ra nhiều đạo vạy. Như thể kẻ lạc đàng thật, thì lạc đi nhiều đàng, mà những đàng vạy. Song le Đại minh vốn thì có phân ra ba đàng cả, những vạy chẳng kể nhiều đàng tiểu mọn khác, cũng vạy vậy. Đàng thứ nhất là đàng về kẻ hãy chữ, gọi là đạo Nho. Đàng thứ hai là đàng kẻ thờ quỷ, ma làm việc dối, gọi là đạo Đạo. Đàng thứ ba là đàng kẻ thờ bụt, gọi là đạo Bụt » (6).

 

Ngài cũng nhiều lần nhắc đến văn hóa gia đình việt nam, như đạo Tam Phụ : Cha, Vua, Trời : Bây giờ ta phải hay có ba đấng bề trên, gọi là ba cha, ta phải thờ, ở đấng nào, cho nên đấng ấy. Đấng dưới là cha mẹ sinh thân xác cho ta; đấng giữa là vua chúa trị nước; đấng trên là Đức Chúa trời đất, làm Chúa thật trên hết mọi sự. Có ba đấng này ta mới được sống, được ở.

Vì chúng ta có cha mẹ, thì mới được thân xác thịt này sinh ra mà chớ; song le linh hồn ta chẳng phải bởi cha mẹ mà ra đâu. Ta chịu ơn mẹ vì có chịu thai, mà ta ở trong lòng mẹ chín tháng mười ngày, chịu khốn khó mà đẻ ta, đoạn ba năm bú mớm. Có khi thì mẹ cất của miệng mình mà cho con ăn; cũn có khi mẹ ăn miếng đắng mà miếng ngon để dành cho con ăn. Lại có khi mẹ nằm chốn ướt, mà chốn ráo để cho con nằm. Cha đẻ con thì lo việc nuôi nấng. Vì vậy có khi thì cha thức sớm chẳng ngủ, mà làm nghề nọ nghề kia, chạy xuôi chạy ngược, kiếm của mà nuôi con. Thật con thảo kính cha mẹ thì thậm phải, ví bằng có ai chẳng thảo kính, chẳng khứng vâng phép cha mẹ, thật thì có tội trọng » (7).

 

Hay đạo hiếu thảo với cha mẹ, ông bà, tổ tiên : Ấy vậy mà lời răn thứ bốn trong kinh Đức Chúa trời, gọi là răn thứ nhất trong Lời hứa, thì dạy ta thảo kính cha mẹ cho nên. Mà hễ là kẻ bề trên, cũng gọi là cha mẹ. Lại sự thảo kính thì hằng có bốn phần, là yêu mến, kính dái, chịu luỵ, giúp cho mọi sự. Yêu mến là chớt ghét, chớ muốn sự dữ cho người, lại ước mọi sự lành cho, mà cầu vậy cùng Đức Chúa trời. Kính dái là ở khiêm nhường cùng, mà chớ mất lòng người, dầu mình làm, dầu miệng nói. Chịu luỵ là vâng phép người mọi việc khíên ta phải lẽ, huống lọ khi khiến ta sự về ích cho ta lành đời đời. Mà giúp cho mọi sự người có dùng thể nào, thì phải giúp, nhất là khi đã già cả, hay là phải đau nặng. Ví bằng người còn thiếu sự về linh hồn cho lành, (như thể khi cha mẹ chưa biết Đức Chúa trời, hay là có lạc đàng về cho được lành đời đời), khi ấy càng phải giúp hết sức, càng việc về linh hồn cho lành thì trong hờn việc về xác » (8).

 

4. Tạo nhân hòa,

 

Nội dung những điều các giáo sĩ truyền giáo rao giảng cho dân chúng Việt Nam là những điều hợp với lương tâm, hợp với lễ phải. Đó là điều chúng ta vừa xem ở số A1 trên đây, khi nói về chính đạo. Ở đây, khi nói về nhân hòa, ta có ý nói về hoàn cảnh chung quanh, về những người có trách nhiệm trong quốc gia và trong xã hội. Trong tất cả thời kỳ truyền giáo phôi thai, chúng ta lưu ý rằng, lúc khởi đầu, các giáo sĩ luôn luôn được các vua chúa kính trọng và mến phục. Và trong các quan lại, nhân vật hoàng gia, nho sĩ, trí thức, thậm chí cả những bậc tu trì phật giáo, có nhiều người đã chấp nhận, thuận theo và gia nhập đạo Công Giáo. Ta có thể bảo rằng các giáo sĩ truyền giáo luôn quan tâm đến việc tạo nhân hòa. Sau đó, vì những lý do khác nhau, các vị có thể bị ghen tương, bị hiểu lầm, bị ganh tỵ, khiến nhiều vị đã bị cấm giảng đạo, bị trục xuất.

 

Ngay từ khi mới tới Cửa Bạng Thanh Hoá, Cha Đắc Lộ đã được dẫn đến gặp chúa Trịnh Tráng. Ngài viết : « Người ta dẫn chúng tôi tới phủ chúa, lúc đó chỉ nghĩ tới chiến tranh. Chúa cầm đầu một đạo quân lớn gồm có một trăm hai mươi ngàn người và bốn trăm thuyền chiến. Người Bồ đến lạy chúa và dâng phẩm vật. Tôi cũng đi với họ. Ngoài những phẩm vật khác, tôi dâng chúa một đồng hồ có bánh xe và một đồng hồ cát, nhưng chúa không ngó tới vì còn mải sửa soạn cộc hành quân chống chúa Đàng Trong. Chúa truyền cho chúng tôi đợi chúa trong tỉnh thành này, nơi chúa để lại hết các hành trang và cung phi. Chúa cũng cho một toán binh hộ vệ chúng tôi.

 

Trong hai tháng trời, chúng tôi được thong dong thu lúa đầy kho Thiên Chúa, rửa tội cho hai trăm người. Thật là được mùa dư dật. Khi chúa bại trận nặng nề trở về thì chúng tôi ra mắt. Lúc này trí óc thảnh thơi, chúa tiếp đón chúng tôi rất niềm nở. Tôi dâng chúa một cuốn sách về toán học, bì nạm chữ vàng, in bằng chữ hán. Nhân dịp tôi cũng cắt nghĩa cho chúa biết sự xoay vần trời đất cùng các tinh tú, từ đó tôi đề cập tới Đức Chúa Trời. Chúa để ý nghe suốt hai tiếng đồng hồ, ấy là đã mệt nhọc vì đường trường. Chúa tỏ ra hài lòng được nghe nói về đạo thánh của ta, chúa cũng mời tôi năng lui tới phủ chúa. Bài giảng thứ nhất này không vô ích, có một quan sang trọng, sau khi nghe, đã thấy được ơn Thiên Chúa và đến xin chịu phép rửa tội.

 

Tôi được hân hạnh chúa vời tới thuyền chúa nhiều lần và còn mời tôi ngồi bàn tiệc với chúa, theo kiểu dân xứ này, mỗi người một bàn riêng. Chúa để tôi ngồi cạnh chúa và có nhã ý cho tôi dùng những món thịt ngon nhất tốt nhất mà chúa có. Tôi phải vận động để được ở lại trong đất nước này, khi tàu người Bồ lên buồm trẩy đi. Tôi liền kiếm khắp nơi một người bạn nói dùm cho tôi một tiếng. Nhưng ai cũng chối từ, chỉ có Thiên Chúa nói cho tôi và cho tôi thành công không ai dự phần vào.

 

Chúa với tôi vào thuyền để chỉ dẫn cho chúa biết đồng hồ dùng vào việc gì và đồng hồ cát sử dụng thế nào, hai phẩm vật tôi đã dâng. Sau khi bái chào chúa, tôi lên dây đồng hồ và cho đánh giờ, và đồng thời tôi lất đồng hồ cát, cho chúa biết, khi tất cả cát rơi xuống đáy thì đồng hồ lại đánh giờ. Chúa thấy rất lạ và hỏi xem tôi có nói thật hay không. Tôi liền ngồi xa chiếc đồng hồ, vì sợ chúa tưởng tôi xờ mó vào đồng hồ. Tôi cũng bắt đầu giảng về nguyệt thực nhật thực, trong khi chờ đợi. Chúa vẫn đăm đăm vào đồng hồ cát và khi cát đã rơi xuống đáy thì chúa cầm trong tay nói: hỏng rồi, đồng hồ của khanh không đánh. Chúa vừa nói thì đồng hồ liền đánh giờ như tôi đã báo trước. Chúa lấy làm thích thú và chúa bảo tôi nếu tôi muôn ở đây hai năm với chúa, chúa vui lòng tiếp tôi nhiều lần nữa » (9).

 

5 & 6. Dụng tướng tài và đặt pháp minh

 

Trong công việc truyền giáo, các giáo sĩ truyền giáo thông minh, dấn thân và chuyên nghiệp là chính yếu. Nhưng các ngài đã ngay từ những lúc đầu nghĩ đến việc đào tạo các giáo dân ưu tú Việt Nam và tuyển chọn họ làm những phụ tá và cán bộ dắc lực. Cùng với các giáo sĩ truyền giáo, các giáo dân ưu tú này, gọi là các thầy giảng, đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc rao giảng tin mừng và trong những kết quả tốt đẹp đạt được. Các thấy giảng có sứ mệnh truyền giáo trong gia đình họ, trong làng xã họ, và xa hơn nữa trong những nơi mà các giáo sĩ gởi họ tới. Các thầy giảng cũng là một trong yếu tố tổ chức quan trong trong hệ thống Nhà Đức Chúa Trời của những địa điểm truyền giáo mà các giáo sĩ đã đặt ra để làm vững giáo xứ, tạo ra một linh tông, khích lệ việc đào tạo giáo sĩ bản địa. Về các thầy kẻ giảng này, cha Đắc Lộ tỏ ra rất ưu ái và thán phục. Ngài viết : « Giáo dân vẫn rất sốt sắng như mấy năm về trước. Vì thế tôi không nói gì riêng ở đây, nhưng tôi không thể không nói tới ơn Chúa ban cho tôi và đồng thời kích động mười người trai trẻ hợp tác với tôi trong việc giảng đức tin cho dân xứ này. Tất cả đều ở nhiều tỉnh khác nhau mà tới, nhưng họ chỉ có một tâm hồn thuộc về Chúa và hoàn toàn tận tuỵ ở Giáo hội. Trong số đó có ba người Chúa dành cho phúc tử đạo: Anrê từ tỉnh Phú Yên tới tìm tôi, Inhaxu con nhà sang trọng, vì là quan tòa, thông minh, rất thông thạo chữ Hán, nhất là rất nhân đức, một vị thánh đích thực, gốc ở tỉnh miền bắc, sau khi chịu phép rửa tội thì không muốn rời tôi, và thực ra tôi được gặp Inhaxu thì không lấy gì làm sung sướng hơn.

 

Người thứ ba là Vincentê, từ lâu nài xin tôi cho vào số những người khác. Thân phụ anh là một giáo dân đạo cũ ở tỉnh Quảng Ngãi, ông đã đem đến trình tôi, mặc dầu anh là cột trụ nâng đỡ gia đình và cây gậy của tuổi già.

 

Còn bảy người khác thì cũng tương tự như ba người trên. Tất cả chúng tôi cùng nhau đi khắp các tỉnh, các làng các xã ở Đàng Trong. Thiên Chúa phù hộ ban ơn giúp đỡ chúng tôi và số giáo dân trong một thời gian ngắn đã thêm được hơn một ngàn » (10).

 

Cũng trong tài liệu « Hành trình và truyền giáo », trong chương sau, chương 23, cha Đắc Lộ viết tiếp về các thấy giảng : « Sau khi ở gần hai năm và đi thăm hết cả tỉnh Đàng Trong, không ra mắt công khai, chỉ hoạt động ban đêm thì tôi được tin người Bồ, trong khi tôi đi vắng, đã tới cửa Đà Nẵng, để rồi từ đó trẩy về Macao. Trước khi họ khởi hành, tôi đã tới gặp họ và tất cả đều muốn cho tôi cùng về với họ. Họ sợ chúa cả giận. Theo họ thì chúa vui lòng để tôi ở lại ba tháng sau, như thế tôi giúp giáo dân hơn là cứ phải lẩn tránh.

 

Tôi đồng ý và trước khi ra đi, tôi nghĩ nên gắn bó mười thầy giảng bằng một lời tuyên thệ cũng như tôi đã làm ở Đàng Ngoài khi tôi rời bỏ họ. Chúng tôi chọn ngày lễ đấng thánh tổ phụ Inhaxu để cử hành nghi lễ. Cả mười đầy tớ Chúa công khai đến nhà thờ, có mặt toàn thể giáo dân. Họ cầm nến trắng trong tay, phục trước bàn thờ, rồi thề sẽ phụng sự Giáo hội, không lập gia đình và vâng lời các cha dòng đến giảng ở đất nước này hoặc những vị thay thế các ngài.

 

Họ đọc lời thề rất sốt sắng và cảm động tới rớt nước mắt, làm cho tất cả cử tọa đều phấn khởi. Còn tôi, đứng gần bàn thờ, tôi vui mừng quá đỗi, khi thấy những người lành thánh hy sinh tận hiến cho Chúa một cách rất thành thực, tâm trí tôi ngợi khen Chúa và mắt tôi tuôn trào dòng châu lệ. Sau đó tôi ra lệnh cho họ phải theo khi tôi vắng mặt. Tôi đặt Inhaxu là bề trên và ai cũng bằng lòng vì là người lớn tuổi hơn cả, có khả năng hơn cả và thực ra cũng rất nhân đức như các anh em đồng sự.

 

Tôi chia họ thành hai toán, toán thứ nhất đi thăm các tỉnh phía bắc cho tới Đàng Ngoài, Inhaxu là toán trưởng và đem theo Anrê, toán thứ hai thì đi các tỉnh phía nam cho tới biên giới Chàm.

 

Thế là tôi trở về Macao vào tháng 9 năm 1643 còn họ trung thành làm tròn nhiệm vụ tôi uỷ thác cho. Thoạt đầu tất cả mười người đều cùng nhau ở lại một tháng trong nhà chúng tôi ở Đà Nẵng mà vì lương dân đã phá bình địa nên phải dựng lại. Trong khi đó, có mấy người ngã bệnh, có Anrê trong số đó, người rất nhiệt tâm nhưng sức yếu. Inhaxu là bề trên nhưng lại làm đầy tờ hầu hạ tất cả, đêm ngày săn sóc, không quản khó nhọc và không ngại việc hèn việc mọn để chữa chạy cho các tôi tớ tốt lành của thầy độc nhất là Chúa Kitô.

 

Khi khỏi bệnh, họ chia tay đi các nơi như tôi đã chỉ định. Năm người trẩy về phía nam và làm việc rất đắc lực, trong ba tháng đã rửa tội được hai trăm chín mươi ba người lương dân. Họ thấy không nên hoãn việc này để chờ tôi về. Họ còn chuẩn bị nhiều người khác để cho chính tay tôi làm. Việc này có tiếng vang lớn trong tỉnh Phú Yên, làm cho lương dân áy náy đến thưa với quan trấn thủ mới về trị nhậm và rất ghét giáo dân.

 

Ông ta liền cho đi lùng bắt hết các thầy giảng mới để trừng phạt. Họ cũng không còn nể bà Mađalêna, có họ với chúa, vợ quan trấn thủ cũ, chúa đã chuyển đi nơi khác 66. Bọn lính xấc láo ập vào nhà, lục soát các phòng để tìm các thầy giảng, nhưng may mà các thầy không ở trong thành này. Các thầy chỉ buồn vì đã bỏ lỡ dịp chịu khổ vì đức tin, các thầy thích được chết vì đạo hơn là giảng. Bà Mađalêna không buồn phiền vì chịu xỉ nhục đó, nếu vào trường hợp khác thì bà rất bực bội.

 

Trong dịp này có hai bà tỏ lòng kiên trung đặc biệt, một là bà Angela, bà đã khổ sở vì thấy mẹ chồng tên là Monica đã cho hạ một nhà nguyện vì sợ quan tòa tới phá. Do đó bà đã chết vì đau đớn. Bà không muốn sống sau tội ác tày đình do một giáo dân phạm, mẹ chồng bà vậy.

Người thứ hai là một bà quả phụ, bà cũng có một nhà nguyện. Kẻ địch muốn phá để đẹp lòng quan trên. Nhưng bà can đảm chống cự, lúc cương lúc nhu vì nhiệt thành tôn vinh Chúa. Cuối cùng nhà nguyện được an toàn cho dù ma quỷ điên cuồng và lương dân ác ý.

 

Trong khi được nhiều thành quả ở phía nam thì Inhaxu với bốn đồng sự cũng không kém thành công ở phía bắc. Trong có ít ngày mà đã rửa tội được ba trăm ba. Họ không ăn không ngồi rồi. Trước hết họ đến tỉnh chúa ở là Thuận Hóa. Ở đây được mùa rất tốt đẹp, do sự chuẩn bị của ba giáo dân can tràng. Ba người này đã lìa khỏi nhà, bỏ nơi sinh quán để tránh đám lương dân tức giận và hành hung.

 

Trước đây gần hai năm, khi đi qua xã Kẽ Đại, trong ba ngày tôi đã rửa tội được ba trăm người do các thầy giảng dạy dỗ trước. Lương dân căm tức vì thần giả trá của họ bị bại trận lớn. Chúng nhất định báo thù giáo dân. Trước hết chúng hành hạ thầy Augustino là người đã giảng dạy. Chúng trói thầy và để ở giữa chợ suốt một ngày, để phơi nắng buổi trưa, nhưng đầy tớ trung thành của Chúa đã thấy ánh sáng và một sức nóng bên trong mạnh hơn sức nóng thiêu đốt bên ngoài.

 

Còn một người tên là Phaolô, một người được kính nể trong xã này, nhưng vì thấy đức tin bị xâm phạm nên không muốn ở lại. Ông bán hết tài sản và dẫn con tên là Philipphê, cả hai rất sùng đạo, đi kiếm ăn nơi khác, nơi người ta không làm hại sự đạo. Ông chọn kinh đô chúa ở để có thể lẩn tránh trong đám quần chúng và đồng thời, có thể thu hoạch được nhiều thành quả hơn. Ông mở trường dạy học, ông một bên và con ông một bên, vì cả hai đều rất thông chữ Hán. Chỉ trong ít lâu ông đạt được ý nguyện, sửa soạn cho mấy người theo đạo và giao cho các thầy giảng làm phép rửa.

 

Hài lòng về can đảm của hai đầy tớ Chúa, Phaolô và Philipphê, Thiên Chúa muốn thưởng công cho vật chất ở đời này. Một hôm đi qua phố, tình cờ chúa gặp Phaolô mà chúa đã biết và mến chuộng từ xưa. Chúa hỏi thăm rất ân cần và giao cho chức quan tòa lúc này chưa có ai đảm nhận. Phaolô bỡ ngỡ vì cơ hội may mắn. Ông nhận thấy mình vì Thiên Chúa mà bỏ hết của cải nơi sinh quán nên Thiên Chúa đền bù cho tất cả những gì đã mất. Ơn huệ vật chất lớn lao này làm cho ông càng can đảm để giúp việc thiêng liêng và vật chất cho hết các giáo dân. Ông càng sốt sắng hơn trước và có thể nói đây là một Phaolô đích thực trong thành phố lớn này.

 

Còn về phần Inhaxu với toán binh tinh nhuệ hằng kiện toàn công trình mà ba giáo dân kia đã đặc biệt khởi sự. Thầy rửa tội, giảng và lấy lời đạo đức củng cố tinh thần giáo dân. Sau đó tới quê quán nơi sinh trưởng tên là Hemcun. Thầy thành thực muốn chinh phục đồng liêu, nhưng đúng như chân lý Chúa đã nói, thầy không khuyên nhủ được ai trở lại đạo. Người đồng hạng xưa kia vẫn quý chuộng thầy thì nay lại cho thầy là kẻ cuồng tín. Công việc không tiến triển, ngoài hai người thầy thương mến nhất, là mẹ và bà nội nay đã bát tuần. Thầy rửa tội cho cả hai. Rồi khi thấy sắp đến thời lúc tôi hứa trở lại, thì thầy rút lui về nơi tôi căn dặn để đón tôi: đó là cửa biển Hội An. Ở đây, tất cả đã gặp nhau, đem theo bao nhiêu của đã cướp được từ tay ma quỷ » (11).

 

 

LỜI KẾT

 

Thời kỳ Công Giáo vào Việt Nam, 1533-1659, cách nay đã 350 năm. Nhưng khi xem lại lịch sử truyền giáo đã được thực hiện trong thời này, người đọc không khỏi ngỡ ngàng khi nhìn thấy ở đó những công trình vĩ đại đã được các nhà truyền giáo thực hiện. Sự vĩ đại bên ngoài là số giáo hữu tăng thêm nhiều, thì ai cũng nhận thấy. Rất nhiều tài liệu đã đề cập đên.

Sự vĩ đại về phương pháp làm việc và quản trị truyền giáo, thì khó thấy hơn, nhưng một số nhà nghiên cứu đã nhận ra. Trong « Lịch Sử truyền giáo ở Việt Nam », linh mục Nguyễn Hồng đã xác nhận rằng : « Nhìn lại hoạt động truyền giáo của các thừa sai dòng Tên trong 50 năm ở xứ Nam (1615-1665) và 37 năm ở xứ Bắc (1626-1663) chúng ta thấy gì? Chúng ta phải công nhận các ngài thực là những người có công đầu trong lịch sử khai nguyên công giáo Việt Nam, những người xây dựng nền móng một giáo hội, nếu so sánh với các giáo hội miền Đông Á lúc đó, như Xiêm, Lào, Cao Miên, Trung Hoa, không kể Nhật Bản đang bị bách hại và đang đi đến chỗ tắt thở, có thể gọi là một giáo hội thịnh vượng nhất miền Đông Á, theo lối gọi của cha Đắc Lộ ». Sau đó, phân tích về « Những lý do thành công », cha Nguyễn Hồng đã nêu ra ba lý do, trong đó, « Lý do chính đưa đến thành công, đó là tinh thần và phương pháp truyền giáo của các cha, mà trong đó, những cha như Đắc Lộ, Majorica, De Pina và Buzomi là những vị tiêu biểu » (12). 

Như vậy, sau khi đã xem xét cách làm việc của các giáo sĩ dòng Tên, chúng ta không lạ gì với  những kết quả tốt đẹp ngoài tưởng tượng mà họ đã đạt được trong việc vào Việt Nam truyền giáo. Lý do vì họ giảng điều chính đáng và có cách làm việc rất khoa học ; tân tiến và quốc tế như những nguyên tắc quản trị chất lượng ISO 9000 ; kỳ cựu và việt nam như những nguyên tắc của Tôn Tử. Họ biết lập chính đạo, lượng thiên thời, định địa lợi, tạo nhân hòa, dụng tướng tài và đặt pháp minh.

 

Chú thích

(1). Đúc Cha Nguyễn Văn Nhơn, Chủ Tịch HĐGMVN, Diễn Văn khai mạcNăm Thánh 2010, tại Sở Kiện, ngày 24/11/2009

http://www.hdgmvietnam.org/dien-van-khai-mac-nam-thanh-2010/1079.83.6.aspx

(2). Giáo sĩ Đắc Lộ ; Phép giảng tám ngày ;

http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=detail&ib=87

(3). Đắc Lộ : Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài, Q2, Ch.3

http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=chapter&ib=111&ict=434

(4). Để Hiểu Lịch Sử Đạo Thiên Chúa ở Việt Nam đầu thế kỷ 17

Nguồn: http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=chapter&ib=77&ict=619

(5). Giáo sĩ Đắc Lộ, Phép giảng tám ngày, Ngày thứ nhất.

Nguồn : http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=detail&ib=87

(6). Ibid. ngày thứ bốn

(7). Ibid, ngày thứ nhất

(8). Ibid, ngày thứ tám

(9). A de Rhodes, Hành trình và truyền giáo, chương 8,

http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=chapter&ib=136&ict=319

http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=chapter&id=85&ib=136&ict=319

(10). Ibid, ch 21

(11). Ibid. ch. 23

(12). L.M Nguyễn Hồng, Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, Q. I, Sài Gòn, Nxb Hiện Tại, 1959, tr. 263-281

 

Trần Văn Cảnh
Số lần đọc: 2303
Ngày đăng: 27.04.2010
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Nhà văn Nguyễn Khắc Phê trả lời bạn đọc Văn nghệ Trẻ - Nguyễn Khắc Phê
Chất Dân Gian trong Thơ Nôm Nguyễn Khuyến - Trần Minh Thương
Góp thêm một cách hiểu về thơ nhìn từ thông diễn học hiện đại - Ngô Phương Quốc
Nhìn từ năm 2009, một số căn bệnh văn chương - Khánh Phương
Hữu Loan: nếu chiều mưa một cây đàn ghi-ta - Nguyễn Đức Tùng
Rượu Đế Trong Dân Gian Tây Nam Bộ Dưới Góc Nhìn Văn Hóa - Bùi Tuý Phượng
Để vinh danh truyện Kiều - Khải Nguyên
Tiếp nhận Trường phái hình thức Nga từ một chuyên luận khoa học - Hồ Thế Hà
Lạm bàn về Minh triết - Hà văn Thùy
Viết truyện theo hư cấu đời thường, hư cấu khả thể, và hư cấu phi thực - Trần Văn Nam