Cách đây gần một năm, tôi nhận dược tập thơ chép tay của nhà thơ Nguyễn Như Mây gởi tặng-có tựa là “ N Ú I “, khổ 20X10 cm-trên giấy pelure xanh, chữ viết màu đen-rất trang nhã! Tôi rất vui-cảm phục tấm lòng yêu quý thơ ca đặc biệt của anh.
Tháng trước đây-NNM có dịp về Trung-ghé Gò Bồi ( Tuy Phước/ Bình Định) là quê nội để dự ngày giỗ kỵ-đã ghé lại thăm tôi. Dịp này NNM lại tặng tôi tập thơ chép tay “ NÚI, Và Bản Thảo Thơ Không Đề” ( cùng khổ tập thơ chép tay trước ) nhưng dày dặn, công phu hơn! Tập thơ dày 108 trang -(chép một mặt giấy-không tính 12 trang đầu-cuối/ bằng giấy vân dày màu hồng/ xanh)-gồm 54 bài thơ , phần nhiều là bốn, sáu, tám câu,-bài dài nhất 15 câu .
Hỏi phải mất thời gian bao lâu mới chép xong 1 tập, nhà thơ cho biết:“ nếu khoái thỉ chỉ trong 1 giờ, có tập phải mất vài giờ, đôi khi cũng phài vài ba ngày!”. Vậy mà NNM đã cặm cụi trình bày bìa, chép thơ, rồi gởi tặng cho hơn 100 bạn bè trong cả nước-thật đáng nể!
Hơn một nửa số bài NNM dành viết về “Núi”: “Núi ơi/Sương khói/bềnh bồng/Ta/trần gian lắm/Núi đừng/ cười/ta..”. Tôi “ loại bỏ” không mấy quan tâm đến thể loại thơ/ hình thức ngắt câu-vân vân, mà chỉ “ đọc thơ” bằng sự tĩnh lặng như nhiên của trái tim mình! Mọi thứ hình thức “ tân/ cổ”-đều chỉ là một loại “ trang trí” phù phiếm-không cần thiết cho Thơ -khi câu chữ cứ chắp vá kỳ dị không rung lên chút hơi hướng gì của cảm xúc, của trí tuệ!
Cái nhìn thẳm sâu về “ Núi” qua bao biến chuyễn, đổii thay của đời người:
“ Hồi nhỏ ở nhà bên núi
lớn lên thấy núi bên nhà
tới khi râu tóc đã già
vẫn thấy núi còn chỗ cũ!”
Có một câu thiền rất quen này: “Khi tôi chưa học đạo, tôi thấy núi là núi, sông là sông. Khi tôi học đạo, tôi thấy núi không phải là núi, sông không phải là sông. Sau khi học đạo xong, tôi lại thấy núi là núi, sông là sông.”. Cái “ thấy” của nhà thơ lúc này là cái “ thấy” của người đã hiểu đạo-nhận biết lẽ nhiệm màu của van pháp! Cảnh giới của nhà thơ “ ngộ” được không khác cảnh giới của một thiền sư-dù chỉ trong giây lát!
Nếu có khác biệt chăng-đó là “ cái hồn nhạy cảm “ rất riêng của người nghệ sĩ khi đứng trươc núi mà thôi. Như là:
“ Mùa thu, núi ngủ trong mây
có người vào núi gánh đầy khói
sương
Một hôm qua nẽo vô thường
Nghiêng vai trút hết khói sương
xuống đèo…”
Giây phút “ thấy” tinh khôi tuyệt vời ấy về “ Núi” đã được Nhà thơ lập đi lập lại trong nhiều bài thơ rất tự- nhiên- như -là:
“ Ở xa, thấy núi thấp
tới gần, thấy núi cao
chẳng giống như chiêm bao
gần, xa đều mất hết! “
Hoặc tỉnh giác hơn khi quán về đời mình với núi:
“ Chưa lên núi, thấy sợ
núi cao vút tầng mây
tới rồi, ta mới hay
lòng mình còn hơn núi! “
Ví như sự đắm chìm trong mê lầm huyễn mộng của kiếp nhân sinh:
“ Đi trong núi không thấy núi
đi trong mây không thấy mây
không thấy ngôi chùa sương khói
khuất dần trong núi, trong mây”
Khởi từ nguồn xúc cảm thiết tha về “ Núi”- Nhà thơ đã hòa nhập, đã sống với, đã yêu thương, tâm tình bao điều với “ Núi” bằng một mối thâm tình tiền kiếp! Với ý thức của một người khát vọng tìm đạt chân lý- lẽ thật của đời sống, Nhà thơ đã hồn nhiên ghi lại phút giây “ ngộ” được của chính mình trước núi-thật sâu sắc! Tuy vậy- tư tưởng chủ đạo gắn bó lâu dài trong “ Núi” không là triết lý của Phật giáo-mà nó được kết hợp, quy tụ từ nguồn triết lý sống của Lão Trang nữa. Nó không tích cực dẫn người đọc đến một bến bờ nào-mà chỉ “ gợi lên”-mở ra-một chân trời thênh thang để người đọc tự mình bước vào. Tình cảm ấy về “ Núi” được tìm thấy bàng bạc trong nhiều bài thơ-tiêu biểu là:
“ Ngả lưng tìm giấc ngủ
giữa núi rừng lặng im
Chẳng ngờ suối và chim
róc rách hoài trong lá
Và, không ngờ-thật lạ
mình cũng chảy tràn lan
Cả một trời thu vàng
gập gểnh bao xác lá! “
Phần “ Bản Thảo Thơ Không Đề”-NNM còn dành viết về Tình Yêu-một tình yêu man mác, nhẹ lướt, mơ hồ với một phong cách thơ rất riêng –như là:
“ Hái cành hoa dại tặng Em
cài lên mái tóc vừa nhen nắng
chiều
hoa mang sương khói lưng đèo
bỗng nghe ấm tiếng trong veo Em
cười…”
Chỉ nói về “ hạt cát” thôi-nhà thơ cũng đã mở ra được cái mênh mông của Tình yêu:
“ Em bỏ quên đồi cát
vết rong rêu phiêu bồng
Làm sao biết mênh mông
giấu trong từng hạt cát
Làm sao nghe sóng hát
dội hết vài nhớ thương
Trong khi cả đại dương
giấu vào anh hạt cát ?
Thái độ tỉnh giác rất thơ mộng cần có trong cuộc tình, cuộc đời-để giữ cho lòng mình luôn tươi mát, hy vọng:
“ Dù đời không bất diệt
ta vẫn ngóng trăng Rằm
Dủ ta chỉ trăm năm
vẫn không buồn trăng khuyết “
Rất đôi khi, Nhà thơ cũng đã bị cái “ điêu tàn/ lênh đênh” của kiếp nhân sinh làm cho điêu đứng, choáng váng như bao người-nhưng, ngay trong giây phút ấy ( trốn vào trong núi đắng cay một mình (!) ) -Nhà thơ đã có được cái nhìn như thật- “ năm mươi năm mãi đi tìm chiêm bao”/ để xoa dịu dần nỗi “ điêu đứng/ chênh vênh” nọ: Đây là một tình cảm rất thường bắt găp trong thơ NNM –phải chăng đó là một cách giải bày “ nhân sinh quan”của anh trước thời cuộc?
“ Chính ta, kẻ đã điêu tàn
uống xong chén rượu thu vàng, về
đây
ngồi chờ ngày tháng tàn phai
trốn vào trong núi đắng cay một
mình…
Chính ta, kẻ đã lênh đênh
năm mươi năm mãi đi tìm chiêm
bao
- Có gì ngoài cõi trăng sao
treo trên trái đất bạc màu thế gian?
Sự thất vọng quá đỗi khi đã “ trốn vào trong núi” mà “ lòng mình thì phơ phất/như lau trắng đầy rừng?” là một hình tượng tiêu biểu cho bao cảnh đời hôm nay?
“ Ta tìm gì trong núi
khói sương hay lòng mình
Sương khói thì bồng bềnh
tìm chẳng bao giờ gặp!
Lòng mình thì phơ phất
như lau trắng đầy rừng… “
Thật cũng dễ hiểu-cuối cùng rồi cũng phải trở về với “ sát na hiện tại vô giá” mà tư tưởng Phật giáo luôn nhắc nhở cho tất cả-bởi dó chính là chân lý của dời sống ( hay triết lý sống đích thực) –Nhà thơ dần dần cũng “ ngộ “ ra :
“ Ngày mai chưa tới, ta chưa biết
-mặc kệ những gì sắp xảy ra…
chỉ biết hôm nay nhìn cỏ dại
ta còn thấy nở một màu hoa…”
Và vô cùng trân trọng:
“ Xin cảm ơn trời đất
bốn mùa đều nở hoa
và xin cảm ơn ta
đến Xuân là thay lá..”
Từ “ cái nhìn “ thẳm sâu vào sát na hiện tại mầu nhiệm-Nhà thơ cũng đã “ vỡ ra” nhiều điều quanh mình-tất tụ nhiên,tha thiết:
“ Cám ơn ánh sáng ngọn đèn
thâu đêm suốt sáng vẫn nhen nhóm
hồn
Cám ơn Người vẫn sớm hôm
Cầm cây đèn đứng soi đường cho ta…” (1)
( (1) phỏng ý một câu thơ của R.Tagore-thi hào Ấn độ-viết về Đức Phật).
Ngẫu nhiên ( hay hữu ý?)-bài thơ cuối cùng của “ NÚI và Bản Thảo Thơ Không Đề” – là nỗi đau chưa được chia sẻ, chưa có sự đồng cảm trong khát vọng “ đi tìm chiêm bao” của Nhà thơ như một nổ lực tích cực đem lại “ lẽ thật” cho cuộc đời -dù nhắm mắt hay mở mắt-cũng là huyễn mộng:
“ Dọc đường, ghé xin nước
chủ nhà hỏi: Đi đâu?
bảo : đi tìm chiêm bao…
chủ nhà không cho uống! “
Riêng tôi tin rằng : ” Với tấm chân tình và lòng nhiệt thành đến vói Thi ca, với đời sống-Nhà thơ sẽ tìm thấy dòng suối trong lành ngọt ngào tinh khiết trong một quãng đường sắp tới- không xa! “./.
Quê nhà
Cuối tháng 4/2010