Những người cầu thủ của đội bóng ba tôi đã lần lượt qua đời. Bây giờ chỉ còn lại độc nhất người trung phong tuyệt vời. Người ấy không lạ gì với tôi, ông là anh ruột của tôi, và là con cưng của ba mẹ tôi. Tình cờ ba tôi khám phá ra tài năng đá bóng của anh. Trong những trận tranh cúp toàn quốc anh đã làm say mê các khán giả, ba tôi lại càng tưng tiu anh hơn. Các cầu thủ trong đội tôn trọng và mến phục anh. Còn riêng tôi, thằng bé 6 tuổi, xem anh như một thần tượng trong suốt một khoảng thời gian dài của tuổi trẻ.
Hiện tại anh cũng như tôi đã thành những ông già. Tóc đã bạn phơ. Lưng đã còng. Mắt đã mờ. Răng đã rụng. Anh vẫn thức khuya, nằm trên ghế dựa, theo dõi những trận bóng đá tranh cúp thế giới cũng như trong nước. Anh quên cả sức khỏe kém cỏi của tuổi già.
Tôi vẫn thường lên thăm anh. Điều làm chúng tôi gần nhau hơn là khi chúng tôi nhắc lại những kỷ niệm thời xa xưa về những người thân yêu nhất của đời mình đã khuất bóng. Cha mẹ đã chết. Chị em đã bỏ nước ra đi tạm cư ở nước ngoài hơn 30 năm vẫn chưa về để anh em chúng tôi đoàn tụ. Những người cầu thủ trong đội bóng của ba tôi cũng được anh em chúng tôi nhắc tới. Nhờ anh tôi hiểu được nhiều về họ.
Anh cười móm mém rồi chậm rải kể lể:
- Nếu không có cái chết của anh Mai - người trung phong tuyệt vời trong đội banh của ba - thì chẳng bao giờ anh thành người cầu thủ. Anh Mai là một thanh niên cao to. Anh gốc người Nghệ An, sau khi Việt Minh vở mặt trận, anh chạy vào thị xã này. Anh từng là một cầu thủ của đội bóng nổi danh ở Hà Nội mà ba biết tiếng. Chính anh ấy đã truyền đạt lại cho anh những cú suýt banh bằng chân trái. Quả bóng bay xa và xoáy tròn làm thủ môn phía bạn phải chới với. Mỗi buổi sáng hai anh em dậy thật sớm, chạy bộ vài cây số, kéo ra tận bờ sông. Ở đó anh Mai huấn luyện cho anh cách lộn nhào, cách ngã mình, cách phóng người đứng dậy thật nhanh. Rồi bất ngờ, vào một buổi sáng bọn Tây đổ ập vào nhà bắt anh Mai trước sự ngỡ ngàng của mọi người. Bọn Tây bảo anh ấy là một trong những người lãnh đạo Việt Minh từ Bắc chạy vào. Vài ngày sau, bọn Tây mang anh Mai ra bờ sông. Một loạt súng bắn vào người Mai. Để tỏ lòng mến mộ tài năng đá bóng tuyệt vời của anh họ chỉ đặc ân cho Ba được đem xác anh Mai về chôn cất.
Như trong buổi diễn tuồng ở một gánh hát, cô đào chính thình lình ngã bệnh, không thể hủy buổi diễn, ông bầu luống cuống phải tìm người thay thế xứng đáng. Ở đội bóng cũng vậy. Ba tôi vừa thương tiếc anh Vĩnh, anh Mai vừa lo tìm người thế chân. Anh Tỵ biết được nổi lo lắng ấy. Anh cười nói với ba tôi:
- Người chú cần tìm ở quanh đây thôi. Sáng mai chú ra sân dự buổi tập dượt giữa hai đội A và B chú sẽ thấy.
Sáng hôm đó, ba tôi phải ẩn mình ở bụi chuối để theo dõi từng bước chân của anh Thương và ông lấy làm lạ tuy vóc dáng của anh Thương nhỏ nhắn nhưng anh lanh lẹ, dẻo dai, đầy phong độ. Ba tôi thắc mắc sao anh Thương lại có cách suýt bóng tuyệt vời như anh Mai. Anh Thương mới thổ lộ tất cả.
Từ đó Ba tôi càng thương và chăm sóc anh Thương nhiều hơn. Và từ đó anh Thương càng làm nủng để ba tôi chiều chuộng anh nhiều hơn. Một kỷ niệm làm anh Thương nhớ suốt đời. Như một vở kịch. Trong một chuyến lên Đà Lạt để tranh giải cúp vô địch toàn miền, trước giờ ra quân lại vắng anh Thương, ông hỏi ai trong đoàn cũng không biết anh ở đâu. Chị Chi thấy vẻ mặt cau có và luống cuống của ba tôi nên mới nói:
- Chắc anh Thương trên đường về. Anh ấy biết giờ này chuẩn bị trận đấu mà.
Thật vậy anh hối hả trở về khách sạn sau khi từ giả chị Hằng trong lần đến thăm chị. Anh tìm đến nhà chị, lên dốc, xuống dốc, quẹo phải, quẹo trái, trèo lên ngọn đồi thông, tuột xuống dưới thung lũng đầy hoa dã quỳ. Thấy mặt anh, chị Hằng tỏ vẻ giận dỗi vì anh ít viết thư. Anh phân trần, năng nỉ. Chị mới thông cảm. Anh chị làm lành, cùng nhau đi dạo dưới rừng thông và anh quên hết mọi việc. Đến lúc chị Hằng hỏi:
- Mấy giờ tập trung cầu thủ.
Anh hoảng hốt. Chị chỉ đường đi tắt. Anh chạy hổn hển mới về kịp. Ba tôi hỏi:
- Đi đâu về. Sao lại thở hổn hển và toát mồ hôi vậy?
Chi Chị buột miệng:
- Đến thăm người yêu mà.
Ba tôi la hoảng lên:
- Thôi! Hỏng rồi. Hỏng rồi.
Sẵn cầm trong tay khúc gỗ nhỏ, ông quăng xuống thềm nhà, đụng cạnh bàn văng ngang chân anh Thương. Anh Thương giả vờ trúng phải chân mình. Ăn vạ. Anh quỵ xuống, ôm lấy chân suýt xoa làm ba tôi thêm quýnh quáng. Sắp ra trận thi đấu mà cầu thủ què chân thì còn làm ăn gì được. Ông vội vàng chạy đến, tay chỉ vào ai đó bảo lấy dầu huynh diệp. Nhìn vẻ mặt tiu ngỉu, lo âu của ông, anh Thương không nở làm ba mình buồn lòng nên anh cười làm lành. Anh nói nhỏ như chỉ đủ cho ba tôi nghe:
- Suýt trúng thôi mà.
Ông mới hoàn hồn, mắng yêu:
- Tổ cha mày làm tao hết hồn.
Sau này tôi mới hiểu vì sao nghe anh Thương đến thăm người yêu mà ba tôi tỏ thái độ như vậy. Qui định ba tôi đặt ra cho các cầu thủ bóng đá là để giữ gìn phong độ và tâm tư thoải mái, thì trước khi ra trận một ngày các cầu thủ không được gặp người yêu hoặc ngủ chung với vợ mình. Gần vợ thì mất sức. Gặp người yêu thì hao tâm. Cả sức lực và tinh thần phải hòa hợp với nhau mới tạo chiến thắng.
Ba tôi nâng niu anh Thương vì anh là con trai đầu lòng mà còn là một cầu thủ xuất sắt đã mang về vinh quang cho đội bóng của ông.
òn mẹ tôi, bà không thiết tha gì những chiếc cúp đoạt giải anh Thương mang về chưng nơi phòng khách nhưng bao nhiêu tình thương bà đều dành hết cho anh. Bà mong muốn anh sớm lập gia đình để bà có cháu nội bồng bế tưng tiu. Chính bà gợi ý anh Thương phải gặp chị Hằng ngay khi mới bước chân lên Đà Lạt. Mẹ chị Hằng là bạn thân của bà. Mỗi lần bà lên Đà Lạt cùng anh Thương bà đều ghé lại. Thấy anh Thương và chị Hằng thân thiết nhau hai bà bạn già vui sướng lắm. Chị Hằng học trường Tây nên cách ăn mặc hợp thời trang. Anh Thương cũng không thua gì. Ra đường lúc nào cũng quần tây thẳng nếp ly, áo sơ mi bỏ vào trong và nịt hẳn hoi. Đôi giày anh mang lúc nào bóng láng. Anh hào hoa, phong nhã. Ngoài bóng đá anh còn chơi cả quần vợt. Chị Hằng cũng thích môn thể thao này. Chị và anh Thương hay ra sân đánh đôi thành một cặp. Cả nhà tôi ai cũng nghỉ chị Hằng sớm muộn gì cũng làm dâu ba mẹ tôi. Chị Miên, chị Giỏi, Chị Chi đều thương mến chị Hằng. Ngược lại chị Hằng đối với các chị ấy rất hồn nhiên và gần gũi. Với mẹ tôi, chị xem như mẹ của mình, nên chị hay nũng nịu. Mẹ tôi cứ khen chị mãi. Con bé cười có duyên. Hiền lành. Dể thương. Nết na. Mẹ tôi mong ngày chị ra trường sẽ cậy người làm mai lên Đà Lạt dạm hỏi chị cho anh Thương. Mọi người trong gia đình tôi ai cũng tin như vậy nếu như không có sự việc xảy ra quá đột ngột.
Từ đâu, những tai ương dồn dập đổ lên đầu gia đình chúng tôi. Chị Giờ chết. Anh Tỵ bỏ đi. Anh Chín bị tù đầy. Anh Thành vào chiến khu. Ba tôi bị giam cầm, bị tra tấn dã man. Đội banh sau năm năm lừng lẩy bốn phương giờ rã đám. Các anh cầu thủ lại lưu lạc phương trời nào xa xăm. Anh Thương cũng bỏ nhà ra đi.
Thuở nhỏ, tôi ngủ trên tấm phản gõ láng bóng đặt ở một góc phòng của gian nhà giữa cùng với anh Thương. Anh Thương huýt gió rất hay. Âm thanh êm ái này đã ru tôi vào giấc ngủ, thế câu hò ngày trước mẹ tôi thường hát ru đưa võng cho tôi. Một buổi sáng, như thường lệ, gà vừa gáy tôi giật mình thức giấc quay người qua ôm lấy anh nhưng trống không. Anh Thương bặt tăm từ lúc ấy. Sau này nhớ lại lời anh thỏ thẻ bên tai tôi: “Anh đi rồi, Bui ngủ với ai?” Tôi chưa kịp trả lời anh đã cầm chiếc lược gảy lên, phát ra những âm thanh trầm bổng, rất khẽ một điệu nhạc buồn.
Vắng anh, mẹ tôi khóc mãi. Nước mắt bà rơi xuống như từng mũi kim châm vào da thịt tôi. Bà tự trách mình, xem như bà là nguyên nhân gây ra sự ra đi của anh Thương. Mẹ tôi kể lể: “Sao con lại giận hờn mẹ như thế. Mẹ chỉ mong con làm một người tình chung thủy. Mẹ rất ghét kẻ bạc tình.” Mẹ tôi nói như có anh Thương đứng trước mắt bà. Mẹ tôi ân hận. Chị Miên cũng nhận mình có một phần lỗi.
Thì ra chỉ là một lầm lẫn. Chính chị kéo mẹ tôi từ trong buồng ra xem anh Thương đang đi với một cô gái về hướng bờ sông. Họ đi sát bên nhau. Chỉ có tình nhân mới như vậy. Các chị khác lại đổ thêm dầu vào lửa. Mẹ tôi giận anh Thương. Nếu chị Hằng biết được chị ấy sẽ đau khổ biết bao. Mẹ tôi nghỉ như vậy. Mẹ tôi la rầy anh Thương như trút đổ nước lên đầu anh. Anh chưa kịp phản ứng, phân trần. Mẹ tôi la lớn:
- Tao không muốn có thằng con tệ bạc như mày!
Chưa bao giờ tôi thấy Mẹ tôi giận hờn, la mắng anh Thương như thế. Lúc đó, thằng bé 8 tuổi như tôi, thấy đó làm ngạc nhiên và xem như anh Thương có tội quá lớn làm Mẹ tôi đau lòng.
Trước đó, tôi thấy Mẹ tôi lúc nào cũng chiều chuộng anh Thương. Anh muốn gì mẹ tôi cũng gật đầu ưng thuận. Ngay những lúc nghỉ trưa, mọi người trong nhà đều im tiếng để mẹ tôi chìm đắm trong giấc ngủ dù ngắn ngủi, thế mà nhiều khi hứng khởi anh Thương kéo tôi ra cái sân nhỏ lát gạch trước phòng mẹ tôi cùng anh chơi banh. Anh lừa banh và tôi nhào vô chụp lấy, trái banh nơi chân anh đảo qua đảo lại, chạy tới chạy lui. Tôi đã thắm mệt, mồ hôi nhễ nhại mà cũng chẳng lấy được banh. Tôi muốn khóc anh mới bảo tôi làm thủ môn, và anh suýt nhẹ trái banh vào người tôi. Tôi chụp lấy nhưng bị ngả ngửa xuống sân vì sức mạnh đường đi trái banh còn tôi thì quá yếu ớt. Tiếng chân người. Tiếng nện thình thình của trái banh lên nền nhà, vào cánh cửa gỗ của phòng mẹ tôi ầm ầm. Anh em tôi quên trong đó Mẹ tôi đang ngủ. Chị Miên lên tiếng nhắc nhủ:
- Bộ anh hết chỗ tập dượt và thiếu người hay sao? Để Mẹ ngủ chứ
Tiếng Mẹ tôi vọng ra:
- Cứ anh Thương mày chơi thoải mái.
Chị Miên nguýt dài, anh em tôi mới ngừng cuộc chơi.
Lúc ấy, tôi nghỉ anh Thương đâu phạm lỗi lầm gì khi đi chơi với bạn gái khác đến nỗi Mẹ tôi phải giận anh đến như thế. Và anh Thương sao vì lời mắng mỏ của mẹ mình mà phải bỏ nhà ra đi.
Mấy ngày sau, chính người con ấy xa lạ kia đến tìm mẹ tôi. Họ nói nhỏ với nhau điều gì ở trong phòng riêng của Mẹ tôi. Khi ra về, mẹ tôi cầm lấy tay cô gái, nói khẽ câu xin lỗi. Lớn lên tôi mới biết đó là người giao liên, mốc nối dẫn đường cho anh Thương vào mật khu. Mẹ tôi không còn dằn vặt khi biết sự ra đi của anh Thương đã được tính toán từ lâu. Bà chỉ lo lắng liệu anh Thương có chịu nỗi sự khổ cực thiếu thốn nơi rừng rú âm u kia không. Sự an toàn tính mạng của anh treo như sợi tóc mong manh. Bà chỉ biết hằng đêm niệm Phật.
Từ đó, gia đình tôi thường bị chính quyền hạch xách liên tục. Mẹ tôi phải tìm tòi những hình ảnh thư từ của anh Thương để lại cất dấu đi.
*
Để gánh vác nuôi nấng chị em tôi cũng như cháu bên nội bên ngoại mà ba mẹ tôi đã đem về, mẹ tôi phải cật lực tháo vác trong việc làm ăn buôn bán. Những chuyến hàng ra Trung bằng đường thủy. Những kiện hàng nhập về từ Sài Gòn bằng xe tải. Nhà trước nhà sau chất đầy hàng hóa. Mẹ tôi càng ngày càng làm ăn khắm khá rồi giàu có nhất nhì trong thị xã.
Tiền bạc sổ sách bà giao cho chị Miên trông coi cho đến lúc chị lấy chồng đi xa. Đến phiên chị Muội thì tôi cũng đến tuổi biết nhìn gái đẹp. Còn chị vừa đến tuổi cập kê. Tất cả của cải vàng bạc đều cất vào tủ két bằng sắt.
Nhớ ngày đầu mới mang cái tủ két bằng sắt này từ Sài Gòn về, chị em tôi đã nhìn nó với vẻ ngỡ ngàng và xa lạ. Lần đầu tiên tôi mới thấy một cái tủ không phải bằng gỗ xinh xắn nhỏ nhắn như chiếc tủ đặt ở góc tường cạnh chiếc giường ngủ trong phòng mẹ tôi. Cái két sắt cũng nhỏ như thế nhưng sao nó nặng nề vô cùng. Phải đến 6 người lớn kê vai mới nhắc nổi và còng lưng hạ nó xuống đặt vào vị trí mẹ tôi đã định sẵn. Tôi đưa đôi bàn tay nhỏ nhắn sờ mó lên mặt cái két. Lạnh ngắt. Tôi lấy hết sức lực bình sinh đẩy mạnh, nó vẫn trơ trơ. Cả cái khối sắt màu xanh đen lù lù ở một góc phòng như một khối đá nằm trơ vơ dưới chân một ngọn đồi trên đường xuống biển ở quê tôi.
Mở những chiếc tủ gỗ trong nhà đơn giản chỉ cần nắm cái tay cầm kéo ra hoặc tra chìa khóa vào ổ khóa xoay qua xoay lại là xong. Còn cánh cửa cái két sắt này gắn thêm bốn cái núm tròn nhỏ như những đồng xu chồng chất lên nhau, xung quanh nó là những con số và những ký tự la tinh.
Mẹ tôi phải nhiều lần kêu chị Muội vào phòng để chỉ chị cách xử dụng. Chị phải lấy một cuốn vở ghi chép. Mẹ bảo như thế không bảo mật. Phải ghi vào trí nhớ. Chị không tin vào đó vì chị thường quên. Chị nói cho mẹ yên lòng. Con ghi chép theo cách của con.
Đúng vậy, có lần tôi tò mò muốn mở cái két này không phải vì những tài sản trong đó mà thử tài toán học của mình. Tôi lắc đầu, bất lực trước những con số và mã tự đó. Tôi làm theo những gì chị Muội ghi chép nhưng cái cánh cửa két sắt vẫn không nhúc nhích. Tôi tức mình, nắm chặt bàn tay, bậm môi, tưởng như trước mặt mình là kẻ thù, tôi thoi mạnh vào đó. Tay tôi như muốn gảy. Cơn đau thốt làm tôi phải phát ra tiếng rên. Bàn tay tôi bầm tím, chị Muội phải thoa dầu huynh diệp cho tôi. Chị khoe tài: “Thấy chưa. Bằng mật mã mà. Chỉ có tao hiểu thôi.” Tôi gật đầu khen chị. Thuở ấy tôi thường mê chuyện trinh thám, tôi say sưa đọc Châu Về Hiệp Phố và thường muốn nhập vai vào Hoàng Ngọc Ẩn. Tôi muốn tự mình khám phá ra cách mở cái két sắt này mà không cần sự chỉ vẽ của chị Muội. Chị Muội biết điều đó nên chị gợi ý: “Chỉ cần bấm kim đồng hồ lùi lại một khắc.”
Thì ra, đọc con số chị ghi là 2 phải hiểu là 1. Chữ B phải là chữ A. Từ đó tôi hiểu được cách mở cái két này.
Bên trong chỉ là một khối sắt trống rỗng như cái tủ gỗ nhưng lại có thêm một cái học nhỏ, nó cũng có cánh cửa khóa lại bằng một chiếc chìa nhỏ. Tôi nghĩ là Mẹ tôi cất ở đó những vòng vàng, ngọc thạch và những chiếc nhẫn kim cương. Tôi không sờ đến. Mãi đến sau này tất cả tài sản trong đó từ từ phải bán đi để chữa căn bệnh quái ác đang hành hạ thân xác và tâm hồn mẹ tôi. Ung thư. Gia đình tôi đến hồi khánh kiệt. Cái két sắt này như vô dụng. Nhưng chị em tôi vẫn giữ lại nơi phòng cũ của Mẹ như một vật kỷ niệm.
Thời gian qua đi, chúng tôi cũng lìa xa ngôi nhà thân yêu đó, xa cái thị trấn bé nhỏ ấy đến sinh sống ở một thành phố khác. Mỗi lần nhớ đến cái két sắt này tôi lại xót xa.
Mọi vật dụng trong nhà tôi lúc bấy giờ chỉ do mẹ tôi mua sắm. Từ chiếc bàn, chiếc ghế, cái tủ thờ, bộ ghế sa lông bằng gỗ gõ láng bóng. Riêng ba tôi, một buổi sáng chủ nhật đẹp trời, một chiếc xe ba gác chở về nhà một chiếc tủ gỗ to lớn, cồng kềnh, mấy anh cầu thủ phải xúm nhau khiêng vào. Ba tôi bảo quà tặng của một nhà mạnh thường quân giàu có cho ông bầu đội bóng.
Chiếc tủ này đặt ở căn nhà giữa. Bao nhiêu quần áo đã ủi thẳng nếp đều được sắp xếp trong ngăn tủ lớn. Bên cạnh là ngăn tủ ngắn hơn, và trên đó có cái hộc nhỏ gắn liền với tấm gương soi mặt. Chiếc hộc này đã khóa kỷ. Tôi nghỉ chắc ba tôi dùng để cất những vật quí giá, nên tôi không dám rờ vào.
Khi ba tôi chết đi sau những tháng năm vật lộn với cơn bệnh lao phổi. Những vật dụng của ba tôi trong chiếc tủ này được lấy ra để thiêu hủy. Riêng cái hộc nhỏ này tôi không mở được vì không tìm ra chiếc chìa khóa. Mãi sau này chị Muội nhắc lại Mẹ tôi đã từng dặn dò trước khi bà chết, lúc nào anh Thương trở về mới giao chiếc chìa khóa bà để trong ngăn nhỏ của cái két sắt cũng được khóa kín.
Chúng tôi đợi chờ ngày anh Thương trở về, như ba mẹ tôi đều tưởng rằng chỉ vài năm sau theo hiệp định Geneve đất nước sẽ thống nhất. Đâu ngờ lịch sử đã lật ngược. Cuộc chiến đôi miền càng ngày càng khốc liệt. Ba mẹ tôi phải điêu đứng, tù tội chỉ đơn giản là có con theo Việt Minh và đã tập kết ra Bắc. Mòn mỏi.
Từ ngày mẹ tôi mất đã hơn mười năm, chúng tôi mới trưởng thành và tản mác khắp nơi. Đi đâu rồi cũng trở về lại nơi mình đã được sinh ra. Ngôi nhà mang số 11 lại được chỉnh trang để thành một quán cà phê văn nghệ. Chị Muội và tôi đã bán những vật dụng cồng kềnh để trống chỗ. Trước khi chiếc tủ gõ đó được đổi chủ chị em tôi mới tìm cách mở cái hộc nhỏ để lấy ra những gì mà mẹ tôi đã cất dấu.
Bấy giờ tôi mới sực nhớ đến chiếc chìa khóa nhỏ để trong cái két sắt. Hai chị em tôi bàn bạc sẽ dời vật quí giá đó vào một nơi khác, như vừa qua chúng tôi đã dời những ngôi mộ của ba mẹ cùng người thân trong dòng họ từ một nghĩa trang trong thị xã ra đến một vùng đồi núi khác.
Cầm chiếc chìa khóa nhỏ tra vào ổ hộc tủ tôi bỗng run tay, lòng hồi hộp. Vặn mãi mới mở được. Kéo cái hộc tủ từ từ ra. Mắt tôi chăm bẩm nhìn vào. Như một người vừa tìm ra kho báu mong thấy vàng bạc, ngọc ngà, để cất tiếng reo mừng. Còn tôi, tôi muốn nhận ra tình cảm của người mẹ dành cho anh Thương, người con đã đi xa. Mẹ tôi đã cất dấu vật gì quí giá đến thế. Trước mắt tôi, trong chiếc hộc tủ nhỏ này, chỉ là một tập vở học trò. Tôi nghỉ chắc đó là di chúc mẹ tôi để lại cho anh Thương. Tôi tò mò lấy ra, mở từng trang một. Những dòng chữ viết rất đẹp và bay bướm về những bản nhạc của Đặng Thế Phong, Văn Cao, Đoàn Chuẩn, Hoàng Quí… Dưới mỗi bài có ký tên người chép: Thương. Ngoài ra không có một dòng chữ nào của mẹ tôi. Rủ tập vở, rơi ra một tấm hình. Người con gái trong đó có đôi mắt trầm buồn. Phía sau có hàng chữ viết tặng anh Thương cùng những lời hẹn hò. Một lá thư viết dở dang của anh Thương chưa kịp gởi cho chị, nhắn nhủ chị đợi ngày anh về.
Thú thật lúc đó trong tôi có một sự ganh tỵ với anh Thương. Những gì anh Thương bỏ sót lại, một tập vở chép nhạc mà Mẹ tôi cũng cất giữ cho anh như một vật quí giá ngàn vàng. Tấm hình của chị Hằng đã hoen ố theo thời gian. Trong tâm khảm của Mẹ tôi chị Hằng trẻ đẹp, hiền từ, mẹ tôi vẫn nghĩ đó là người con dâu yêu quí của bà.
Tôi đóng mạnh chiếc hộc tủ vào. Tôi muốn vất tập vở đó xuống đất, nhưng không hiểu sao như có bàn tay ai níu lại, ngăn cản tôi. Có tiếng ai đó rất mơ hồ từ một cõi xa xăm nào đó gọi tên tôi, như nhắc nhủ tôi tránh phải một sai lầm. Tôi nhận ra tiếng gọi của Mẹ tôi ngày nào mình còn thơ ấu khi bà muốn can ngăn những lỗi lầm tôi sắp phạm tới. Tiếng gọi ấy làm tôi nghĩ không phải tôi đang cầm trong tay một tập vở chép nhạc của anh Thương mà tôi đang giữ cái hồn của Mẹ tôi. Tôi tìm một tờ giấy trắng gói cẩn thận tập vở lại bỏ vào ngăn kéo bàn giấy thường ngày tôi làm việc. Như tôi vừa mới nhận lời sẽ thực hiện lời trối trăn của Mẹ tôi.
Thời gian trôi qua. Tôi cũng quên tập vở ấy. Những bản nhạc mà anh Thương chép lại để tặng chị Hằng, suốt cả khoảng thời gian của tuổi thanh xuân tôi cũng đã từng đắm hồn mình vào từng lời ca ý nhạc đó. Cho đến tuổi già, héo hon, tôi vẫn còn rung động.
Người đầu tiên làm cho tôi cảm nhận được cái hồn của bản nhạc là Mẹ tôi.
Một buổi chiều, trời ráng nắng, những đám mây màu vàng, mảnh như dòng sông kéo dài, vắt qua mặt trời ửng đỏ. Tôi từ bờ sông Dinh trở về nhà. Giọng hát réo rắt hòa lẫn tiếng đàn du dương từ phòng Mẹ tôi vọng lên. Vun vút ập vào hồn tôi. Tiếng còi trong sương đêm. Tôi bước từng bước chân nhẹ nhàng. Đến phòng Mẹ, nhìn qua khung cửa sổ, hình ảnh một người đàn bà tuổi trung niên đang ngồi dựa ngửa vào chiếc ghế mây, mắt nhắm lại và môi mắp mấy, nhại theo tiếng hát phát ra từ cái máy quay dĩa mà Mẹ tôi đã mua về từ mấy ngày trước. Tôi không dám lên tiếng, lẳng lặng ngồi trên cái phản gỗ gian nhà giữa, mà hồn mình bay lơ lửng, đến tận những chân trời nào đó. “Nhà em bên chiếc cầu soi nước. Tôi đến thăm một lần…” “Đêm nay thu sang cùng heo mây.” Tiếng hát đã ngừng mà bên tai tôi, mơ hồ, hình như sao có tiếng rơi rất khẽ giọt nước mắt của ai đó. Tiếng nấc bật lên. Nghẹn ngào. Rồi chìm lỉm vào không gian bất tận.
Cũng từ đó, Mẹ tôi mỗi lần về sau chuyến đi buôn ở Sài Gòn bà thường mang về những chiếc đĩa hát do Kim Tước, Minh Trang ca. Giọng hát cao vút và truyền cảm của các ca sĩ danh tiếng đó đã làm rung động tâm hồn tôi. Mẹ tôi, từ từ mua những đĩa hát thu hầu hết những bài ca anh Thương chép lại trong cuốn vở ấy. Và cả Mẹ tôi và tôi cứ mỗi buổi tối trước khi đi ngủ đều thả hồn mình theo tiếng hát. Những nỗi buồn không tên, những niềm mong nhớ mông lung của tuổi mới lớn làm lòng tôi xao xuyến. Còn Mẹ tôi, bà gởi tâm sự mình vào đó cho ai? Nỗi ray rức. Chờ đợi. Nhớ thương. Đến cuối đời, nằm trên giường bệnh, Mẹ tôi bảo tôi để cho bà nghe những bản nhạc ấy. Bà thiếp đi. Trong cơn hôn mê Mẹ tôi cứ lẩm bẩm: “Sao chưa thấy thằng Thương trở về?” – “Mà mày nhớ dẫn con Hằng về nữa nhé, con dâu của Mẹ!”. Có lúc Mẹ tôi nắm lấy tay tôi, thản thốt: “Thương, con đừng đi nữa nhé!” Mẹ tôi cười mếu máo: “Mẹ phải nhốt cả hai đứa mày trong căn phòng nhỏ xíu. Chật chội lắm phải không? Nhưng ấm cúng, con ạ! Cái hộc tủ.”
Lúc tỉnh táo, Mẹ tôi nhắn nhủ: “Một mai khi hòa bình anh Thương trở về con mở cái hộc tủ ra.”
Mười lăm năm sau anh Thương mới trở về. Gia đình chúng tôi đã tản mác. Các chị và em tôi đều di tản ra nước ngoài. Ba Mẹ tôi đã chết từ lâu. Anh Thương cứ đinh ninh ngày mình trở về, mọi người còn sống đầy đủ, gia đình đều đoàn tụ trong ngôi nhà số 11 này. Anh sửng sốt mới biết tin mẹ tôi đã qua đời trong cơn bệnh nan y quái ác là ung thư. Trước khi qua đời bà cứ gọi mãi tên anh. Đã mười lăm năm rồi anh Thương trước khi vào Nam cứ nghỉ anh sẽ gặp lại mẹ mình dù mái tóc đã bạc phơ.
Tôi mang ra tập vở đã được gói kín giao lại cho anh với giọng nói run run tràn đầy cảm xúc:
- Của mẹ bảo em giao lại cho anh?
Anh ngạc nhiên trố mắt nhìn tôi, hỏi:
- Cái gì thế?
- Anh cứ mở ra xem thì biết.
Anh Thương xé vội phong bì, tập vở rơi ra. Tôi đưa mắt nhìn anh theo dõi. Tôi cứ nghĩ là anh sẽ cảm động khi nhận ra tập vở này. Anh lật từng trang giấy, mặt lạnh như đồng, vẽ bực bội hiện lên trong đôi mắt đỏ bừng. Anh hỏi lại tôi với giọng nói cay cú:
- Của ai vậy, chép toàn những bản nhạc lảng mạn không ra gì?
Tôi như bị ai cầm dao đâm vào tim mình, đau nhói, cố lấy bình tỉnh trả lời anh:
- Chẳng lẻ anh không nhận ra chữ viết của mình sao?
Anh cau mày, thú nhận bằng cách gật đầu. Anh lại hỏi tôi:
- Mà mẹ giữ nó lại làm gì? Sao không hủy đi những thứ nhạc vớ vẩn này.
Lúc này tôi giận anh vô cùng. Tay chân tôi run lên. Máu trong cơ thể tôi chạy rân rân. Anh Thương vất tập vở đó xuống đất. Tôi, hình như nghe ra tiếng kêu, từ một cõi xa xôi nào đó, vọng vào tìm mình. Thản thốt. Rên rỉ. Đau đớn. Khuôn mặt buồn phiền, thất vọng. Đôi mắt ngẩn ngơ. Rớm lệ. Từng giọt nước mắt rơi xuống. Của Mẹ tôi. Theo từng trang giấy lật tung lên. Những tiếng hát du dương từ những lời chép tay trong tập vở đó như những làn sóng từ ngoài khơi biển cả mênh mông cuồn cuộn vổ vào bờ cát trắng. Ầm ầm. Sóng bỗng lên cao, cao vút, đập vào bờ phá tan tất cả những hàng dương đã từng vi vút reo lên như tiếng sáo hòa cùng âm điệu rì rào muôn đời của biển cả. Mẹ tôi bước đi, xiêu vẹo, khập khễnh. Mẹ tôi vấp ngã. Cả thân hình tiều tụy ập lên tập vở đó. Tôi chạy đến nâng Mẹ lên. Tôi cầm tập vở, như tôi cầm lấy tay Mẹ. Lạnh ngắt. Bóng tối từ bên ngoài tràn vào. Mẹ tôi tan biến, hòa nhập vào tập vở chép nhạc.
Đến lúc này tôi không muốn kể cho anh Thương biết vì sao cả chị Miên, em Ngân và tôi đều thích nghe những bài ca mà hầu hết anh Thương đã chép lại trong tập vở này. Những dòng chữ nghiêng nghiêng và bay bướm của anh đã làm Mẹ tôi rơi nước mắt nhỏ xuống làm hoen ố một vài con chữ. Mẹ tôi tập hát. Giọng bà run run. Thu đi cho lá vàng rơi… Ai lướt đi ngoài sương gió… Ngân hát hay. Giọng ca thánh thót, truyền cảm cũng nhờ nghe từ máy quay đĩa mà Mẹ tôi mua về đặt trên chiếc bàn nhỏ nơi đầu giường. Thường, vào buổi chiều tôi cùng Mẹ đều ngồi trầm ngâm lắng nghe tiếng hát của nữ ca sĩ Minh Trang, giọng hát ngọt ngào đưa tôi vào những miền đất hoang vu.
Lớn lên khi tôi biết yêu, tôi cũng nắn nót kẻ từng dòng nhạc những bản tình ca. Dư âm. Em đến thăm anh một chiều mưa. Buồn tàn thu…Không phải vào tập vở như anh Thương, mà vào phía sau tấm ảnh thiệp xuân, chữ nhỏ xíu, cả đêm bỏ học bài, ngồi cong lưng, cố gắng kẻ những nốt nhạc từng bản một, để sáng mai đem tặng cho T. Sau này, hơn ba mươi năm gặp nhau lại T. cho biết nàng vẫn còn giữ để kỷ niệm cho mối tình đầu đời.
Trong những tháng năm đầu khi thống nhất đất nước, bao nhiêu tai ương, khổ đau đập xuống đầu chúng tôi, anh Thương như một cái phao để chúng tôi níu lấy. Những buổi tối anh tựu họp mọi người trong gia đình ngồi quanh trên tấm phản gỗ để nghe anh phổ biến những tin tức quan trọng trong nước và phê bình những điều mà anh cho là chúng tôi phạm sai lầm.
Anh bảo tôi phải lột xác, đồ tiểu tư sản. Phải lao động sản xuất. Phải đốt hết các loại sách báo của miền Nam xuất bản. Toàn văn hóa phản động. Vứt đi những dĩa nhạc ủy mị. Xóa hết những tàn tích của chế độ Mỹ ngụy để lại trước khi chiến dịch chống văn hóa đồi trụy sắp diễn ra. Anh muốn gia đình tôi là một gia đình gương mẫu, có người thân là quân giải phóng đang ở trong nhà.
Trong thời gian anh chờ đợi được lệnh thuyên chuyển về Nam anh đã thu xếp trước cho vợ mình từ Bắc vào công tác ở thị xã nhỏ bé này. Lúc đầu tôi gặp mặt chị, tôi xót xa vì đôi mắt chị hoằn sâu, thân hình chị tiều tụy, nước da xanh mét. Chị lượm thượm trong bộ đồ cũ mèm, chiếc áo thun trắng đã ngã màu, hoen ố. Tôi không thể nghĩ chị tuổi ở đôi mươi. Anh Thương nói nhỏ với tôi: “Ngoài nớ nghèo lắm.” Từ từ rồi chị cũng thay da đổi thịt. Cách ăn mặt khác đi. Trông chị xinh xắn hơn xưa rất nhiều. Chị đã lột xác.
Ngược lại chúng tôi như con tàu đang tuột dốc, xác xơ. Cuộc sống khó khăn dồn chúng tôi vào ngỏ cụt. Để giữ tinh thần sau những giờ phút lao động để kiếm sống tôi vẫn thường thức dậy sớm pha cho mình một cốc cà phê đậm, hút một điếu thuốc thơm, nghe lén vài bản nhạc từ cái casette cũ mèm.
Tưởng không ai biết. Nào ngờ, trong buổi họp mặt gia đình, anh Thương chỉ trích tôi và cho biết quần chúng đã phản ảnh là tôi còn mang tư tưởng của giai cấp “tiểu tư sản”. Thật tình tôi không hình dung nổi tiểu tư sản là gì? Trong tôi không có phân biệt giai cấp gì cả. Người giàu, kẻ nghèo. Chỉ có người tốt, người xấu. Mà tốt hay xấu đều do nơi hoàn cảnh sinh ra. Thế thôi. Đến lúc này thì tôi giật mình. Một cơn gió mạnh như vũ bảo thổi vào tim tôi. Lạnh buốt và xô tôi ngả xuống vực sâu.
Mấy ngày sau đó, tôi dẫn vợ con rời ngôi nhà thân yêu đến một vùng quê xa lạ. Ở đây chúng tôi cũng đã sống gần mười lăm năm như những người nông dân. Sau này chúng tôi mới kéo nhau vào sinh sống ở Sài Gòn. Anh Thương đổi vào đây trước tôi vài năm. Đời sống của gia đình trở nên giàu sang.
Cuối đời anh Thương mang chứng bệnh nan y, như mẹ tôi ngày trước. Ung thư. Tôi vẫn thường vào thăm anh ở bệnh viện. Chúng tôi nhắc lại những kỷ niệm ngày xa xưa. Khi tôi hỏi sao khi ra ngoài Bắc anh không còn chơi bóng đá. Anh thều thào: Tiếc là những tháng năm ở liên khu 5 anh bị bệnh sốt rét, mất sức. Bỏ cuộc. Tôi kể cho anh nghe: “Mẹ tôi suýt đi tù lý do viện cớ qua Cao Miên để gặp mặt anh tôi. Bà nghe tin từ đâu là anh có chân trong đội bóng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tranh giải Bóng đá Đông Dương. Chính quyền không cấp giấy thông hành. Họ nghi ngờ anh Thương là cầu thủ lừng danh ngoài Bắc.” Thời gian đó anh Thương được vào đại học xây dựng. Anh chỉ là khán giả đi xem bóng đá mà thôi. Ngoài Bắc không ai biết anh đã từng là một cầu thủ lừng danh của miền Nam. Ở Sài Gòn, những tờ báo thể thao khi nói đến bóng đá người ta nhắc nhiều về anh. Vang bóng một thời.
Ngồi ở chiếc ghế đá trước hành lang bệnh viện, dưới gốc cây cổ thụ, lác đác vài chiếc lá vàng rơi xuống sân cỏ công viên. Hai ông già nhắc lại những kỷ niệm về người Mẹ đã khuất. Những lần trước thì tôi mang cảm giác mình nhỏ lại như hồi còn ấu thơ đang bơ vơ ngơ ngác lạc loài giữa phố chợ, đến tuổi trưởng thành, ngày cưới vợ mình dâng trầu cho người đã sinh ra vợ mình, còn tôi ngẫn ngơ cầm khay trầu rượu như muốn tìm ai đó.
Lần này, linh cảm như sắp xảy đến một mất mát đến với anh em chúng tôi. Nhắc đến người Mẹ tôi không thấy mình nhỏ lại mà nhận ra anh em chúng tôi là hai ông cụ già cháu chắc đầy đàng vẫn là những kẻ mồ côi Mẹ. Còn người Mẹ đã khuất lại là người thiếu phụ tuổi chỉ 50.
Bỗng dưng, anh Thương đưa bàn tay gân guốc chỉ còn bộc da, lạnh ngắt, hỏi tôi:
- Cái đó đâu rồi?
Tôi ngơ ngác, Tôi nhìn anh sững sờ. Tiếng hát từ đâu vọng lại. Nhà em bên chiếc cầu soi bóng. Anh đến thăm một lần…Tôi vừa nhận ra ý anh nhưng tôi vẫn giả vờ không hiểu, hỏi lại:
- Cái gì?
Đêm nay thu sang cùng heo may…Tiếng hát trầm ấm, khàn khàn của Khánh Ly như đang dẫn dắt anh Thương trở về một nơi mộng mơ xa xôi nào đó.
Một giọt nước mắt nóng hổi rơi xuống vai tôi. Rồi tiếng nấc nghẹn ngào từng hồi tuôn ra.
Cuối cùng môi anh mấp mấy:
- Tập vở chép nhạc…/.