Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.169
123.223.088
 
Đường Lâm - sáng ánh hồi quang
Vân Long

Dẫu tiết thanh minh năm nào tôi cũng cùng gia đình đi thăm mộ các cụ ở Sơn Tây, kết hợp đi lễ đền Và, chùa Mía, nhưng trong năm chưa bao giờ tôi từ chối một chuyến đi thăm lại cái làng cổ Đường Lâm nổi tiếng ấy, với bao nhiêu di tích lịch sử, ngỡ như mỗi bước đi đều gặp bóng dáng tiền nhân. Một làng mà có đến hai vua, với lăng Ngô Quyền, đền thờ Phùng Hưng, rặng duối cổ thụ nơi Ngô Quyền buộc voi, đồi Hổ Gầm nơi Phùng Hưng đánh hổ. Vị sứ thần thám hoa họ Giang không những có đền thờ mà còn cả di tích Quán Giang, nơi quàn thi hài cụ từ bên Tầu về.

 

Một di tích gần gũi hơn, thân thuộc hơn là ngôi nhà của cụ Phan Kế Toại, thân sinh ra ông chủ nhiệm Câu lạc bộ Văn Nghệ Xứ Đoài của chúng  tôi là họa sĩ Phan Kế An. Ngôi nhà kề sát đình thôn Mông Phụ. Trên từng viên gạch cổ lát sân đình như còn lưu lại nét vẽ bằng gạch non của cậu bé họ Phan mô phỏng từng nét chạm khắc tôm, cua, hoa, lá của đình chùa ngày nào.

 

Lần ấy, họa sĩ Phan Kế An mời một số bạn văn nghệ về quê Đường  Lâm cùng họ tộc của ông để làm lễ tưởng niệm 110 năm sinh thân phụ ông,   người nối tiếp vào danh sách những danh nhân của làng. Ngắm ngôi nhà gạch 5 gian xây đơn giản với khoảng sân vườn không quá trăm mét, nhà văn Kim Lân tắc lưỡi: “Không thể ngờ cơ ngơi của vị khâm sai đại thần lại giản dị đến mức này! Cơ ngơi ông tuần phủ làng tôi phải to gấp năm bẩy lần! Thế mà cụ nhà này có quyền cách chức cả tổng đốc cơ đấy!

 

Hoạ sĩ Phan Kế An cười: “Có lần minh gặp một cậu bạn trường Bưởi cũ hồi chống Pháp, hàn huyên với nhau về gốc gác gia đình, hoá ra cùng là con nhà quan cả! Cậu ấy bỗng phát hiện: “ Thế ra hồi ấy bố mày đã cách chức bố tao đấy! “ Cả hai cùng cười…Nhà văn Hoài Việt thỉ bình: “Quan thanh liêm thế này thì mới lên án được bọn tham những chứ! “

 

Mở đầu buổi tưởng niệm, họa sĩ Phan Kế An thay mặt họ tộc  nói đại ý: Buổi tưởng niệm 110 năm sinh của cụ căn cứ trên năm sinh thật 1892 (tuổi Thìn) chứ không căn cứ vào năm sinh  trên giấy tờ hành chính 1889, do cụ đã khai tăng tuổi để sớm được đi học theo quy định hồi ấy. Còn ngày tháng,  chúng tôi chọn ngày hôm nay, trước kỷ niệm Cách mạng tháng Tám một ngày để chúng ta nhớ lại bước ngoặt lịch sử đã mở sang trang mới cho cả dân tộc, trong đó có gia đình tôi.

 

Chúng tôi nâng ly, tưởng nhớ cụ và đều hình dung lại rất rõ chuỗi ngày này năm ấy (1945). Đang là Tổng đốc Thái Bình, cụ được thăng bổ  vượt ngạch lên chức Khâm sai đại thần ngay sau ngày Nhật đảo chính Pháp   (9/3/ 1945). Thời gian phải làm nhiệm vụ Tổng đốc, cụ đã nhiều lần không thi hành hoặc thi hành nửa vời các chỉ thị của chính phủ Trần Trọng Kim và triều đình Huế. Hồi ký của Vũ Đình Hoè đã thuật lại việc cụ cáo ốm để không đi hiểu dụ dân nộp thóc cho Nhật. Sau nhiều lần xin từ chức, đến ngày 17 tháng Tám 1945 cụ mới nhận được điện triều đình Huế chấp thuận.

 

Cao trào Cách mạng đang dâng cao, sắp tới đỉnh điểm, cụ sắp rời khỏi Bắc bộ Phủ, nơi hẳn sẽ diễn ra cuộc đụng độ quyết liệt với lực lượng Cách mạng, liên quan đến sinh mạng của bao con người, không thể không có hành động gì để giảm thiểu những tổn thất đó!

 

Mười giờ đêm trước khi rời Bắc bộ Phủ, cụ cho gọi các quan chức dưới quyền, gồm quan Một Bảo An binh Nguyễn Sĩ Là (anh ruột họa sĩ Nguyễn Sĩ Ngọc) và viên Chánh quản Lại đến phòng họp. Cụ nghiêm khắc căn dặn:

“Tuyệt đối không được nổ súng, và phải mở cửa ngay khi quân Cách mạng tới!”

 

Cụ Phan đi khỏi, ông Là, ông Lại liền triệu tập binh lính dưới quyền truyền đạt lệnh của cụ.. Lực lượng Bảo An binh đóng ở Bắc bộ Phủ có tới 134 người. Hành động của cụ không biết đã cứu được bao nhiêu mạng người, nếu không, một viên Cai Đội nào đó xốc nổi, cho lính bắn chỉ thiên thôi, cũng không thể lường hết hậu quả! Những người lính này sau đó, hầu hết đều gia nhập hàng ngũ Cách mạng.

 

Hành động này của cụ không đơn thuần là lòng nhân đạo, nếu ta biết trước đó, khi còn làm Tổng đốc Thái Bình, cụ đã ngầm ủng hộ Việt Minh một tín phiếu 500 đồng Đông Dương (1944), nếu ta biết trước đó 34 năm (1911), cụ đã may mắn gặp người thanh niên đồng hương Nguyễn Tất Thành tại Paris. Do phụ thân hai người quen biết nhau, hồi nhỏ họ đã gặp nhau khi phụ thân họ đi thăm nhau cho họ cùng đi(tư liệu của nhà văn Sơn Tùng), nên trước khi quyết định nhập học trường Hành Chính thuộc địa, chàng thanh niên họ Phan đã hỏi ý kiến Nguyễn Tất Thành: “ Theo ý anh, tôi có nên vào học trường này không? ”. Nguyễn Tất Thành trả lời ngay: ” Tôi cũng muốn có kiến thức về mặt này của Pháp. Tôi nghĩ rằng anh nên theo học. Sau này nếu làm được việc gì, tôi sẽ tìm anh!” (theo lời kể của họa sĩ Phan Kế An).

 

Bác Hồ của chúng ta những ngày xây dựng chính quyền non trẻ, lại lo việc tổ chức kháng chiến, trăm công ngàn việc, nhưng đã không quên lời hẹn năm xưa. Khi gia đình cụ Phan đang sơ tán ở Thanh Lũng, Sơn Tây thì nhận được thư cụ Hồ  cho người cầm về, mời cụ Phan lên chiến khu Việt Bắc tham gia chính phủ (1947). Lúc đầu là quyền Bộ trưởng Nội vụ, tiếp theo là  Ủy viên Hội đồng Quốc phòng tối cao mà cụ Hồ làm Chủ tịch (1948), rồi Bộ trưởng bộ Nội vụ (1951). Đến năm 1955, cụ được Quốc Hội nước VNDCCH tín nhiệm, cử giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ.

Đó là việc quan, việc nước xa vời!  Người dân ở đất Đường Lâm này   chỉ nhớ những gì họ trực tiếp nhìn thấy.

 

Trước chiến tranh thế giới lần thứ II, khủng hoảng kinh tế, đồng tiền với người làm ruộng thật hiếm hoi. Dưa hấu, dưa gang của Đường Lâm bán   rẻ như cho, ba đồng bạc Đông Dương một tạ gạo. Cụ Phan thương dân làng, nhưng phải tính kế lâu dài chứ không thể chỉ trợ cấp theo thời vụ! Cụ bèn đón một người thợ ở vùng Chuông về  làm thầy dạy cho dân làng làm nón lá, áo tơi lá, lớp học mở ngay trong Từ đường họ Phan. Rồi cụ xin “cô ta” của nhà máy sợi Nam Định về cho làng dệt gia công. Cảnh đường làng đang đìu hiu vì đói kém, bỗng trở nên nhộn nhịp khác thường. Người làng tranh nhau để có “bông” (tức thẻ nhận sợi). Có “bông” là có sợi, có sợi là có hàng, có tiền. Dân làng thật nhớ ơn cụ. Giá cụ làm quan sở tại ở ngay đây thì dân sướng biết mấy! Nhưng còn bà con Thái Bình, nơi cụ trọng nhậm thì sao?

 

Chính Thủ tướng Phan Văn Khải lại chứng kiến lòng dân ở nơi cụ trọng nhậm ngày xưa. Một lần về Thái Bình công tác, Thủ Tướng Phan Văn   Khải nhận được một lá thư kèm theo hai tấm chân dung cụ ông, cụ bà Phan Kế Toại do một gia đình nông dân Thái Bình chuyển đến. Thư viết : “ Kính thưa ông, tôi bây giờ đã già, không thờ các cụ được bao lâu nữa. Vậy tôi nhờ Thủ tướng chuyển giúp hai tấm chân dung này cho con cháu cụ Phan Kế Toại để làm lưu niệm…” ký tên Hoàng Văn Khảm, địa chỉ hiện nay số 2 ngõ 279 phường Niệm Nghĩa - Quận Lê Chân, Hải Phòng. “

 

Vậy là gia đình này đã thờ hai cụ từ những năm Tổng đốc Phan Kế Toại trọng nhậm Thái Bình. Khi ông Khảm về sinh sống ở Hải Phòng vẫn mang theo để thờ. Đến đầu năm 2000 mới nhờ con cháu ở Thái Bình giữ gìn và chuyển hộ, hẳn thấy Thủ tướng cũng họ Phan nên con cháu mới thực hiện lời dặn dò của ông Khảm. Làm quan thời xưa mà được dân tự nguyện thờ phụng như vậy, hẳn là cụ thanh liêm đức độ lắm!

 

Thủ tướng Phan Văn Khải giữ hai tấm chân dung, chờ dịp chuyển hộ.  Đến tháng 2/2002, Thủ tướng đến nói chuyện với Hội Nghị của UBTƯ Mặt trận Tổ Quốc VN khoá V thành phố Hồ Chí Minh là dịp Thủ tướng trao đôi ảnh tận tay họa sĩ Phan Kế An cũng đang dự Hội Nghị với tư cách Uỷ viên TƯ  Mặt trận.

 

Chúng tôi men theo tường xem những tấm hình ghi lại quá khứ lồng     trong những khung kính. Đến góc nhà, một tấm biển nhỏ đập vào mắt tôi:

Lối lên trần nhà, nơi một số sinh viên Cứu quốc Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đã cất giấu súng đạn để chống phát xit Nhật, trước Cách mạng tháng Tám 1945.   Phía trên là một ô vuông vừa một người chui lọt, họa sĩ họ Phan nhớ lại câu chuyện độc đáo: Hôm đó, cụ tôi về làng không báo trước, lại đúng lúc tôi cử một cậu về cất mấy khẩu súng mới mua được. Thấy bóng cụ, người nhà vội giấu chiếc thang đi, trong khi cậu bạn tôi vẫn còn trên trần. Cụ ăn cơm, lúc đang ngồi uống nước giữa nhà, bỗng một mảng trần “toóc si” sập xuống, cụ giật mình khi thấy một chân người đi dép cao xu lộ ra, gần như ngay trên đầu cụ. Cậu sinh viên lò mò bước nhầm vào chỗ không có dầm.

 

Khi biết  trên đầu mình là một kho súng của Việt Minh, cụ gọi cậu sinh viên  xuống, mắng: “Các cậu làm ăn thế này thì Nhật nó beng cổ đi!”

 

Cụ không ngạc nhiên gì, vì không lâu trước đó, cụ đã nhận được công văn cảnh báo của Chánh Hiến binh Nhật nói về những tổ chức chống Nhật trong sinh viên, có gài một câu “Tiếc rằng trong số đó có cả quý công tử!”

 

Không khí se se lạnh của mùa thu lại được ướp trong hương hoa ngâu, hoa ngọc lan lan tỏa đầy vườn. Một hương vị vừa cao khiết vừa dân dã đan xen vào những hồi ức theo chân chúng tôi đi dạo thăm các ngõ xóm đá ong  của ngôi làng cổ. “Quý công tử” Phan Kế An đã tròn tuổi 80 năm đó: 2003, nhưng ông vẫn xăm xăm đi trước như chàng sinh viên Mỹ Thuật ngày nào!.../.

 

( Những người…”rót biển vào chai”

NXB Phụ nữ, 2010) 

 

 

Vân Long
Số lần đọc: 1727
Ngày đăng: 17.08.2010
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Trần Lê Văn - hồi ký và thơ - Vân Long
Thấy gì…sau một đời thơ - Nguyễn Bao
Hãy Tưởng Tượng ....Cùng Hoàng Ngọc Tuấn - Trần Trung Sáng
Nhà văn Nguyễn Khải khi chưa thành nhà - Vân Long
Một người thơ không tuổi - Phạm Đức
Cùng một lứa bên trời… - Vân Long
Khi nhà toán học bắc chiếc cầu thơ... - Thái Doãn Hiểu
100 Năm “Vang Bóng Một Thời” - Đoàn Minh Tuấn
Nhà thơ Hoàng Tố Nguyên một ấn tượng Nam Bộ - Vân Long
90 Năm Tác Giả “Dế Mèn” Tô Hoài - Đoàn Minh Tuấn