Bắt nguồn từ cảm hứng sử thi, trường ca luôn có ưu thế trong việc thể hiện những tình cảm và khát vọng lớn, những chấn động lịch sử của dân tộc và ghi dấu ấn tư tưởng thời đại. Vì lẽ đó, những nhà thơ có tên tuổi trên thi đàn, nhất là khi họ từng là người lính, là nhân chứng lịch sử đều muốn khẳng định sự nghiệp sáng tạo ở thể loại này. Trường ca “Bài ca chim chơ rao” (Thu Bồn), “Mặt đường khát vọng” (Nguyễn Khoa Điềm), “Mặt trời trong lòng đất” (Trần Mạnh Hảo), “ Đường tới thành phố” (Hữu Thỉnh), “Những người đi tới biển” (Thanh Thảo), “Sư đoàn” (Nguyễn Đức Mậu), “Con đường của những vì sao” (Nguyễn Trọng Tạo)… là những minh chứng tiêu biểu.
Trường ca “Chiến tranh, chín khúc tưởng niệm” (NXB Văn học, 2009) của nhà thơ Nguyễn Thái Sơn cũng là một trong hệ thống đó. Theo thời gian ghi ở cuối tác phẩm: bắt đầu viết tháng 11 năm 2007, hoàn thành tháng 12 năm 2008 thì đây là trường ca viết về chiến tranh đã có độ lùi hơn 30 năm. Một khoảng thời gian rất đáng kể để những cảm xúc dâng trào, giọng điệu hào sảng ngợi ca dần lắng xuống, thay vào đó là những cung trầm của sự nhận diện cuộc chiến tranh một cách tỉnh táo; Là sự ngấm sâu hơn những nỗi đau mất mát hy sinh và dựng nên đài tưởng niệm trong tâm hồn con người.
Bên cạnh hình tượng người lính được khắc họa như là nhân vật trung tâm, thì hình tượng người phụ nữ cũng được nhà thơ giành nhiều tâm huyết làm nên tuyến nhân vật thứ hai song song với nhân vật người lính. Nhà thơ gọi họ là “những người đàn bà”, cách gọi dân giã, gần gũi thân thiết, phù hợp với ý tưởng nghệ thuật của ông là khai thác mặt thiên chức đàn bà nhằm thể hiện những bi kịch thân phận của họ do chiến tranh gây ra với một nỗi ám ảnh không nguôi. Và cũng từ đó người đọc nhận ra, những người đàn bà bình dị ấy hiện thân cho Tổ quốc, quê hương, gia đình, là điểm tựa cho những con người đi lên phía trước.
Trong trường ca của Nguyễn Thái Sơn có nhiều hình mẫu đàn bà: những anh hùng liệt nữ, những huyền thoại văn hóa như Bà Trưng, Bà Triệu, Liễu Hạnh, Mỵ Nương, thiếu phụ Nam Xương…nhưng nhiều hơn là những người mẹ, người chị, người vợ, người em gái quê mùa mộc mạc. Họ hạnh phúc khổ đau với đời thường, với biến cố thăng trầm lịch sử.
Người mẹ hiện lên với những nét truyền thống, gắn với đặc trưng lao động nông nghiệp của nền văn minh lúa nước: nghèo khổ cơm độn củ chuối/ cháo lẫn sung non; vất vả nhọc nhằn, chịu thương chịu khó, làm lụng nuôi con: Mẹ lăn sóng xoài/ trời mưa đường trơn/ mẹ ngã vặn lưng - cọc cầu ao mục gẫy dưới bùn; nhận về mình mưa nắng, bão giông, giành cho con miếng ngon, miếng ngọt Bánh mật tháng mười/ bánh ú tháng hai/ cua bấy giữ mai/ tôm càng tách vỏ. Người mẹ ấy bất chấp bom đạn, hiểm nguy, che chở cho con Cả khi ngồi dưới hầm sâu bình yên trong lòng đất/ mẹ vẫn giấu con vào góc hầm kín nhất”. Hình ảnh đẹp nhất đọng lại thành ký ức là hình ảnh “mẹ nhằn hạt na” mà nhà thơ dùng làm tựa đề cho khúc II của trường ca. Mẹ nhẫn nại nhằn từng múi na nhỏ xíu, tách bỏ phần hạt cứng, giữ lấy chút thịt na ngọt mềm để chăm con như những người mẹ Việt Nam bình dị vẫn thường miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương. Tình mẹ càng bao la thì nỗi đau của mẹ càng lớn khi những đứa con ra trận, tử trận, một nỗi đau dai dẳng suốt cuộc đời. Mẹ chết mòn chết dở bao lần trước khi chết thật. Và mẹ lại ru con, lời ru thấm đầy nước mắt, ngược về quá khứ tuổi thơ con, vỗ về những linh hồn trẻ với niềm tin mãnh liệt rằng những linh hồn không chết.
Viết về người đàn bà trong chiến tranh, nhiều tác giả quan tâm khẳng định vị trí vừa là chủ nhân vừa là nạn nhân của họ trước thời cuộc. Ngòi bút của Nguyễn Thái Sơn cũng nâng niu người đàn bà ở hai vị thế đó nhưng ông đặc biệt nhấn mạnh quyền con người của phái yếu. Đó là quyền được sống, được yêu, được nương tựa, được hưởng hạnh phúc đời thường, mà chiến tranh lại là thủ phạm tước đoạt các quyền ấy.
Đàn ông ra trận, đàn bà phải gánh vác toàn bộ công việc ở hậu phương. Trong canh tác, cày ruộng là công việc nặng nhọc nhất nên người xưa đã rạch ròi phân công: “chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa” (ca dao). Ấy vậy mà người vợ đã phải thay chồng cày ruộng: những người đàn bà cày ngầm ruộng chiêm/ nước lút đuôi trâu nước ngập bụng em - loang đỏ”. Câu thơ khiến người đọc không khỏi nhói lòng thương những vùng quê quanh năm nước ngập, chiêm khê mùa úng, người đàn bà cày ruộng ngầm, dầm tấm thân trong nước, máu loang đỏ có thể do đỉa cắn, do vấp phải lưỡi cày hay máu từ thân thể tuôn ra trong ngày “có tội”. Mới hay hạt thóc làm ra đâu chỉ bằng mồ hôi mà bằng cả máu người. Có thể nói sự khổ ải của người phụ nữ đã lên đến tột cùng.
Nhưng còn bao nỗi khổ khác không thể nhìn thấy, không nói được nên lời, đó là nỗi khổ của những chàng trai, những người đàn ông dư thừa sức lực lại thiếu vắng phụ nữ và của những người đàn bà tràn trề sinh lực phải một mình chống chọi với nỗi khát khao. Chưa có trường ca nào viết về điều này nhiều đến thế, kỹ đến thế. Đây là tiếng nói chạm đến cái phần sâu kín, thiêng liêng của sinh phận người. Thành công của Nguyễn Thái sơn là đã chuyển tải những vấn đề “khó nói” ấy trên cái nền văn hóa dân gian. Vì thế bạn đọc dễ dàng chia sẻ, đồng thuận với nhà thơ. Những người đàn bà nông thôn khỏe mạnh vú căng bưởi đào quệt vôi đợi tết/ mông đùi rừng rực ba đống rấm cháy lụi gộc tre rồi cũng có những phút giây hạnh phúc được gặp chồng trở về sau bao năm chinh chiến, được bung vỡ bao nhiêu dồn nén thoả sức đắp bù: “ăn giả bữa” cả đêm “ăn vã ăn vụng suốt ngày/ có khi mong trời mưa, muốn cả làng đi vắng. Họ yêu nhau cuồng nhiệt, dâng hiến tận cùng, đến mức chồng nhàu cỏ bợ vợ xanh mướt thài lài. Nhưng hạnh phúc ấy cũng chỉ ngắn ngủi, hiếm hoi như phút ngả lưng giữa hai cuộc chiến rồi người chồng lại ra trận. Rồi đàn bà lại cam phận nhịn đàn ông. Trong chiến tranh, mọi cuộc hôn phối đều chóng vánh. Chỉ có mấy ngày trời mà các công đoạn của hôn nhân từ làm quen đến cưới tập đoàn (năm bảy đôi thành vợ chồng trong một đám cưới) đã hoàn tất và cũng kết thúc luôn cả một đời chồng vợ sau hai đêm hương lửa để rồi người chồng không bao giờ còn trở về với hình hài bằng xương bằng thịt nữa, chỉ hồn theo mây gió…/ ngày đậu trên ngọn muỗm sau miếu/ đêm đánh đu cành thị cổng chùa.
Rất nhiều cảnh ngộ phụ nữ được nhà thơ nói đến với bao xót xa thương cảm: những cô gái không bao giờ được làm cô dâu, những người bạc tóc vẫn còn là trinh nữ. Sau chiến tranh một nửa đàn bà góa chồng, chưa thỏa tình chăn gối đã phải tự mình tiêu diệt những ham muốn bản năng để sống âm thầm sau lũy tre làng: Thím tôi góa bụa, dì tôi vắng chồng/ lại coi rau răm là bạn bầu tri kỷ/…/bao người đàn bà có chồng chết trận/ không thể đoạn tuyệt với thứ rau này/ ăn ghém rau răm đến lúc mãn kinh/ lòng lạnh giá không còn ham muốn nữa. Trân trọng những người đàn bà tiết hạnh, nhà thơ vẫn nhìn nhận sự ngoại tình của những người đàn bà mất chồng bằng tấm lòng nhân ái. Không phải ngẫu nhiên mà ông giành hẳn một tiểu khúc có tên là “ngoại tình”. Người đàn bà đợi chồng mười năm, hai mươi năm và không chờ được nữa, bởi chân đê gió mát trăng thanh/ ngồn ngộn rơm phơi rạ chưa kịp bó , đôi nhân tình quấn chặt nhau lửa cháy không buông/ nước dâng chẳng bỏ. Dù rằng người vợ không biết chồng đã chết trận khi ngoại tình, nhưng có một thực tế nằm ngoài cả sự nhận biết ấy - người vợ chỉ ngoại tình khi chồng chết đã ba năm, nghĩa là khi đã đoạn tang chồng tới chín tháng. Cái sự ngoại tình của người vợ được tác giả “che chắn, bào chữa” đến mức tối đa để không còn là “ngoại tình” nữa. Và từ trong sâu thẳm người đàn bà linh cảm có một bóng người nước mắt rơi lã chã/ những giọt lệ vô hình người sống không nhìn thấy/ chồng của người đàn bà ngoại tình đã về... Nước mắt của hồn người đàn ông chết trận là nỗi đau đối với người đang sống. Viết về vấn đề này Nguyễn Thái Sơn như đi chênh vênh trên miệng vực, may thay ông đã đứng lại được trên bờ và đã khắc họa rõ hơn thân phận đàn bà trong chiến tranh.
Trong khúc thứ VIII của trường ca có tiểu khúc Ba người đàn bà với ba số phận, ba cảnh ngộ khác nhau nhưng đều chung một nguyện ước là nương tựa vào nhau, sau khi chết hồn quanh quẩn bên những linh hồn tử sĩ nơi Thành cổ Quảng Trị. Người thứ nhất: cô Mận quê miền Bắc, từng là thanh niên xung phong mở đường Trường Sơn. Cô đã cống hiến tuổi xuân, sức lực cho cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, cuối đời không chồng không con, vào chùa tu và nguyện khi chết linh hồn được dạt về Quảng Trị mong được làm mẹ những linh hồn trẻ. Người thứ hai: má Chín quê ở Mỹ Tho có con là thằng Hai trốn lính, vẫn bị bắt đi quân dịch rồi chết trận, xác vùi tại Cổng Tây Thành Cổ. Má Chín không ham về miền cực lạc/ không muốn đầu thai làm người/ chỉ xin Đức Quan Âm cho về Thành Cổ/ xương thịt linh hồn con má chắc còn quẩn quanh đâu đó…Người thứ ba: bà Jên, công dân nước Mỹ. Bà có con trai duy nhất là Bil, thần đồng toán học. Bil đi lính sang Việt Nam và chết tại Quảng Trị. Bà Jên khóc con lạc giọng rạc người/ chết trong đêm Giáng sinh năm Bảy hai kinh hoàng ấy/… linh hồn bà Jên được Chúa cho “định cư” ở Cổ thành Quảng Trị. Câu chuyện về ba người đàn bà bất hạnh góp tiếng nói phản kháng mạnh mẽ đối với chiến tranh đã gieo nỗi đau khổ cho con người dù ở chiến tuyến nào. Đây cũng là một cách nhận diện chiến tranh ở góc độ nhân đạo.
Có thể nói rằng người đàn bà trong trường ca của Nguyễn Thái Sơn xuất hiện với tần xuất cao, rộng về biên độ, trải từ khúc thứ nhất đến khúc thứ chín của tác phẩm. Điều đó cho thấy hình tượng người đàn bà không chỉ đóng vai trò là nhân vật trung tâm khá điển hình, sinh động mà còn tham gia vào cấu trúc tác phẩm. Bằng tình cảm, vốn sống và trí tưởng tượng độc đáo, Nguyễn Thái Sơn đã phản ánh Số phận người phụ nữ trong chiến tranh, cực nhọc thể chất, đau đớn về tinh thần, anh hùng quả cảm trong đấu tranh với những bi kịch nội tâm và đời sống tâm linh sâu sắc, làm nên sức ám ảnh mạnh mẽ và dai dẳng trong lòng bạn đọc./.
Nha Trang, tháng 9 năm 2010