Ngày 11/11/2010, trên trang mạng VietNamNet (mục Tuần Việt Nam)(1) cho đăng bài “Tranh biện về Biển Đông với học giả Trung Quốc” của phóng viên Huỳnh Phan phỏng vấn một học giả Trung Quốc: Tiến sĩ Vương Hàn Lĩnh từ Viện Luật pháp Quốc tế, thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc (Bắc Kinh), mà theo phóng viên Huỳnh Phan “người đã trải qua thời thơ ấu ở một địa phương sát với biên giới Việt Nam, nơi xảy ra sự kiện Tháng Hai năm 1979”.
Với câu hỏi: “Quay lại chuyện chủ quyền, Trung Quốc nói có chủ quyền và quyền tài phán từ hơn 2000 năm nay. Phía Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và chứng cớ pháp lý, chẳng hạn với quần đảo Hoàng Sa, từ hàng trăm năm nay. Ông nói sao?”
Vương Hàn Lĩnh đã mạnh miệng trả lời: “Nên nhớ rằng cho đến năm 1885, Việt Nam vẫn là thuộc quốc của Trung Quốc”.
Nhưng Vương Hàn Lĩnh đã im lặng trước câu hỏi “Vẫn theo cách lập luận về tính lịch sử của mình, tại sao ông không nhắc tới Hoà ước Pháp - Thanh năm 1887, khi nhà Thanh chấp nhận để người Pháp, nhân danh chính phủ An Nam, thực thi chủ quyền ở những quần đảo này?”. Và Vương sẵn sàng tranh luận với các nhà nghiên cứu Việt Nam.
Thưa tiến sĩ họ Vương,
Cần nhắc lại cho ông nhớ rằng Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và thương mại (Hiệp ước Thiên Tân) được ký kết ngày 9/6/1885 giữa Lý Hồng Chương và Patenôtre, được quốc hội Pháp thông qua ngày 20 tháng 11 năm 1885 nhấn mạnh những gì đã ký ngày ngày 11 tháng 3 năm 1884 là đảm bảo Pháp sẽ rút khỏi Đài Loan để có thương quyền ưu đãi và nhà Thanh phải từ bỏ bá quyền lịch sử ở Việt Nam. Trung Quốc phải lập tức rút quân về biên giới Trung Quốc và phải tôn trọng hiện tại và tương lai các hiệp ước đã ký và sẽ ký giữa Pháp và triều đình Huế. Hay nói một cách khác, quan trọng hơn là kết quả Hiệp ước Thiên Tân 1885 và Hoà ước Pháp-Thanh năm 1887 đã xóa bỏ vĩnh viễn cái cái bánh vẽ “thượng quốc – thuộc quốc” giữa Việt Nam và Trung Hoa (2).
Nhìn lại lịch sử Trung Hoa từ xa xưa, những bộ tộc người Hán đang chiếm cứ một vùng rộng lớn ở phía Tây Bắc Trung Quốc hiện nay đã tràn xuống lưu vực sông Hoàng Hà tiêu diệt những người thuộc bộ tộc Miêu sinh sống ở đây, sau đó các bộ tộc người Hán chia nhau chiếm giữ khu vực này. Bộ lạc nào cũng có tộc trưởng làm đầu, cai quản cả người trong họ của khu vực ấy, gọi là hậu 后 tức vua một xứ nhỏ. Những xứ nhỏ ấy đông đảo, có đến cả ngàn, cả vạn cho nên mới gọi là vạn bang 萬邦. Các ông hậu ấy lại chọn một ông hậu khác “có tài, có đức” tôn làm đế. Các nước gọi là nguyên hậu 元后, về sau xưng là thiên-tử 天子. Các hậu gọi là chư hầu, ai ở nước nào trị nước nấy nhưng phải phục tòng mệnh lệnh nguyên hậu và hàng năm phải triều cống (3).
Như vậy đã rõ, quan hệ “thượng quốc-thuộc quốc” theo quan niệm Trung Quốc xa xưa là nước nhỏ, muốn hòa bình để tồn tại phải có bổn phận cống nạp nước lớn.
Điều này còn được thể hiện rất rõ qua tấm bản đồ đầu thế kỷ XVII được Matteo Ricci sáng tác và viên quan nhà Minh tên là Lý Chi Tảo(李之藻) đã dày công vẽ lại thành “phiên bản Lý Chi Tảo” với tên gọi là “Khôn Dư vạn Quốc toàn đồ”.
(Nguồn: http://www2.library.tohoku.ac.jp/kano/ezu/kon/kon.html )
Dòng chữ Hán được ghi chú trên vùng biển Đông Nam Á ngày nay này có nghĩa là:
“Thanh danh văn vật [triều] Đại Minh thịnh vượng, nhiều nước trong bốn biển - ở khoảng 15 độ đến 42 độ - đều đến triều cống. [bức] tổng đồ này [chỉ] diễn tả chung về núi, sông, tỉnh, đạo. không thể vẽ tường tận cụ thể như [sách] Nhất thống chí, Tỉnh chí ghi chép”
Như chúng tôi đã lý giải trong bài viết “Những phát hiện mới chung quanh tấm bản đồ thế giới của Matteo Ricci”, dòng chữ Hán trên được ghi chú trên vùng biển Đông Nam Á ngày nay có một điểm tồn nghi cần được các nhà ngôn ngữ học phân tích. Bởi vì nếu ghi chú này do người Nhật chú thêm vào bản màu chép lại của Ricci thì có thể hiểu là:
“Đại Minh nghe rằng các nước bốn bể chung quanh từ 15 độ đến 42 độ… đều giàu có và tất cả đều là nước triều cống. Bản đồ tổng quát nầy giản lược không ghi các tỉnh, đạo, núi, sông…. không thể chép hết chi tiết tỏ tường như Đại Minh Nhất thống Chí, Tỉnh chí ”
Nhưng dù là những dòng chữ kia do người Hán hay người Nhật viết trong tấm bản đồ như đã nói trên thì câu chữ “tất cả là nước triều cống” là một minh chứng những nơi ấy không phải là “thuộc quốc”, tiến sĩ họ Vương khó lòng mà chối cãi.
Trong quan hệ Việt Nam-Trung Quốc, trừ thời kỳ ngàn năm Bắc thuộc, nhưng kể từ năm 938 Trung Quốc chưa bao giờ có thể can thiệp trực tiếp hay ảnh hưởng vào nội bộ Việt Nam trong tất cả các lãnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… và kể cả mặt ngoại giao.
Quan hệ “thượng quốc-thuộc quốc” giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc như phát biểu của Vương Hàn Lĩnh đã cho thấy trình độ nghiên cứu của một học giả Trung Quốc hiện đại.
Vương Hàn Lĩnh đã hoàn toàn sai.
Nhưng giới nghiên cứu lịch sử Việt Nam sẽ không phản đối nếu Vương Hàn Lĩnh nói rằng: quan hệ Trung Quốc-Việt Nam từ xa xưa cho đến thời điểm hôm nay khi mà ông sang dự hội thảo về Biển Đông tại Thành phố Hồ Chí Minh (11/2010) là “quan hệ giữa một nhà nước với tư tưởng Đại Hán, bá quyền, sô-vanh nước lớn và một nước nhỏ luôn hiếu hòa và nhẫn nhục”.
Lịch sử Trung Quốc và lịch sử Việt đã thể hiện rõ luận điểm trên./.
Ghi chú:
(1)http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-11-11-tranh-bien-ve-bien-dong-voi-hoc-gia-trung-quoc
(2) Xem L. Eastman, Throne and Mandarins: China's Search for a Policy during the Sino-French Controversy (Stanford, 1984)
(3) Trần Trọng Kim, Nho Giáo tập 1, NXB Tân Việt in lần thứ 4, Bộ Thông tin NV, Tr37