Thời Minh mạt, Khấu sinh, người thôn Khì U, huyện Thanh Lương , Quãng Đông là người hay chữ. Lúc sáu tuổi đã làu thông bốn sách năm kinh, lên tám đã vang tiếng thần đồng. Đến tuổi thành niên, phong nghi lại đẹp đẽ hơn người, nói năng khiêm cung lễ độ, lại xuất khầu thành chương, “bảy bước thành thơ”, tài danh tót chúng, chữ lại đẹp như rồng, tiếng nổi như cồn, xứng danh danh sĩ. Thế mà Khấu lại chẳng lai kinh ứng thí. Có người hỏi:
- Công tử bút khí hơn người, chỉ cần một bước là đến chín từng mây, rạng danh tiên tổ, giúp ích cho đời. Can gì lại lãng phí thời gian như vậy?
Đáp:
- Thời nầy làm quan cần gì phải có cái chữ kia chứ? Khoa kỳ chẳng qua là che mắt thiên hạ, lao vào đó, vàng đá bất phân, nước đâu rửa sạch?
Và cứ thế, ngày ngày sơn thuỷ du chơi. Đi đến đâu, bút mực tràn tràn, lời lời châu ngọc. Có ngày tuông ra hàng trăm bài thơ, hàng trăm bài phú, ý tình thấu đến trăng sao, khiến cho hoa rụng tuyết rơi, gió mây thờ thẩn!
Tiếng đồn đến La đại nhân, tân huyện lệnh Thanh Lương; bèn mời sinh diện kiến, gọi là mến mộ. La huyện lệnh bút tài cũng chẳng phải tay vừa, tánh lại hào phóng hơn người. Hai người gặp nhau như cá gặp nước, đối đáp ngày ngày, tạc thù tháng tháng, tình như thủ túc chẳng bằng! Lưu tại huyện đường chỉ mấy mùa trăng mà thơ phú vạn bài, rượu rót muôn vẻ. Trước khi giã từ, La huyện lệnh kính cẩn nói:
- Tiên sinh là danh sĩ một đời khó gặp, chẳng hay trước khi chia tay, có thể phóng thần thủ lưu lại viên môn một câu đối chăng?
Thế là nghiên hoa, bút ngọc bày ra, thoắt một cái đã xong hai vế, một bên như phụng, một bên như rồng! La huyện lệnh vô cùng đắc ý, bèn thưởng năm mươi lượng bạc, gọi là chút quà lưu niệm.
Mỏi bước giang hồ, lòng du tử bỗng nhớ quê xưa, nhớ tri kỷ huyện lệnh. Tiện bước đường về, định bụng ghé thăm. Nhưng vừa bước chân vào địa hạt của huyện xưa, thì sao quang cảnh khác hẳn lúc giã từ? Ruộng đồng vắng kẻ cấy cày, cỏ mọc như lau! Trên cây chim không tiếng hót, bốn bên chẳng khách bộ hành! Vài đứa trẻ quần áo te tua đang ngồi uể oải dưói căn nhà rách nát. Đang còn bàng hoàng, bỗng một cụ già bước tới, Khấu vội bái kiến, hỏi sự tình. Cụ ngồi bệch xuống, thở ra, đáp mà lòng như oán hận:
- Làm sao dân tình không điêu đứng khi mà kẻ làm quan ví như hổ đói, xem dân như hoẵng, như cheo? Dân còn da, thì muốn lột da, dân còn thịt thì rắp tâm xẻ thịt?
- Cụ nói vị quan nào vậy?
- Ta ở huyện Thanh Lương, thì không nói La huyện lệnh nầy, vậy lại nói ai?
Khấu trố mắt:
- La huyện lệnh là người thấu suốt đạo thánh hiền, đã từng lấy nghĩa trị dân kia mà!
- Đạo lý thánh hiền! Lấy nghĩa trị dân! Hừ! Cũng tại thằng danh sĩ có mắt như mù, có tai như điếc kia, đã làm hàng ngàn bài thơ ca ngợi công đức của hắn. Chưa hết, chỉ một năm sau khi tên tân huyện lệnh nhậm chức, thì có quan khâm sai thuận bước hồi kinh, chúng ta dâng tờ cáo trạng thì ngài bảo, chúng ta là lũ vũ phu thất học, vô cớ tố gian, bởi đã có hàng ngàn bài thơ của tên danh sĩ ca tụng công đức của hắn rành rành, ngài còn bảo, kẻ cầm bút luôn có lòng tự trọng, nào lại nói bừa? Nhất là sau khi ngài đọc hai câu đối ở trước viên môn!
- Hai câu đó thế nào?
- Hừ! Có chết ta cũng không quên:
“Dĩ nghĩa dĩ nhân, nhất huyện phong hoà vũ thuận,
Thi ân thi đức, tứ phương lạc nghiệp an cư”
(Dùng nghĩa dùng nhân, cả huyện mưa hoà gió thuận,
Ban ơn ban đức, bốn phương áo ấm cơm no)
Nói xong,”hứ” một tiếng rồi bỏ đi.
Khấu chết lặng người!
Đoạn thất thểu lên đường mà không biết phải về đâu!
Mặt trời đã gác đầu non, chiều miền núi thường xuống nhanh. Đến ngã ba đường lòng mới băn khoăn. bỗng nghe sau lưng tiếng hát, lời hát có vẻ vừa cao ngạo, vừa căm hận. Khấu quay lại thì là một tráng sĩ, vai mang cung tên, vai vác đùi nai; mày rậm râu dày nhưng vẻ mặt lại hiền hoà.
Khấu thi lễ:
- Dám hỏi nhân huynh, đây là đâu?
Tráng sĩ thoáng nhìn Khấu rồi lần lượt chỉ tay về hai ngã đường đáp:
- Hướng nầy còn mười dặm nữa thì tới Khù U thôn, hướng kia về Sài Nha thôn, còn xa lắm.
Khấu mừng khấp khởi, cảm tạ rồi vội bước đi, nhưng tráng sĩ ngăn lại:
- Mười dặm đường núi, phải mất bao lâu? Mà nhìn công tử đây tướng mạo phong lưu, làm sao chống được răng sói miệng hùm? Hay là nếu không chê mái tranh vách cỏ, xin được mời bữa cơm đạm bạc, uống chén rượu suông?
Khấu cả mừng, bèn theo tráng sĩ về nhà. Đó là một sơn lư mái, phên toàn bằng cỏ; ngoài bộ chõng tre và bếp lửa với vài chén đũa, vài nồi niêu, thì dường như không còn thứ gì! Khấu ái ngại:
- Dám hỏi,,,,
- Tôi họ Từ.
- Cớ sao nhân huynh lại ẩn cư nơi thâm sơn cùng cốc nầy?
Từ lặng thinh. Tiệc bày ra, qua vài chén, rượu ran cả mặt, Từ mới đáp:
- Tổ phụ vốn là tiên phuông của Triệu tướng quân, nhiều năm chinh chiến, nếm mật nằm gai để giữ vững biên thuỳ, quyết đem yên bình cho tổ quốc. Thế mà rốt cuộc phải bị vạ vì bè lũ hoại thần ngày đêm mặc đẹp ngủ ngon nơi trướng phủ, ỷ mình kề cận mình rồng, ngày ngày dùng lưỡi cú diều, hãm hại trung lương, mượn bút giết người!
Công tử hỏi tại sao tôi lại chọn nơi núi cùng hang tận gởi thân? Người xưa bảo, “chính sự hà khắc còn đáng sợ hơn cọp dữ”. Tên quan huyện Thanh Lương nầy quả còn hơn nọc rắn nanh hùm! Ba năm trước có tên danh sĩ họ Khấu, được hắn cho ăn thịt béo, cho uống rượu ngon nên mập mờ liêm sỉ, chẳng biết thị phi, bèn tuôn bút mực, tán dương công đức của hắn, mà dân tình phải điêu đứng lầm than! Khiến người phải tha phương cầu thực, kẻ phải chạy trốn lên non…
Khấu đã hiểu mọi sự, nghe như đao cắt thịt, lòng vừa hổ then, vừa lo sợ thân phận mình. Từ tiếp:
- Lưỡi gươm tuy bén, thường uống máu người, nhưng chỉ ít phần tạo mối oan khiên. Bởi đó là máu của quân thù, máu phường gian ác. Nếu lỡ tay một nhát vô tình thì cho cùng chỉ một kẻ vương mang!
Ngọn bút tuy mềm, nhưng lại làm nên những chuyện vô cùng! Tuỳ theo kẻ có lương tri hay phường vô loại: Với kẻ có trái tim trong sáng thì bút có thể vẻ hào quang của ánh mặt trời, Vẻ sự bao la của biển cả, của sông xanh núi biếc, hay của hoa lá diệu kỳ! Lúc đó, bút tô thêm màu của lúa vàng lươm; thêm sức mạnh của người chiến binh nơi biên địa, hay hòa theo khúc hát thanh bình! Lúc đó, bút sẽ là con đường rộng mở, là ánh đuốc sáng ngời, đưa lũ em vào mái học đường, đưa nhân loại vào chốn trường tồn, bất diệt.
Còn với kẻ lòng đen như lọ, mờ mờ như cõi u minh. Lương tri tự trầm vào vũng ao tù nhơ nhớp, đầy chất tanh hôi. Thì lúc đó, bút sẽ tạo bao điều ngang trái, bao nỗi bi thương? Bấy giờ, bút sẽ là vùng tối âm u, chập chờn ma quái: Đó là sách khiêu dâm, là lời vu khống, là nhựa cây anh túc, là chất độc tì sương. Là sâu, là bọ, phá hoại màu xanh của lá, là mối, là mọt, gặm mòn đầu óc thanh xuân! Là móng vuốt tham quan, là nanh vòi bạo chúa, cam tâm hút máu đồng bào, xé xác lê dân! Tất cả sẽ đưa con em rời khỏi mái trường, đưa mây mù che khuất ánh dương quang, cướp đi sự sống muôn loài, đưa vạn vật vào vòng huỷ diệt!
Thế mới biết, kiếm tại nhất thời, bút lưu vạn đại! Kẻ cầm bút nếu không cẩn trọng, đánh rớt lương tri, thì tai hoạ khó lường!....
Khấu nghe qua, lòng hối hận tận cùng, suốt đêm không sao chợp mắt.
Sáng ra suối rửa mặt, kinh hoàng khi thấy một kẻ tóc trắng phau phau từ đáy nước nhìn lên. Khấu trừng mắt; kẻ ấy cũng trừng mắt. Khấu thẳng tay chỉ vào kẻ ấy; kẻ ấy cũng thẳng tay chỉ lại, còn nghe như có giọng hét lớn: “Kẻ cầm bút như mi, chính là tội đồ!”
Khấu cả kinh, ngã nhào xuống nước./.