Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.103
123.229.920
 
Trần Hoài Thư: Cuộc Đời và Thơ Văn như chất keo dính chặt qua Ô Cửa
Phạm Văn Nhàn

1.

Tập thơ Ô Cửa của Trần Hoài Thư dày 380 trang, gồm 247 bài thơ. Có lẽ đây là tập thơ mà anh “ tâm huyết” nhất, sau khi đã “tổng hợp” lại tất cả những bài anh đã làm trong suốt ba mươi năm (?), lấy cái mốc tháng tư, một chín bảy mươi lăm. Tháng có nhiều nghiệt ngã và bạc bẽo ( chữ của anh Đặng Tiến ).

 

Mở đầu tập Ô Cửa, THT viết: “ Thấm thoát hơn ba mươi năm tôi xa bạn, và  25 năm tôi ở xứ người. Tôi bây giờ như con ốc mang hồn đi hoang.Vỏ tôi đó nhưng hồn tôi trôi dạt...Hồn tôi xin được gởi trên những trang chữ nghĩa của tập thơ này. Xin được gởi đến bạn như là một món quà văn nghệ của một người bạn cũ từ lâu xa cách.”

 

Lời mở cho một tập thơ dày 380 trang chỉ bằng đó con chữ. Theo tôi: vừa đủ nhưng cũng không thiếu những ý, những từ mà anh đã trải lòng mình trong tập thơ để gởi đến bạn bè ngày hôm nay.

 

Với 247 bài, tập Ô Cửa chia làm 6 phần:

* Dưới Trời Khói Lửa ( 80 bài)

* Tình Si ( 61 bài)

* Lao Khổ Rừng Chàm ( 6 bài )

* Quê Nhà Bỏ Lại ( 23 bài)

* Bạn Bè ( 7 bài )

* Cõi Riêng ( 70 bài )

 

Tôi nhận được 2 tập Ô Cửa do anh gởi tặng. Tập đầu xuất bản tháng 10 năm 2004. Và, một năm sau, đúng vào tháng 10 năm 2005 tái bản lần thứ hai. Nhưng với tập tái bản lại lần thứ hai,  người đọc dễ dàng tìm đọc những bài thơ nào trước, nào sau ( theo ý thích ) hơn tập xuất bản đầu tiên. Tôi viết bài này khi nhận tập Ô Cửa mà anh tái bản ( tháng 10-2005)

 

Tại sao anh chọn đề cho tập thơ là Ô Cửa? Theo tôi, có lẽ hình ảnh những ô cửa từ trong ngôi trường cũ ngày nào; mà nơi ấy: thầy, bạn bè đã một lần hay nhiều lần vẫn mãi mãi hiện diện trong tâm thức của anh.

 

“Ngôi trường cũ có bao nhiêu ô cửa

Để tôi về đếm những đám mây

Tôi sẽ gọi một bầy chim sẻ nhỏ

Những con chim từ xa vắng lạc bầy

.....

Tôi sẽ về để biết mình bé dại

Hôm nào đây chạy đuổi cuộc hành trình

Sông nuí ấy hai bên bờ ngăn cách

Đứa nào còn, nào mất giữa đao binh

 

Tôi sẽ nhớ một người tôi yêu dấu

Người nào đâu về lại giữa đêm qua

Dấu chân nhỏ như vết hài vạn cổ

Đôi mắt nào theo dõi cuộc đời ta

......

( Ô Cửa- trang 235)

 

Vâng. “Những con chim từ xa vắng lạc bầy” ấy đã mãi mãi còn lại trong tâm thức của anh, để anh hình thành nên một tập thơ “ đồ sộ” với 380 trang.

 

Trích vài đoạn trong bài Ô Cửa, có lẽ, tôi hiểu được lòng anh: bạn bè, người yêu, chiến tranh, quê hương sông núi mà “ đã theo anh” trong suốt chặng đường dài gian khổ. Chặng đường chông gai, mất mát ( tuổi trẻ) trong chiến tranh, mất mát  hay nói cách khác là quá “uổng phí” trong những trại cải tạo. Cũng vì những tháng năm nghiệt ngã ấy, mà anh chỉ thấy: Bốn năm ở Trà Tiên/ Tràm xanh mờ lên mắt/ Mênh mông đầm lau lách/ Bèo lớp lớp ngụy trang. hay: Chỉ thấy đám tù binh/ ngoi ngớp cùng nước lũ...Để rồi, sau những năm cải tạo anh cũng như bao nhiêu người khác ra đi để tìm cho  mình một “lối thoát” mà “tứ bề” đang vây bủa. Thoát, không có nghĩa là anh chối bỏ quê hương. Rõ ràng: bụi chuối bên đường tình cờ anh bắt gặp, thì...hình ảnh quê nhà trong máu huyết của anh trỗi dậy trên quê người:

....

Có một ngày giữa tiểu bang mênh mông

Chúng tôi đã bàng hoàng dừng xe, thổn thức

Bụi chuối nhà ai bên đường đã mọc

Chuối mẹ chuối con, trời hỡi quê nhà

Có điều gì rưng rức trong tim ta

Khi cả một quê hương bỗng nhiên trở lại

Thấy cả vườn sau cây xoài cây mận

Bụi chuối sau hè, lu nước, mương con

Chiếc gáo dừa còn để đấy héo hon

Thấy cả bụi chuối con nép mình nhỏ bé

....

( Bụi Chuối Bên Đường- trang 244 )

 

Hình ảnh một “ thôn dã” mà anh đã đánh mất. Bỗng nhiên : Có điều gì rưng rức trong tim ta. Một điều gì vậy? Cây chuối mà anh đã bắt gặp trên đường đi làm nơi xứ người. Ai rồi cũng phải có một quê hương trong ngăn trí nhớ của mỗi người. Nó trừu tượng lắm. Nhưng cũng mãnh liệt lắm khi có ai nhắc đến tên một con đường, một con sông, một khu phố cũ, một cây đa bến nước mà mỗi chúng ta đã trải qua...chỉ có ai đó nhắc đến thôi, ta cũng quay quắt rồi...huống chi anh đã bắt gặp hình ảnh quê hương của anh qua “ cây chuối”

 

Để rồi qua hình ảnh “ cây chuối” mà anh đã bắt gặp, dù chỉ gì là vô tình, anh đã xúc động mạnh: “ Chúng tôi đã ngồi trong lòng xe, lệ ứa/ Giữa muôn trùng tiếng gọi của quê hương” Đối với một người bình thường cho dù chỉ bắt gặp một cây chuối hay một vườn chuối đi chăng nữa thì cũng chỉ ...“ a” lên một tiếng mà thôi. Còn với một người làm thơ như anh...thì khác. Khác ở chỗ  anh đã “lệ ứa ” khi bắt gặp một hình ảnh thực cũng đủ để cho lòng anh thổn thức và quay quắt. Hình ảnh đó đã “ trỗi dậy” để anh nhớ về một thời thơ ấu trên quê nhà: Nha Trang, Đơn Dương, và ...Huế.

....

Da tôi sạm đen ngâm hoài nước bể

Tóc vàng hoe vì nắng lửa rừng Dương

Hồn tôi xanh, xanh rau muống Sinh Trung

Mắt dư dật, mây Hà Ra Xóm Bóng

Mười mấy năm rồi, tôi không về thăm

Cơn sóng biển đã trở thành sóng nhớ

Nha Trang ơi trái bàng khô vỏ

Đi đâu rồi cũng thương nhớ Nha Trang..

( Tuổi ấu thơ tôi ở Nha Trang – 271)

 

Hay, khi anh  về Huế:

 

Bao năm đi biền biệt

Mang nỗi buồn cách xa

Con dế mèn đã ngủ

xanh xao mùa trăng xưa

...

Ôi một ngày về lại

Chắc sẽ buồn úa thêm

( Đường Lá Me- trang 153)

 

Khi viết về Huế, tuổi ấu thơ đã đánh mất : con dế mèn đã ngủ . Nhưng phải nói bài: Huế Gọi Ta Về đọc nghe thật dễ thương. Nhưng buồn quá đỗi. Có lẽ: Huế đã buồn rồi. Buồn từ con đường góc phố. Buồn trên những đọt cây. Buồn từ những giọng rao hàng của các O trong những đêm khuya khoắt. Buồn từ những giọt sương đêm rơi trên lá. Buồn từ ngôi nhà kín cổng, kín rào. Buồn! Phải nói như thế, cho nên, tôi đọc Huế Gọi Ta Về- trang 253 rõ ràng buồn thật. Xin trích:

 

Có một dòng sông mềm như dãi lụa

Có hai ngôi trường như hai tình nhân

Có một con đường mỗi ngày hai bận

Anh theo em về, qua bến qua sông

 

Có một chiếc cầu bắc qua thành phố

Thành phố mù sương, phố cổ mù sương

Có anh tội tình như loài cổ thụ

Em đậu trên cành làm anh bâng khuâng

.......

Nhưng tuổi thơ của anh lớn lên, cũng có thể nói lớn lên từ: giữa một vùng đầy nhạc dế xênh xang....nơi rộc rau muống, ấp Hà Thanh, Nha Trang ( anh vẫn nhắc nhiều về địa danh này trong Ra Biển Gọi Thầm). Khi anh viết về tuổi thơ, tôi vẫn thích:

 

Con dế nào của tuổi dại u mê

Cứ than vãn giữa đêm hè xứ Mỹ

Hay chú dế của một thời ủy mị

Đang gọi những mùa hè đã mất trong ta

Đang gọi những cánh đồng xưa bao la

Những cánh đồng ngập tràn rau muống

Ôi những ruộng đường

Những bước chân luống cuống

Giữa một vùng đầy nhạc dế xênh xang

....

Đứa nhỏ thời nào của xứ Nha Trang

Của thời Sinh Trung chưa bồi chưa lỡ

( Rộc Rau Muống- trang 262)

 

Rộc rau muống, nơi đây, cũng là nhà của người bạn tôi, anh Nguyễn Huy Hoàng. Anh có tiệm sách trên đường Độc Lập. Mỗi lần về NT là ngủ lại nhà anh. Nằm trên căn gác, đêm nghe tiếng dế gáy vang dưới rộc rau muống. Ấp Hà Thanh ngày xưa. Bây giờ chắc có nhiều đổi thay. Với THT, hình ảnh nào anh bắt gặp cũng gợi lên cho anh “quê nhà” trong “ ngăn nhớ” của anh, bàn bạc, nhẹ nhàng những nhiều kỷ niệm.

 

Cũng như nhà thơ Vũ Hữu Định, công tác một nơi nào đó, khi nhìn những cánh cò bay, ông có  những vần thơ:

 

Buổi chiều đứng ngắm đăm đăm

Mấy thân cò dạt xiêu tầm mắt xa

Thấy gì không giữa bao la?

Mà nghe tâm động nỗi nhà quạnh hiu

( Nhìn Cò Bay, Nhớ Nhà.Thơ Vũ Hữu Định- trang 25- Thư Ấn Quán 2006)

 

Hay, khi nhà thơ VHĐ nghe tiếng còi tàu thôi, lòng ông cũng “khao khát và rướm máu”

 

“ Nhà anh ở gần ga

đêm thao thức nghe còi tàu giục giã

giữa đêm vắng chợt thấy lòng xa lạ

mấy năm không di trời đất nhỏ dần

ôi tiếng còi tàu như một nhát gươm

rướm máu lòng khao khát.

(Đêm Nghe Còi Tàu- Thư Ấn Quán 2006)

 

Với Trần Hoài Thư hay với một nhà thơ nào khác, tôi nghĩ cũng “ rất nhạy cảm” khi nhìn một “ ngoại cảnh”... mà thấm đẫm vào lòng.

 

2.

Với độc giả khi đọc Ô Cửa của nhà thơ Trần Hoài Thư, tôi nghĩ, đọc để cảm nhận cái hay những bài thơ trong tập thơ ấy. Với những con chữ bình dị. Với lối gieo vần tự nhiên không gò bó trong khi đi tìm vần...thơ anh dễ đọc và dễ gieo vào lòng người. Còn đối với tôi thì khác, Giữa tôi với anh như có một “ thiện duyên” gắn bó. (!). Cái “duyên” ấy kéo dài từ ngày mà tuổi trẻ chúng tôi “ được hay bị” ném vào cuộc chiến ( thập niên 60 ) trên chiến trường Bình Định. Chiến trường, không phân biệt ai, “bạn cũ hay mới”. Gian khổ chia cho nhau, vui sướng cũng chia cho nhau. Mà nói thật khổ nhiều hơn là sướng đối với những người lính như chúng tôi. Nhất là tuổi trẻ của chúng tôi lúc bấy giờ chỉ biết “ thẳng hướng” ra chiến trường. Gặp nhau nơi phố thị ngày nào, là vui ngày náy...Cho mãi đến hôm nay, tôi không nghĩ ra là khi nào, do ai... mà tôi với anh gặp nhau trong cùng....một chí hướng ( lính trận- và khổ).

 

Trong phần đầu viết “ dưới trời khói lửa” tôi bắt gặp ngay nơi trang 7 bài thơ Qui Nhơn:

 

Đã la cà vĩa phố đến mòn chân

Đã lê la đến mòn rách đáy quần

Đã quen thuộc từng tên đường nẻo ngõ

Mai lỡ chết cũng quay đầu về thành phố

Để nhớ về những ngày thuốc lá cà phê

Để nhớ về  một vũng máu hôm tê

Đã nhuộm đỏ cây xăng Ông Tề

Trong ngày tái chiếm

( Qui Nhơn )

 

Vâng. Vĩa phố/ mòn chân/ rách đáy quần/ thuốc lá cà phê. Và cây xăng Ông Tề...Những con chữ trong bài Qui Nhơn làm sao tôi không nhớ được. Đã lâu, 37 qua mà hình ảnh đó như ngày nào, đọc lại những con chữ trong bài thơ ấy tôi nhớ như in. Vâng: “ để nhớ về một vùng máu hôm tê/ đã nhuộm đỏ cây xăng Ông Tề” Tôi biết, và những người lính thám kích 405 biết. Sáng hôm sau, mùng một tết ( năm 1968) tôi lại vào thăm anh nơi quân y viện Qui Nhơn. Gặp nhau...cười méo xẹo; và mong “cậu” sớm bình phục để còn về phố la cà “ thuốc lá, cà phê” với bạn bè, rong chơi được ngày nào vui ngày náy để biết bọn mình “thoát vòng tử sinh”.

 

Bởi vì, có lẽ, Qui Nhơn là nơi...hấp dẫn đám “ lính trẻ” chúng tôi thời bấy giờ. Khi mà, nơi ấy dù gì cũng là chỗ ...vui hơn là “ lội ” ngoài chiến trường. Vì nơi ấy:

....

“ Thành phố nọ trở về vui một bữa

Đám cô hồn mấy đứa buồn như nhau

Tiếng hát Khánh Ly, quán mờ đèn lu

Ai nức nở xoáy hồn ta, đau nhói

Mắt mỗi đứa nhắm nghiền,

u hồn khói thuốc

Đêm bên ngoài, hay

đêm của thanh xuân

Giọt cà phê đen, quạnh đặc linh hồn

Đôi mắt bạn bè chao ơi, buồn quá đỗi..

( Về Với Phố – trang 68 )

 

Và, thật tình mà nói: “Đôi mắt bạn bè chao ơi, buồn quá đỗi” ấy như vẫn còn hiện diện  với tôi, khi những kỷ niệm trở về, khi tôi đọc bài thơ: Căn Nhà Trong Khu Sáu ( phần 5- Bạn bè )

...

“ nhắc nhở chuyện trò huyên thuyên bất tận

Kể lại một thời gian hồ áo trận

Căn nhà xưa, bạn cũ quây quần

Chiếc áo cơ hàn bao đứa đặt lưng

Nghe như đâu đây mùi hôi ẩm mốc

Phòng để cửa mùa đông tối đặc

Đêm về khuya nghe sóng vỗ Quy Hòa

...

( trang 286)

 

Làm sao tôi không nhớ được bạn bè trong ngôi nhà ấy, mà anh đã nhắc đến: Phạm cao hoàng, Lê Văn Trung, Mường Mán, Thái Ngọc san, Mai Khế, Lê văn Ngăn. Vâng, còn nữa. Cả nhà thơ Nguyễn Ngọc Loan ( pháo binh- chết trên kontum) cả nhà báo Huy Hoàng- đã mất- một thời đến ở chơi trong căn nhà khu sáu này. Ngôi nhà ấy: chiếc mền đắp ba bốn thằng dơ bẩn/ những chén cơm khô chưa rửa/ Và cửa đôi khi mở ra/ Một gương mặt ló vào/ Để không bao giờ tìm gặp lại.

 

Những bạn bè ngày nào còn ai, ở đâu khi tuổi trẻ chúng tôi, nói thật, lúc bấy giờ chán chường trong cuộc chiến. Trong số những bạn bè ấy, hôm nay, còn có người ngoài nước, như tôi, THT và Phạm Cao Hoàng...  Nhưng, như tôi đã nói, hình như tôi với anh  có cái duyên . Mà cái duyên này phải là “ thiện duyên”. Do đó, cũng trong bài “Căn Nhà Trong Khu Sáu” ấy, anh đã viết:

...

“ Bạn còn nhớ không những ngày ở Phan Rang

Ta trở về để tóc để râu

Những toa tàu đen, và con đường sắt

Bỗng nhớ vô cùng hoa qùy Đơn Dương

Thương tội tình toa sắt trống trơn

Dưới chân đèo trong mùa tiêu thổ

Khi núi sông đau màu cách trở

Thì xá gì những kẻ xa nhau.

....

( trang 288)

 

Cái duyên ấy kéo dài cho mãi đến hôm nay, tôi với anh gặp lại nhau, hỏi thăm nhau. Anh viết thay tôi: hỏi người làm gì- đóng tủ đóng bàn/ Hỏi ta làm gì- hành nghề điện toán/ Cười ha hả, ngày xưa cầm súng/ Giờ làm thêm ba thứ lạ đời/ Thôi còn chút tình bằng hữu chia đôi/ cho ấm chút lòng quê người đất khách.

 

Cái “ ấm lòng một chút nơi quê người đất khách” đó không phải mới có ngày hôm nay, phải không THT? mà nó đã có từ những ngày đầu anh mới ra khỏi quân trường đã bị “ viên đạn AK” bắn vào ngực anh nơi cây xăng Ông Tề. Qui Nhơn. Để rồi, với 247 bài thơ anh vẫn còn nhớ... đêm ngủ trong chuồng ngựa Pasteur/ Nha Trang mà viết:

 

“ Lính trận về thành, không chỗ ngủ

May viện Pasteur còn chuồng ngựa

Hai thằng tuổi ngựa nhờ qua đêm

Nằm nghe sóng biển ru buồn tênh

 

Tuổi ngựa thì ngủ chuồng cũng xứng

Quen rồi mả mương hầm thức trắng

Ngủ đi, hãy cố ngủ đi con

Để mai còn về Quân Khu Năm

Chọc đám hậu cần trên An lão

 

Bài thơ ghi lại những kỷ niệm của ba người, nhưng chỉ còn hai ( tôi và anh ) còn một người bạn nữa, ký giả Lê Minh ( trong nước ) thì đã ra người thiên cổ.

 

Đọc lại bài thơ Đêm Tiếp Cứu Chợ Huyện trang 28. Tôi bồi hồi nhớ lại kỷ niệm khi quận bị những người bên kia tấn công vào, quận trưởng bị giết (thiếu tá Tùng), và một cô giáo sinh sư phạm bị bắn chết, một cô khác bị thương. Những chiếc xe nhà binh 10 bánh, mở đèn “ mắt mèo” chạy trong đêm đưa tôi với một toán lính đến để giữ an ninh  lúc ấy. Nửa khuya, THT cho tôi biết, toán quân anh sẽ tiến vào, và tôi hãy cận thận vì họ đang chuẩn bị tập kích quận lần nữa. Có đơn vị anh vào, tôi an tâm để “rút quân” ra. Và, có lẽ, chính THT cũng không ngờ một cô giáo sinh sư phạm bị thương ngày nào đó lại đang định cư ở Houston. Chị Tiếu Lan ( người Huế ) là bạn với gia đình chúng tôi.

Ta nghe THT viết:

 

Diều hâu đã về như một lũ âm binh

Kẻ trước người sau lao vào địa ngục

Đêm không thấy đường, giữ dây khỏi lạc

Chúng tôi băng đồng nước ngập

giải cứu quê em

 

Ta đã về, giành lại quê hương

Giành lại quận đường hoang tàn đổ nát

Giành lại  ngôi trường lời ca tiếng hát

Nhưng ta lại không giành được em gái ta yêu

 

Ta đã về nhìn bầy chim nhỏ cút côi

Chúng ủ rũ, như lòng ta ủ rũ

Lũ bé qùi bên xác người cô trẻ

Đặc vòng hoa, mếu máo gọi cô về

Cô không về, cô bỏ dạy, cô đi

Cô bỏ chúng con cô về xứ khác

Ta cắn bầm môi, em ơi, ta khóc

Em không về em cũng bỏ thanh xuân

Em bé quê ơi, cho ta nhành bông

Một nhành bông qùi vàng như màu áo

Ta đặt lên em. Trống trường ảo não

Như những hồi mặc niệm em tôi

 

Ta đã về, và đã trễ, em ơi...

 

Và, hôm tôi về Houton, Tiếu Lan có đến thăm. Và chị cho biết mới làm giỗ anh Tùng, Quận trưởng quận Tuy Phước ( chợ Huyện ) trong đêm quận bị tấn công ấy. Và, hôm nay, chính chị Tiếu Lan cũng không ngờ, đêm ấy lại có tôi và cả THT đã đưa quân vào quận trong đêm mà có cô giáo sinh Sư Phạm bị bắn chết, và chị Tiếu Lan bị thương. Gần bốn mươi năm qua, đọc bài thơ của anh : Đêm Tiếp Cứu Chợ Huyện, rồi gặp lại gia đình chị Tiếu Lan ở Houston...thử hỏi lòng tôi sao không bồi hồi?

 

3.

Dù gì với tập thơ dầy cộm mang tên Ô Cửa của anh, đã gợi lại trong tôi bao kỷ niệm; vì trong Ô Cửa tôi đã thấy bạn bè và những kỷ niệm không thể nào quên. Ở Phan Rang ( Tháp Chàm ) mấy tháng với tôi, rồi lên cao nguyên :

 

“ Khi chuyến xe sáu giờ khởi hành

Hôm nào ta bỏ Nha Trang lên miền cao

Nhớ vô cùng người ở xa

Điếu thuốc mồi chung, ướt nhòe con mắt

 

Ngươi gởi cho ta chiếc jacket

Xe lên đèo mù, mặc áo bạn trao

 

Có phải ngươi đở ta như chiếc phao

Khi ta bấp bênh biển đời nổi sóng

...

( Căn Nhà Trong Khu Sáu – trang 285 )

 

Đâu phải chỉ có tôi, có anh , mà còn những người bạn rất chân tình nữa. Trong đó có cả Lữ Quỳnh ( nam Cali ). Chính Lữ  Quỳnh lái chiếc jeep để đưa anh vượt Cù Mông. Từ đó anh mới về được Nha Trang. Và từ NT về chơi vài tháng với tôi ở Tháp Chàm.

Và, với những người bạn chân tình ngày nào trong nhóm Ý Thức như sống lại của những tháng ngày còn “ lận đận”  binh đao trong trong căn nhà vách tôn, mái tôn nóng kinh hồn bên đường rầy xe lửa gần ga Tháp Chàm ấy.

....

Những toa tàu đen, và con đường sắt

Bỗng nhớ vô cùng hoa quỳ Đơn Dương

Thương tội tình toa sắt trống trơn

Dưới chân đèo trong mùa tiêu thổ

Khi núi sông đau màu cách trở

Thì sá gì những kẻ xa nhau

( trang 288)

 

Rồi cũng từ Tháp Chàm này anh lên miền cao, rồi về miền Tây - vào khoảng năm 1970 (?) -. Anh miệt mài nơi miền sông nước, tôi miệt mài nơi Dục Mỹ/ Nha Trang sương lam chướng khí của ngày xa xưa. Tháng tư năm 1975, mỗi người chúng tôi đều có chung một đáp số. Chẳng biết cuộc sống của anh thế nào và bạn bè ra sao ? Bởi vì cuộc sống hằng ngày của tôi khép kín hơn 7 năm trong các trại, và đường thì bị “ ngăn sông cách ngăn” vì nhiều lí do...

Từ năm 1970 năm ấy, anh về miền Tây, mới biết:

 

“ Cảm tạ em. Người em Cần Thơ

Anh theo em bỏ xứ. Bao giờ

Bao giờ. Như thể tiền thân trước

Một kẻ lưu dân trở lại nhà

 

Và:

“ Cảm tạ em người em Cửu Long

Em cho anh hơi thở đồng bằng

Từ trong lòng dậy  nguồn ân lượng

Của chập chùng  cam khổ tiền nhân

....

 

( Cảm Tạ Đồng Bằng – trang140 )

 

Để rồi, sau bốn năm trong trại cải tạo trở về, anh: lăn chiếc phuy dầu lên cá lớn/ Trời ơi ta từ biệt Việt nam/ Việt nam. Đêm ấy đêm trừ tịch/ Có những con người lại cách ngăn ( Đêm Từ Biệt Việt Nam ). Cảm tạ em, người em Cần Thơ. Khi gặp lại nhau trên xứ người. Ngoài nụ cười “ sảng khoái” của anh ra, tôi hỏi: người em Cần Thơ là chị Y...không? Vẫn nụ cười dù trong gian khổ ngày nào ở chiến trường Bình Định, anh nói đúng. Tôi cười vui...biết rồi, khi chúng tôi còn ở trong căn nhà tôn gần ga Tháp Chàm. Tên chị làm sao tôi quên được, dù chưa gặp chị lần nào...nay thì đã biết “ người em gái Cần Thơ” đã một thời ...“Tôi quá nghèo, chỉ bộ đồ xanh/Dăm thằng bạn quen nhau thời khốn khó/ Nàng thì thào bên tôi cần gì thứ đó/ Miễn tình anh vô lượng như thơ anh

 

Tôi vui biết mấy khi đọc câu thơ này: miễn tình anh vô lượng như thơ anh. Rõ ràng là như thế. Trong thơ THT rất “vô lượng” tâm, chẳng mang một chút hận thù nào; dù máu anh đã nhiều lần đổ ra cùng với những người lính trong đơn vị anh, hay bạn bè anh  đã nằm xuống. Tôi chưa thấy những câu thơ nào của anh trong tập Ô Cửa ( phần: Dưới Trời Khói Lửa) nói lên những câu đầy hận thù và đầy ... máu. Với anh, tôi biết: anh không dùng thơ để gây kích động một hận thù “ phi nghĩa” mà thơ anh như “ giải tỏa” một tâm sự của thế hệ anh, và thế hệ của chúng tôi: Thế Hệ Chiến Tranh. Có lẽ vì thế, cho nên:

 

Thế hệ chúng tôi đã mang đầy vết sẹo

Vết sẹo ngoài thân và vết sẹo trong hồn

hay:

Quá khứ tương lai, chuỗi ngày vô vọng

Chúng tôi xõa bườm, không biết về đâu

( trang 105)

 

Chẳng biết về đâu khi tuổi còn thanh xuân. Hận thù không phải là cứu cánh của người lính miền Nam như chúng tôi. Cho nên trong bài: Một Ngày Không Hành Quân ( trang 34 ) ta thấy được tấm lòng của người lính qua những dòng thơ rất đẹp và đầy “ Phật tính” :

 

Cô hàng ơi cho một ly không

Tôi rót mời một người lính Bắc

Hắn nằm banh thay dưới hầm bí mật

Trên người vẫn còn sót lại bài thơ

 

Trên đồi cao mây vẫn xanh lơ

Có con bướm vàng diệu dàng dưới nắng

Tôi với hắn đâu có gì thống hận

Bài thơ nào cũng viết để yêu em  

 

Và, trong phần đầu của tập thơ Ô Cửa: Dưới Trời Khói Lửa đã nói lên được phần nào lính miền Nam, mà anh là một:

....

Ta lính miền Nam hề, vận nước ngửa nghiêng

Ta cũng lênh đênh cùng cơn mạt kiếp

Ta trèo lên cây hỏi rừng có biết

Có một nơi nào hơn ở Việt Nam?

Có người lính nào bi tráng hơn lính miền Nam

( Ta Lính Miền Nam- trang 25)

 

Hay trong bài Đồi Xưa nơi trang 32 anh viết về một trận chiến đã qua. Trận Phù Cũ. Hình như xảy ra vào năm 1966 (?) thì phải. Người lính nào đi ngang qua đó mà không nhớ trận đánh năm xưa. Nhưng với THT, anh không trút cái hận thù lên trên ngọn đồi đó khi có những bạn bè của anh ngã xuống. Mà, ta nghe:

 

Tôi qua đèo xám, mây mờ núi

Thương về đâu, một lũ sáo rừng

Hôm qua đồi ngập hàng trăm xác

Đạn pháo đào sâu bãi chiến trường

....

Có ai dưới lớp mồ hoang dã

Nằm xuôi chân mắt mở  trợn trừng

Chiều nay sao mọc về phương Bắc

Sao ruột lòng vắt đỏ phương Nam

 

Hay:

Những xác hôm qua vàng rám mỡ

Những anh hùng, ngụy tặc, nằm chung

( những anh hùng, ngụy tặc- chữ của những người bên kia thường dùng) . Với anh trong chiến đấu, thơ cũng vẫn nhẹ nhàng, rõ ràng không vẫn đục hận thù.

 

Nói cho cùng những địa danh anh đã đi qua- chiến trường Bình Định- ít nhiều tôi đã đến. Anh đã gợi lên trong tâm thức tôi những hình ảnh của một thời gian khổ hành quân, của những ngày cơm chan hòa nước mưa dưới vành nón sắt, dưới bóng dừa Tam Quan, An Lão , Hoài Ân, An Thường và bên dòng Lại Giang. Của những ngày “ nuốt đau” vuốt mắt cho người bạn vừa trút hơi thở ở một “địa danh”  mà dân “ phố thị” chẳng ai biết đến; vì rõ ràng: có một nơi nào hơn ở Việt Nam?...

 

Chiến trường Bình Định đã lùi xa. Nhưng làm sao chúng tôi quên được những địa danh mà một thời, ít nhiều tuổi trẻ chúng tôi đã đến. Khói lửa chiến tranh, chết chóc, điêu tàn ... đã chạnh lòng nhà thơ Phạm Triều Nghi (*) khi đi qua đèo Bình Đê đã viết:

...

Tháng tư

Lửa bùng lên đầu chợ

Lửa cháy quanh sông

 Lửa vây Đệ Đức

 Lửa đốt Bồng Sơn

Người người tan xác giữa đồng

....

Ngó về đâu không rợn màu tang tóc

Ngó Nam ngó Bắc

Nuốt tiếng thở dài

Ai đến Tam Quan thương vay?

Ai đến Sa Quỳnh khóc mướn?

Có nghe những oan hồn vất vưởng

Than van trên ngọn cờ bay

Kêu đòi thân thế hình hài

Trăm năm cát bụi...miệt mài cơn đau.

( TQBT 20- trang 96 )

 

Nhà thơ Phạm Triều Nghi là một nhà giáo, khi đi ngang qua đèo Bình Đê vào khoảng năm 1973 thấy Bồng Sơn tan hoang, làm sao  anh không chạnh lòng? Còn nhà thơ THT dù trực diện với cuộc chiến thì anh vẫn xem nhẹ như mây trời để lòng anh lúc nào cũng thanh thản.

 

Thì ta ra trận, ta ra trận

Trăm lần, thì cũng chuyện rong chơi

Vẫn chuyến bốc quân vào buổi sáng

Vẫn chuyến trở về không buồn vui.

...

(Nhảy Trực Thăng Ở Phước Lý – trang 30 )

 

Với 247 bài thơ trong tập Ô Cửa của anh đã làm cho tôi càng thích thú khi đọc. Thích, không phải giữa tôi với anh quen biết nhau từ lúc máu anh đã đổ xuống nơi cây xăng Ông Tề trên phố  Qui Nhơn trong năm Mậu Thân ( 1968); mà thơ anh gần... rất gần với bạn bè một thời rong chơi. Khi mà: Giờ thì già, ngựa đã nãn chân bon./.

 

 (*) Bút kiệu của nhà văn Phạm Ngọc Lư

 

Amarillo, 27-5-2006

(nguồn TQBT). Bản gửi từ tác giả

Phạm Văn Nhàn
Số lần đọc: 1967
Ngày đăng: 03.01.2011
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Mùa biển động của Nguyễn Mộng Giác - Thụy Khuê
Những Con Chữ Hân Hoan, Búng Mình Trên Mặt Sông Chữ, Nghĩa Lữ Quỳnh - Du Tử Lê
Nghìn năm nghe gió nói lời cây - Lâm Xuân Vi
Trò chuyện trong quán La Catedral của Mario Vargas Llosa - Phạm Văn
Tiếng kêu trầm thống trong Những cơn mưa mùa đông (*) - Nguyễn Lệ Uyên
Bài Hát Ngày Về Thơ Trần Huiền ÂnCuộc Hành Trình Thầm Lặng Trở Về Chơn Tâm - Mang Viên Long
Thế Giới Và Những Lát Cắt Siêu Thực - Hoàng Thụy Anh
Như Là Tình Yêu - Nguyễn Thị Phụng
Một vụ việc cố tình và mấy lời trần tình* - Nguyễn Chính
Địa hạt thơ ca xưa nay luôn sôi động. - Hồ Thế Hà