Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.147
123.225.584
 
Quà xuân của nhà văn hoá Hữu Ngọc
Vân Long

Mỗi khi xuân về, Tết đến, chúng ta hay nghĩ đến những người thân nơi xa, thường chọn một bưu thiếp có hình ảnh bắt mắt, viết lời chúc thân ái, nồng nhiệt,    tính ngày gửi để bạn nhận được đúng dịp Tết.

 

Riêng nhà văn hoá Hữu Ngọc, năm nào tôi cũng nhận được một tặng phẩm   độc đáo do cụ nghĩ ra, thường bao hàm một ý nghĩa nhân sinh, văn hoá nào đó.

 

 

Cũng phải nói thêm về căn cốt Thăng Long - Hà Nội của cụ Hữu Ngọc. Quê gốc của cụ là xã Trí Quả, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh. Nhưng ông nội của cụ đã rời Kinh Bắc lên đây sinh sống tại phố Hàng Gai thuộc phường Cổ Vũ, đã từng làm tiên chỉ phường này! Do vậy, Hữu Ngọc được sinh ra  và lớn lên ở  đây, một phố cổ của Hà Nội. Phố Hàng Gai có nghề truyền thống đặc biệt thanh cao. Trước hết là nghề bán sách Hán Nôm, kể cả bán buôn cho các tỉnh. Thợ khắc mộc bản in sách Hán Nôm người làng Liễu Chàng Hải  Dương đều trọ quanh đây (Tô Tịch hay Hàng Mành). Hồi còn thi nho học, các sĩ tử hay lượn quanh các cửa hàng sách mua giấy bút, còn là cớ để ngắm các cô bán hàng. Con gái Hàng Gai nổi tiếng nết na, có học và thanh lịch. Họ thường thuộc các gia đình quan lại về hưu hoặc nhà nho bất đắc chí. Khi chuyển sang học chữ Quốc ngữ, từ in khắc gỗ sang in máy, Hàng Gai lại thành cái nôi của nhiều tờ báo: Hữu Thanh, Khai Hoá, Khoa học, nhất là báo Đông Pháp là báo rất nhiều độc giả. Cụ thân sinh của Hữu Ngọc bỏ nho chuyển sang Tây học, làm thày Ký Sở Máy đèn. Vậy là đã ba đời gia đình cụ lập nghiệp ở Thăng Long Hà Nội (tam đại thành tổ). Cụ lại được sinh ra, hít thở không gian văn hoá từ cổ đến kim của khu trung tâm Hà Nội này. Phải chăng cụ đã hấp thu nền văn hoá Thăng Long ngay từ phút sơ sinh, ngay từ mỗi tế bào ?

 

Trở lại với những món quà Xuân cụ Hữu Ngọc tự chế tác ra để tặng bạn bè. Tôi chỉ đơn cử ba cái Tết vừa qua:

 

 

Tết Đinh Hợi (2007), cụ viết chữ Duyên (chữ Hán) vào lòng đĩa, có phác họa một cụm đào, rồi thuê thợ gốm nung vài chục chiếc đĩa (có móc gắn phía sau để treo tường) men sứ trắng,chữ xanh, hoa màu phớt đào làm quà xuân tặng bạn.  Đó là ngụ ý chúc bạn năm tới sẽ gặp một cơ duyên nào đó, mà đôi khi nhờ nó, có thể tạo bước ngoặt, hoặc một thăng tiến, thăng hoa trong sự nghiệp, trong sáng tạo. Chữ Duyên của cụ Ngọc nhắc ta nhớ đến luận điểm độc đáo của cụ: Cái ngẫu nhiên chi phối 70 % cuộc đời ta, cụ không tin bói toán, tử vi mà tin cái ngẫu nhiên khoa học. Vậy là tài sức, ý chí cá nhân (nhân định) chỉ chiếm 30 % thôi sao? Trong khi ai cũng nghĩ một người như cụ, phải đến 70% là do ý chí, do rèn luyện cả đời mà làm nên! Thọat nghĩ thì như vậy, nhưng khi bật lại cuốn phim cuộc đời nhà văn hoá nổi tiếng lão thực này, mới thấy: Ứoc mơ hồi trẻ (lúc đang là học sinh trường Bửơi, 18 tuổi, thời Pháp thuộc) của Hữu Ngọc là: dạy học ở một tỉnh miền núi, dựng một căn nhà nho nhỏ bên bờ suối, rồi có thể yêu và lấy một cô gái miền núi…

 

Hoá ra cái lãng mạn “Từng hẹn mùa xưa cùng xây nhà bên suối “ không chỉ là riêng Suối Mơ của Văn Cao, mà là “bệnh thời đại” của một số con nhà nền nếp, có học, chán ghét chốn phồn hoa, ô trọc, muốn giữ được “thanh cao” mà chưa tìm ra lối thoát. Và cơ duyên lớn của đời họ là gặp được Cách Mạng tháng Tám rũ bỏ   ách thống trị thực dân, để Hữu Ngọc đang từ người thích sống cô đơn yên ả trở thành người cả đời đi bắc các nhịp cầu văn hoá, làm bạn với cả thế giới (cụ từng làm Giám đốc NXB Thế Giới, xuất nhập khẩu các nền văn hoá qua hoạt động dịch, biên sọan, và xuất bản). Luận điểm về chữ Duyên ít ra là đúng hoàn toàn với cuộc đời cụ khi đã gặp “cơ duyên” lớn: Cách mạng!

 

Quà Xuân năm Mậu Tý (2008): cụ đưa in bài thơ (chữ Hán) Xuân hiểu (buổi sớm xuân) của Mạnh Hạo Nhiên lên góc tờ bìa rộng, gập đôi thành khổ A4. Choán cả tờ bìa rộng là bức vẽ theo lối Quốc họa Trung Quốc hình một nhành mai có đôi chim đang nép vào nhau.

 

Bài thơ nổi tiếng thời Thịnh Đường (thế kỷ VIII) do Tương Như dịch, cụ chuyển ngữ sang tiếng Anh và tiếng Pháp, in bản phụ lục kèm theo, còn bức tranh- thơ thì để nguyên chữ Hán, hẳn là bút tích một danh nho nào, nên cũng trở thành tiết họa khá hài hòa của bửc tranh-thơ!

 

Xuân hiểu

 

Xuân miên bất giác hiểu

Xứ xứ văn đề điểu

Dạ lai phong vũ thanh

Hoa lạc tri đa thiểu.

Mạnh Hạo Nhiên

 

dịch thơ Việt:

 

Giấc xuân, sáng chẳng biết

Khắp nơi chim ríu rít

Đêm nghe tiếng gió mưa

Hoa rụng nhiều hay ít

Tương Như

 

Cụ Hữu Ngọc bình rằng bài thơ có cái tứ hiện đại về nhân sinh, có tâm lý thầm kín của cái tôi , của dòng thời gian và dòng Tâm không ngừng chảy, dĩ vãng  đan xen hiện tại, cái vui lại đượm nỗi buồn của phận người.

 

Tết năm ngoái (Kỷ Sửu), cụ lại có quà mới, gặp ai đáng tặng là cụ rút ngay bút ra đề tặng vào những ngày đầu xuân, như quà mừng tuổi. Đó là một tấm   bìa lớn gấp đôi thành 4 trang khổ A4. Bìa 1 là chân dung nhà “lữ hành” Hữu Ngọc khổ nhỏ, dưới in sẵn đôi chữ Mừng Xuân và khoảng trống để  đề tặng, dưới cùng là dấu triện son riêng của cụ và chữ ký. Gọi cụ là “lữ hành”, bởi cụ hay đi, chân dung lại chụp lúc cụ đang đi, như hàng ngày cụ vẫn tạo điều kiện để đi bộ được nhiều nhất, chiếc quai túi dết khoác qua vai, chiếc mũ vải mềm quen thuộc. Nền ảnh ló ra đuôi chiếc ô tô ca và hàng rào cây xanh, tỏ ra cụ đang băng qua đại lộ.

 

Bìa 3: ảnh chụp bức tranh sơn dầu của Phạm Tăng, cảnh một đôi vợ chồng nông dân trong giờ nghỉ. Chồng mặc quần cộc, ngả lưng vào con trâu đang nằm lim dim thụ hưởng phút thư giãn, ông chủ của nó cũng đang lim dim rít điếu thuốc lào, vồng ngực và bắp tay cuồn cuộn sinh lực. Cô vợ chỉ  mặc chiếc yếm trắng, quần xắn trễ nải trên đầu gối, thắt lưng màu hoa đào, đang cười mãn nguyện ngắm chồng  và đứa con trai ngồi trên lưng trâu, hớn hở khoe con cào cào…Đối với cô vợ nông dân, trước mắt cô là toàn bộ cơ nghiệp (con trâu chỉ là…đầu cơ nghiệp!), là hiện tại bình yên, là tương lai đang lớn dần …Chú thích bức tranh nằm ở bìa 2:

 

Ngày xửa, ngày xưa…( tranh Tết Phạm Tăng – Paris 1973, tha hương vẽ tưởng tượng ). Những bạn chưa biết Phạm Tăng, sẽ được cụ Ngọc giới thiệu khái quát:

 

Phạm Tăng học trường Cao đẳng Mỹ thuật Yết kiêu, đi kháng chiến ở Nam Định. Đến cải cách ruộng đất bị dính thành phần, chạy vào Sài Gòn. Ở đây, ông vẽ và viết báo Tự do, chửi Ngô Đình Diệm, bị bắt giam. Sau có người quen lo lót với Trần Kim Tuyến, trùm mật vụ, được thả nhưng buộc phải tránh mặt tại Sài Gòn.

 

Ông sang Ý, lần lượt học hết các bộ môn của nghệ thuật tạo hình, trở thành họa sĩ nổi tiếng ở nước ngoài, được giải nhất hội họa của UNESCO.

 

Bìa 4 là bút tích và hai câu chữ Hán của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, nhà văn hoá nổi tiếng của ta thế kỷ 20:

 

Thỉnh nhĩ tu du vong thế sự

Tùng lâm tuyết lạc tự mai hoa

(Xin bạn phút giây quên thế sự

Rừng thông tuyết rụng tựa hoa mai)

 

Tiếp đó là bản tiếng Pháp, tiếng Anh do Hữu Ngọc chuyển ngữ, bởi số bạn cụ gặp  hàng ngày là nhà báo, nhà văn nước ngoài nhiều hơn bạn Việt, bởi cụ làm báo tiếng Pháp, tiếng Anh, làm Chủ tịch cho hai Quỹ văn hoá nước ngoài hoạt động ở Việt Nam. Đôi câu thơ này cũng có sự tích của nó:

 

Hồi Nguyễn Khắc Viện hoạt động và chữa bệnh ở Pháp, sau 6,7 lần bị mổ, bị cắt đến ¾ phổi và mấy cái xương sườn, ông vẫn hoạt động trong phong trào yêu nước của người Việt ở Pháp và nghiên cứu văn hoá. Một giáo sư Trung Quốc tìm đến tham vấn ông. Ông này có nhiều mối lo về thế sự. Bác sĩ  Nguyễn Khắc Viện muốn giải toả những ức chế cho bạn, trong khi đưa bạn đi dạo rừng thông, đã ứng khẩu hai câu thơ trên. Cụ Hữu Ngọc thường nói: “Đó là thơ chống stress của ông Viện!” Quả nhiên là với ý chí rèn luyện sức khoẻ ( phương pháp luyện thở Nguyễn Khắc Viện) và tinh thần lạc quan của ông, Nguyễn Khắc Viện đã làm giới y học Pháp, Việt phải kinh ngạc về tuổi thọ, ông sống lâu không thua gì một người khoẻ mạnh!

 

Không phải ai trong chúng ta muốn là có thể học được phong cách giao lưu đầy tinh thần nhân văn, nhân ái của những người…xưa nay quá hiếm như hai nhà   văn hoá Hữu Ngọc, Nguyễn Khắc Viện. Nhưng ta vẫn cần biết để tránh những hành động, phong cách trái ngược với nét đẹp văn hoá của cha ông trong dịp đầu xuân, tránh làm tổn hại những ngày xuân trong sáng của bạn!

 

Ngày 22-12-2010 vừa qua là sinh nhật thứ 92 của cụ Hữu Ngọc, người có duyên với bộ đội, từng làm Trưởng ban giáo dục tù hàng binh Âu Phi hồi kháng chiến chống Pháp. Làm việc này cụ Hữu Ngọc đã ứng dụng sách lược “tâm công” của bậc tiền nhân Nguyễn Trãi, tiến công bằng tâm lý, hình như chưa một nước nào làm giống thế. Có thể làm một luận án tiến sĩ về vấn đề này!  Cụ Ngọc nghĩ thế, nhưng cụ không làm, cụ bận làm mấy việc lớn hơn: Đến năm nay, cụ đã hoàn thành 3 cuốn sách cơ bản và hết sức đa dạng về nền văn hóa Việt bằng 3 thứ tiếng:

-   Wandering through Vietnamese culture (Lang thang trong văn hoá Việt Nam)

-   À la découverte de la culture Vietnamienne ( Khám phá văn hoá Việt Nam )

-   Lãng du trong văn hoá Việt Nam.

 

Mỗi cuốn đều trên một ngàn trang, có thể nói đây là một “tập đại thành” về văn hoá Việt của cụ Hữu Ngọc, người mà sự nghiệp cả đời là quảng bá văn hoá Việt Nam cho thế giới. Một mặt khác, bè bạn các nước lại cho cụ là người nối nhịp cầu cho các nền văn hoá thế giới. Nhờ những cuốn biên soạn công phu của cụ mà người đọc hiểu thêm các nền văn hoá Pháp, Nhật, Na Uy, Thuỵ Điển , Đan Mạch…Nhân dịp kỷ niệm sinh nhật thứ 92 và djp mừng năm mới, chúng ta chúc cụ gặp một “cơ duyên” mới trong năm 2011./.

 

1- 2011

 

Vân Long
Số lần đọc: 2550
Ngày đăng: 18.01.2011
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Trăn trở về danh cầm họ Nguyễn - Lâm Bích Thủy
Từ Chi - “một hiện tượng - một sự kiện dân tộc học” 1 - Đỗ Ngọc Thạch
Từ Chi - “một hiện tượng - một sự kiện dân tộc học” 2 - Đỗ Ngọc Thạch
Văn Cao, Mùa Xuân Cuối Cùng - Phạm Đình Trọng
Cao Xuân Huy, Mùa thu gẫy cánh - 1 - Thụy Khuê
Cao Xuân Huy, Mùa thu gẫy cánh - 2 - Thụy Khuê
Đoàn Chuẩn với giọt thu cuối cùng - Vân Long
Nhớ Anh Khương Minh Ngọc - Hào Vũ
Phạm Đình Chương, Một Nỗi Nhớ Khôn Nguôi - Phạm Văn Kỳ Thanh
Vũ Đình Liên - Ông Đồ Vẫn Ngồi Đấy - Đỗ Ngọc Thạch