Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.196
123.210.253
 
Cộng-đồng người Việt ở ngoài nước 30 năm sau
Nguyễn Vy Khanh

Nghiên cứu có đối tượng là Cộng đồng Người Việt ở ngoài nước (Vietnamese diaspora) qua các vận động chính trị trong 30 năm qua, từ 30-4-1975 đến năm 2005. Hiện có khoảng ba triệu người Việt sinh sống ở ngoài nước và đa số đã có những liên hệ xa gần với những biến cố chính trị ở Việt Nam hoặc chính trị là lý do hoặc nguyên nhân của sự có mặt của họ ở ngoài nước. Trong số những người đó, có người đã chủ động những biến cố đã xảy ra ở Việt-Nam, hoặc tham gia với tư cách nhân viên chính phủ, quân đội, có người là nạn nhân của thời cuộc, chiến tranh và tranh chấp chiến tranh lạnh, quốc-cộng.

 

Người Việt sống ở ngoài nước đã phản ứng thế nào đối với những vấn đề chính trị ở nơi quê hương mới của họ (đối với một số người vẫn là nơi vùng đất tạm-dung), sau những thất bại chính trị trên đất nước gốc của họ (thực dân mới cũ, những ý thức hệ, những lý thuyết chính trị hoặc chính sách, chế độ theo mô hình ngoại lai,...)? Nghiên cứu nhắm tìm hiểu một cách cụ thể các cộng đồng người Việt ở Bắc Mỹ châu, tức ở Hoa Kỳ và Canada (và khi có thể vẫn có một số nhận-định về người Việt ở khắp nơi). Mục đích chính là tìm hiểu vai trò của những vận động chính trị trong tiến trình hội nhập nơi quê hương mới. Khi tìm hiểu cộng đồng người Việt ở ngoài nước, người ta thường chỉ quan tâm đến những vấn đề xã hội, kinh tế, giáo dục,... hoặc những biến cố có tính thời sự, gây ấn tượng nhưng chỉ có giá trị ngắn hạn, như những biểu tình phản đối các nhà lãnh đạo, văn nghệ sĩ từ Việt Nam sang, vụ treo cờ và chân dung lãnh tụ trong nước, về nước giúp chuyên môn, v.v. Hoặc khi nói đến chính trị thì chỉ ngừng ở việc chống Cộng mà không đi sâu để hiểu thực chất  của những thái độ và hành vi chính trị. Nghiên cứu cố gắng tìm hiểu cộng đồng này về phương diện chính trị, tìm hiểu những lý do chính trị của sự hiện diện của người Việt ở ngoài nước: hậu quả của chiến tranh lạnh, ý thức hệ và tự do tôn giáo cùng nhân quyền. Trong viễn-tượng đúc-kết và rút kinh nghiệm cho tương-lai, chúng tôi đã thử tìm hiểu và đưa ra một số nguyên do cốt cắt-nghĩa những sự kiện, tình trạng cũng như chân dung của những con người và hành động chính trị. Sau đây là một số quan-sát và nhận xét của cá-nhân chúng tôi, một người nghiên-cứu không đảng-phái, và đây là bản tóm lược của một biên-khảo đang chờ thuận tiện xuất bản.

 

Phân-Tích các Vận-động Chính trị

 

Để có thể có được một chân dung chính trị của Cộng Đồng Người Việt Hải-Ngoại, để hiểu sự hình thành và biến thiên của ý thức chính trị người Việt hải ngoại qua các giai đoạn, phải phân tích các bước vận động này. Người Việt hải ngoại đã nghĩ  gì và đã làm gì? 

 

Nói chung, các vận động chính trị của người Việt 30 năm qua có mục đích vận động dư luận quốc tế và cộng đồng người Việt hải ngoại, đấu tranh cho nhân-quyền trong nước và đòi hỏi tự do cho người trong nước. Đấu tranh nhiều mặt : chính trị, quần chúng và võ lực. Tựu trung là vận-động chính trị của tập thể diaspora hải ngoại trong việc giải quyết chính trị ở trong nước, một chiến tranh bất phân lãnh thổ - ở Hoa-Kỳ, Canada, Úc, Pháp, Đức, Đông Âu, ... mà lo chuyện đất nước xa xôi : một chủ nghĩa ái quốc ngàn dặm - lần này khác với ngàn dặm  của phong trào Đông-du và phần nào du học Pháp hồi đầu thế-kỷ XX! Họ đã có vai trò gì và ảnh hưởng gì về chính trị ở Việt Nam?

 

30 năm lúc nào chính trị cũng quan trọng hàng đầu và bao trùm các sinh hoạt khác của cộng đồng như kinh tế, văn hóa mà ý thức chính trị cũng thể hiện qua các sinh hoạt trí thức, xã hội, thương mại, văn nghệ,... Có thể ghi nhận hai khía cạnh của các vận-động chính trị của người Việt ở hải ngoại: một là tranh đấu chống chính quyền và đảng Cộng sản ở trong nước về phương diện chính trị, hai là tranh-đấu cho các nạn nhân và đất nước là những "hậu quả" của những biến cố chính trị và lịch sử đã xảy ra ngay trước đó!

 

1.1     Tranh đấu cho các nạn nhân và đất nước, chống chính quyền trong nước :

 

Một cách cụ thể, người Việt hải ngoại tranh đấu cho thuyền nhân và tị nạn; tiếp theo là cho nhân công Việt Nam lao động ở Trung đông, Liên Xô, Đông Âu, Bắc Hàn, đảo Samoa,... Mục tiêu (tình cờ) thứ ba là tranh đấu cho các cựu đảng viên cộng-sản tị nạn, vượt thoát, dù cường độ và động lực khác nhau, nhưng đều trở nên thành viên của cộng đồng hải-ngoại về chính trị. Đối tượng tiếp theo có thể nói là liên tục từ 30 năm, đó là những tù "cải tạo" và tù lương tâm của miền Nam cũ cũng như hổ trợ những tiếng nói, lực lượng phản kháng đòi dân chủ, tự do trong nước; đồng thời theo dõi chính-tình trong nước để phản ứng, đối phó (cắt đất, nhượng biển, xuất cảng lao-động, phụ nữ, v.v.). Cuối cùng, xuất bản, công bố tại hải ngoại những phản tỉnh, phản kháng của những người cựu đảng viên hay liên hệ với Đảng và Nhà Nước Cộng-sản hoặc thơ văn phê-phán chế độ của một số nhà văn trong nước.

 

Diễn tiến 30 năm : Lúc đầu sau 30-4-1975, mất tổ-quốc, tranh-đấu chính trị chưa rõ nét, từ giữa 1976 mới tranh-đấu chính trị khi từ trong nước tin tức lọt ra ngoài về bắt bớ, "học tập", đổi tiền, tôn giáo bị đàn áp,... rồi đi đến đối đầu tranh-đấu với chính quyền trong nước. Những nhóm lúc đầu thân Cộng, sau cũng lột xác, gửi Tâm thư, chống đối, ủng hộ phản tỉnh trong nước, nhập chung dòng ý thức chính trị phản kháng hải-ngoại. Từ chống Cộng bộc phát tự nhiên lúc đầu 1975-76 đưa đến khuynh-hướng yểm trợ trong nước (1987-1991) và đến năm 2005 thì  hy vọng nay ở lớp lãnh đạo trẻ thuộc thế hệ di dân thứ hai thứ ba nhận ảnh hưởng giáo-dục, chính trị Âu Mỹ! Nhưng song hành với khuynh-hướng, diễn biến đó, có khuynh-hướng bảo thủ chống Cộng trước sau như một, 1975 hoặc 2005. Và lúc đầu, người Việt không hội-nhập nhưng đòi hỏi nhiều, rồi từ 1990 thì hội-nhập chính trị, xã-hội nhiều hơn! Lúc đầu từ ngoài, lần hồi với người trong nước, không cộng-sản (Nguyễn Đan Quế, Nguyễn Đình Huy, Phạm Thái, ...) hoặc cựu đảng viên nay ly-khai, phản tỉnh, phản kháng (Dương Thu Hương, Hoàng Minh Chính, Trần Độ, Hà Sĩ Phu, v.v.). Đường hướng vận động ở những năm gần đây là những kết-nối người trong và ngoài nước, mà gần nhất là thử nghiệm Hoàng Minh Chính-Nguyễn Xuân Ngãi (và những người khác) với cái gọi là Phong-trào Dân-chủ Việt Nam Thống-nhất. Các đảng như Việt Tân và một số tổ-chức chính-trị khác cũng cùng trong khuynh-hướng này!

 

Liên tục chống Cộng: Khuynh-hướng chống Cộng này như một tiếp nối cuộc chiến-tranh đã ngưng ở Việt Nam từ 30-4-1975, và phần nào cả cuộc chiến từ trước đó, từ 1945, 1954. Khuynh-hướng đã có một sự liên tục, sau thế hệ tị-nạn, di dân lúc đầu vừa hội-nhập, thì đến thế hệ thuyền nhân rồi H.O. tiếp sức, rồi thêm thế hệ người Việt ở Nga và Đông Âu duy trì sinh khí và vũ khí nhưng đồng thời cũng đa dạng hóa việc chống Cộng. Cũng từ các khối người Việt này, từ khi trong nước "đổi mới" mở cửa đối với "Việt kiều", bãi chiến chống Cộng thêm biến dạng về hình-thức và nhân sự.

 

Kháng-chiến võ trang : Trần Văn Bá, Mai Văn Hạnh, Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch, ... thuộc Mặt-Trận Thống-Nhất Các Lực Lượng Yêu Nước Giải-Phóng Việt Nam từ Pháp về trong nước tổ-chức nổi dậy trong năm 1984, với vũ khí, kế hoạch và hậu thuẫn trong nước cũng như ngoại quốc, nhưng bị ruồng bắt khoảng 11-9-1984. Trần Văn Bá và Lê Quốc Quân bị tử hình ngày 8-1-1985, Mai Văn Hạnh và Huỳnh Vĩnh Sanh quốc tịch Pháp án giảm thành chung thân và được phóng thích,...  Mặt-Trận Quốc-Gia Thống-Nhất Giải-Phóng Việt Nam trong năm 1987 tổ-chức võ trang, ở vùng biên giới, thủ lãnh Hoàng Cơ Minh bị tử thương, những thành viên khác ra toà và tổ-chức kháng chiến tan rã nhưng 14 năm sau, Mặt-Trận mới nhìn nhận cái chết của lãnh tụ họ. Chí Nguyện Đoàn Hải Ngoại Phục  Quốc của Võ Đại Tôn tổ-chức võ trang trong nước, không thành, lãnh tụ bị tù và được thả ngày 10-12-1992, v.v. Khuynh-hướng võ trang yếu dần từ đó!

 

Khuynh-hướng ghetto sống bên lề : Các địa phương, thành phố đông người Việt, nhu cầu sinh sống đưa đến sự có mặt của các ghetto Việt Nam. Người Việt sống bên lề xã-hội bản xứ hoặc chỉ liên hệ tối thiểu, một loại ghetto khép kín, thời người Việt đến định cư nhằm lúc các luật đa văn hóa cho phép, hội nhập không cần thiết, ngay cả chỉ nói tiếng Việt cũng sống thoải mái, bình thường, có đủ bác sĩ, luật sư, buôn bán, dịch vụ, ... bằng tiếng Việt, không cần nổ lực, cố gắng theo xã hội di trú. Vận động chính trị theo kiểu ghetto, nhập cảng từ trong nước : đài TV, radio, báo chợ, truyền đơn, thư rơi, ấn phẩm rơi, biểu tình, những vụ chống cấm vận, chống phái đoàn các thủ tướng và viên chức VC, ca sĩ trong nước ra ngoài trình diễn ở các rạp hay sòng bài, v.v.

 

Các cựu lãnh đạo Việt Nam Cộng Hoà đã làm gi?

 

Bốn trong số những vị đã xuất hiện và lên tiếng : cựu tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, cựu phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ,  cựu thủ tướng Nguyễn Khánh và cựu thủ tướng (14-27 tháng 4-1975) Nguyễn Bá Cẩn. Cựu tổng thống Dương Văn Minh ra ngoài nước trễ nhất (1988), lần duy nhất ông lên tiếng khi trả lời phỏng vấn của tạp chí Nhân Văn của sinh viên Paris (1). Cộng đồng hải ngoại theo dõi những hành tung và tiếp xúc của giới trí thức, chính trị gia, các cựu lãnh đạo và các nhân-vật cộng đồng (public figures), ...

 

Cao điểm của các vận động chính trị của người Việt hải ngoại là vào thời điểm 1990 cùng lúc với những biến cố chính trị Thiên An Môn và thay đổi chính quyền dân-chủ ở các nước Đông Âu và Liên Xô lúc bấy giờ làm thay đổi cục diện chính trị và cả quân sự, kinh tế, v.v. toàn cầu. Trước trào lưu dân-chủ hóa thế-giới, sau một thời gian chờ đợi một biến cố có thể xảy ra ở trong nước đã không diễn ra, trong vòng hơn một tháng kể từ đầu tháng 2-1990, cộng đồng người Việt bỗng dấy nổi lên khởi đầu là những tuyên ngôn, tuyên cáo rồi đến sự xuất hiện của các phong trào, Mặt-Trận, Liên-Minh, liên đảng, hội đồng, v.v. được thành lập nhanh chóng. Nhiều cá nhân và tổ chức có mặt ở nhiều phong trào vận động ở nhiều địa phương và quốc gia khác nhau. Các khuynh hướng chính trị cũng đa dạng, từ cực hữu, "quốc gia", thành phần thứ ba, trung lập, đến thân Cộng, và đệ Tứ quốc tế.

 

Tất cả đều là những lời kêu gọi dù tên là tuyên ngôn, chương trình, mục đích và tất cả khá tương cận nhau và một số tổ-chức trùng tên nhau. Các Kêu Gọi đầu tiên xuất phát từ Pháp là nơi người Việt có liên hệ nhiều với trong nước và đã có kinh nghiệm chính trị với các phe nhóm cộng-sản từ nhiều thập niên, cởi mở và mềm dẻo hơn người Việt ở Hoa-Kỳ nhất là ở vùng Nam Cali được xem là Thủ đô tị nạn, ở đó chống Cộng căng thẳng. Thành phần đa số là những vị từng lên tiếng hoặc tham gia các phong trào chính trị trước và sau đó, nhưng dịp này là lần đầu có sự xuất hiện công khai (trên Tuyên ngôn, Kêu Gọi) của những người thiên tả, thân Cộng đối lập với những người "quốc gia" chống Cộng, cũng như một số những nhân sĩ lớn tuổi hoặc từng liên hệ với những tranh chấp chính trị, đảng phái lâu dài trước đó, như chủ tịch Ủy Ban Kháng Chiến Nam Bộ Phạm Ngọc Thuần, bộ trưởng Hồ Tá Khanh, Trần Văn Đỗ, giáo-sư, khoa trưởng Vũ Quốc Thúc, Nguyễn Huy Bảo,... Những "lên tiếng" càng về sau đã nói đến một sự "đồng thuận" chính trị của người Việt hải ngoại đối với cộng-sản Việt Nam hoặc sát cánh cùng các tổ-chức khác trong cùng mục đích đó!

 

Tóm, những đòi hỏi thay đổi chính về chính trị, kinh-tế và nhân-quyền : bỏ Hiến Pháp hoặc bỏ điều 4, đòi bỏ độc tôn lãnh đạo của Đảng cộng-sản Việt Nam, đòi xây-dựng dân-chủ đa nguyên, thả tù nhân chính trị, tù lương tâm, đòi tự do tín ngưỡng, thành lập một cơ cấu chính quyền có tính đại diện, và đòi tổng tuyển cử tự do với sự quan sát của Liên-Hiệp Quốc, cuối cùng nhiều kêu gọi nhắm gửi các quốc gia khác. Nói chung, thời 1990, bắt đầu có những đòi hỏi nói trên mà không hẳn phải lật đổ chính quyền Việt Nam cộng-sản như trước đó với các tổ-chức kháng-chiến ! Tất cả như một đồng thuận hải-ngoại mới! Thật vậy, đây là dịp để người Việt đủ mọi thành phần và khuynh hướng chính trị đến gần nhau, đứng cạnh nhau vì mục đích chung, mở đường cho những khuynh hướng hòa hợp dân-tộc và đồng thuận chính trị. Hiện tượng lên tiếng (với tuyên ngôn, tâm thư) này đặc biệt gần như cùng lúc và được tung ra như để thông báo cho mọi người biết ai còn ưu tư chuyện chính trị chung, ai sẵn sàng, ai không và như thế nào.  Rồi các tổ-chức sắp đặt đường lối và tập hợp lại thành đảng phái hoặc liên-minh, mặt-trận mới. Một số cá nhân và tổ chức tiếp tục đi xa và có những hành động tích cực, có ý nghĩa cho việc chung. Một số tập hợp, liên-minh đã được từ đó thử nghiệm, một số đã đổ vỡ, ngưng hoạt động (Mặt-Trận Việt Nam Tự Do, Mặt-Trận Dân-Tộc Dân-Chủ Việt Nam, Tổng Liên-Hội Người Việt Tự-Do Hải-Ngoại, ...), một số khác được duy trì nhưng hình như chỉ có danh nhập hàng ngũ, trong khuôn khổ với thứ vị nào đó trong cộng đồng nhưng không có nội dung hoặc tính cách đại diện không được thật sự nhìn nhận.

 

Hiện tượng đầu năm 1990 đó đã một thời gây hy vọng đồng thuận mới nhưng cộng-đồng hải ngoại sẽ lại rơi vào tuyệt vọng khi thực tế cho thấy sự đoàn kết đã thêm một lần bất khả thi và có khi "đoàn kết" lại càng làm đổ vở và xa nhau hơn về lập trường, đường lối, cũng như phương cách tiếp cận và giải quyết vấn đề chung. Liên-minh, phong trào, mặt-trận khó vì đa dạng, mỗi tổ-chức đã khác nhau và rồi lúc đầu chưa thật sự mở rộng hợp tác! Và vì thế đã làm mất một cơ hội vận động chính trị tốt!

 

1.2     Thành lập các chính đảng, liên-minh, mặt-trận và phong trào:

 

Các đảng phái, liên-minh, mặt-trận được thành lập, lập xong rồi ráp lập lại, để tranh đấu chính trị. Nói chung tất cả đều có những điểm trùng hợp về mục tiêu, cương lĩnh đề cao tự do, dân-chủ, nhân-quyền. Tổ chức với những Ủy Ban, Trung ương, chi nhánh, địa phương, v.v. Mỗi lần có lãnh tụ hay đảng viên vượt thoát đến vùng đất tự do, lại dấy lên hy vọng, thành lập, tái tạo,... . Hình thức khác càng được xử dụng là tổ chức các cuộc hội thảo chính trị cũng như cứu giúp thuyền nhân, tị nạn ở các trại, thiên tai trong nước, v.v. Hình như ai cũng lập Đảng được nếu so với trước 1975 trong nước, và vì quá nhiều khiến hữu danh vô thực nhất là không thấy hoạt động hoặc hành động sống chết cho lý tưởng đã nêu!

 

Nếu các tổ chức chính trị không gây tin tưởng và thành công đoàn kết, thì các tổ chức cộng đồng thành công phần nào trong cùng mục đích nhưng rồi cuối cùng cũng không đi xa hơn, vì cùng lý do thiếu đoàn kết, não trạng chia rẽ, v.v. Thất bại của những tập hợp, liên kết như Cộng Đồng Người Việt Hải-Ngoại, Liên-Minh Người Việt Tự Do Hải Ngoại, Tổng Liên-Hội Người Việt Tự-Do Hải-Ngoại , v.v.. và có cơ cấu bị đào thải.

 

Các đảng phái cũ tiếp tục tranh đấu, hoạt động : Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Duy Dân,... Chia rẽ và hoài công đoàn-kết là những hiện tượng thường thấy. Sự kết hợp ở hải-ngoại trở nên khó khăn vì óc lãnh tụ hoạt động riêng rẽ, bí mật, rồi lâu ngày chính từ các đảng sinh ra nhiều chi đảng, nhiều lãnh tụ quá!

 

Vì nhu cầu và hoàn cảnh mới nơi hải ngoại, xuất hiện các đảng phái, tổ chức chính trị, các mặt trận, liên minh, mặt-trận mới với các chính đảng hoặc tổ chức khác mà có thể trong quá khứ từng chống đối nhau, cách ly nhau. Có tổ-chức cùng lúc có mặt ở cả 2, 3 mặt-trận, liên-minh khác nhau. Thứ nữa, các đảng phái cũng như mặt-trận, liên-minh, chỉ tồn tại nếu có hoạt động kháng chiến, nếu không sẽ chết dù danh xưng vẫn còn với thỉnh thoảng những Thông cáo, Tuyên ngôn. Các phong trào nối tiếp nhau ra đời cũng như các hội đoàn liên bang, liên quốc, kết hợp với các cộng đồng ở các vùng và quốc gia khác, giữa Âu Mỹ với Đông Âu và Liên Xô. Các diễn đàn chính trị, các hội nghị người Việt và hội đoàn đa quốc. Các hội cựu quân nhân, binh chủng, các trường võ bị, trừ bị, cựu tù chính trị được thành lập và/hoặc củng cố. Vài "chính phủ lưu vong" cốt vang danh hơn thực-hữu cũng đã được thành lập ở hải-ngoại.

 

1.3     Văn hóa và vận động chính trị qua các cơ quan truyền thông :

 

Báo chí rồi truyền thông người Việt hải-ngoại đã và sẽ đóng một vai trò quan trọng trong các cuộc vận-động chính trị; càng ngày càng phổ-thông nhờ các phương-tiện kỹ thuật viễn-thông và Internet.  Ngay sau 1975, những tờ báo đầu như Văn Nghệ Tiền Phong, Hồn Việt, Trắng Đen, ... đã chính trị, về sau lý thuyết nghị luận hơn với Quan Điểm, Việt Nam Hải-Ngoại, Thời Luận, Ngày Nay TX,...  Báo chí trong suốt 30 năm hải ngoại đã giữ một vai-trò rất quan trọng trong các vận động chính trị của người Việt. Xã hội tự do, dân-chủ cho nhà báo và giới truyền thông đủ thứ quyền, thành thử có người quên bổn phận và thiên chức nghề nghiệp khiến đánh mất niềm tin nơi quần chúng. Biết sức mạnh của thông tin, báo chí trong việc vận động chính trị, vận động quần chúng, một số báo của các tổ-chức chính trị, đoàn thể muốn đi xa hơn, muốn lãnh đạo dư luận, do đó từ từ nảy sinh những hiện tượng bất thường trong làng báo.

 

Một số nhà xuất-bản và báo chí phổ biến, in lại sách bị cấm trong nước hay tác giả bị cấm, có vấn đề, bị tù, hổ trợ những phong trào, khuynh hướng Đổi Mới văn hóa. Cuối cùng, lập những chiến dịch văn-hoá chính trị như "Chuyển lửa về quê hương" gửi tài liệu, sách báo chính trị  chống cộng-sản về trong nước, nhắm thúc đẩy đồng bào trong nước nổi dậy, khiến chính quyền Việt Nam tung lại những chiến dịch để vô hiệu hóa và để tránh những "diễn biến hoà-bình" người ngoài và trong nước có thể "cấu kết" để chống hoặc lật đổ chính quyền.

 

Nói chung về văn-hoá, những năm 1987-1990, khi trong nước dọ dẫm thay đổi thì bên ngoài có những tổ-chức và cá nhân có thể sợ thay đổi tức tiếp tục sống, bèn có những thái độ rất ghetto nghĩa là khó hiểu khi xảy ra trên đất tự do dân-chủ tức ở hải ngoại: chống văn hóa phẩm, chống phổ biến, ấn hành sách báo từ trong nước (ngay cả gần đây, 2005, ở Úc).

 

Vấn đề tự do ngôn luận, tư tưởng và báo chí ở trong cũng như ngoài nước ở đâu có độc tài ở đó có đe dọa, ở đó chưa hẳn là lý tưởng. Báo chí Việt Nam hải ngoại tự do quá đà khi không tôn trọng tự do người khác làm công việc truyền thông. Những vụ khủng bố tự do tư tưởng ngay tại hải ngoại: vụ "động đất văn nghệ" đánh dấu 35 năm sinh hoạt hội hoạ và viết văn của Võ Đình, ở Montréal (Canada) ngày 27-6-1992; nhà văn Thế Uyên, Nhật Tiến, Nguyễn Gia Kiểng đi trước nhiều người do đó đã bị báo chí hải ngoại chống đối, phản đối - nay  thì quan điểm của ba ông hết còn mới và ... nóng như thời 1989! Vụ cuốn băng video Paris By Night 40 cũng đáng ghi nhận vì lằn ranh Quốc-Cộng tự phân thân thêm những lằn ranh nhỏ hơn bên trong cùng lằn ranh lớn.

 

Ngoài ra cũng cần ghi nhận khuynh hướng nghiên-cứu và xét lại lịch sử, như là một phương tiện chống Cộng, làm chính trị, trong môi trường dân-chủ, tự do, khai phóng của xã hội mới, và nhờ tiếp xúc được thông tin và tài liệu giải mật. Nhiều tác giả nhìn lại chiến tranh Việt Nam, thực trạng cuộc chiến quốc gia-cộng-sản, vai trò người Mỹ, cũng như lịch-sử chính trị của Việt Nam Cộng Hoà và chế độ Cộng sản. Ở đây là nhìn lại cái cũ để hiểu hiện tại và định hình cho tương lai. Xét lại về Việt Nam, về kinh nghiệm chiến tranh và hoà-bình, về chủ nghĩa cộng-sản và một số biến cố, nhân-vật. Ngoài ra, có khuynh hướng xét lại chính mình, bản thân cũng như tập thể, nhất là vào cuối giai đoạn, từ những năm 2000, những xét lại sâu sắc hơn là những nhận tội chung chung ở giai đoạn đầu!

 

Tổng quan về các vận-động chính trị

 

2.1     Vài nhận xét về các vận-động chính trị :

 

Trước hết, vận động chính trị đã thay đổi theo thời gian : thời đầu 1975-1990 là thời chống Cộng tối đa không nhân nhượng. Ngay ý niệm "đa nguyên chính trị" thời 1990-91 lúc đầu cũng đã gặp khó khăn. Ngày 4-5-1991, Cộng đồng ngưới Việt vùng Montréal tổ chức một Hội Luận Dân-chủ Cho Việt Nam đã bị những nhóm cực hữu và cực đoan chống đối, dù đã rào đón trong chương trình và giấy mời rằng "dân-chủ đa nguyên chỉ sự khác biệt với dân-chủ tập trung mà Đảng và Nhà Nước cộng-sản Việt Nam tuyên bố đang áp dụng tại Việt Nam"!

 

Giai đoạn 1990 từ những biến động chính trị Đông Âu, tập thể người Việt vận động, lên tiếng đòi tự do, dân-chủ, lập nhóm, lập hội, mặt-trận, liên-minh, rồi hội luận, hội thảo, ra báo. Cũng là thời một số báo chí chủ trương đa nguyên và hòa hợp hòa giải, ra mắt. Người quốc gia cực hữu tiến ra đa nguyên, người thiên tả và cộng-sản cũng tiến đến điểm chung đa nguyên, hòa giải!

 

Từ triệt để đến ôn hòa là trường hợp của cựu-tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, ông Tôn Thất Thiện; cả Quốc Dân Đảng Hải-ngoại cũng ôn hòa hơn (2). Chính trị con người thay đổi theo thời thế và khung cảnh, từ cấm cửa tuyệt đối lúc đầu đưa đến những chương trình trợ giúp xã hội, v.v. Nhưng cũng có sự đứt đoạn, một số người hăng chống cộng cực đoan lúc đầu, lập nhóm, lập hội,  có mặt  ở mọi mặt-trận, liên-minh, sau trở cờ, buôn bán với Hà-Nội, khiến nhiều "chiến hữu" bị chưng hửng và cả "cháy" luôn về chính trị! Nói trở cờ, phản bội vì chính họ trước đó đã là những phần tử quá khích chuyên tố cáo chụp mũ người khác! Đứt đoạn, thay đổi cũng đến thôi, nhưng mọi thay đổi cũng phải qua "sàng lọc". Tuy vậy, các vụ chống đối, biểu tình nay vẫn còn tiếp diễn, nhất là ở Hoa-Kỳ !

 

Thật nhiều Đảng chính trị, mặt-trận, liên-minh, tổ chức cộng đồng và chính trị! Nhưng sau hơn 30 năm không hình thành được một tổ chức chính trị có thực lực với một cơ cấu khoa học, dân-chủ, đại diện được cộng đồng, tập thể. Các cá nhân, chính trị gia riêng rẻ thay vì tập trung đoàn kết để chống kẻ thù chung, thì quay lại chống đối nhau vì không hợp nhau, vì truyền thống chia rẽ, nghi ngờ hoặc vì muốn làm lãnh tụ! Có thể vì dị ứng thống nhất tổ-chức, thiếu cơ bản, cơ cấu kỹ luật chung, thiếu sự tin tưởng nhau, ... Có thể theo thời-sự nhưng không cập nhật về tổ-chức, phương thức sáng tạo, không hội-nhập phương pháp, chiến lược. Ai cũng khoe nắm "chính nghĩa", có chính danh, nhưng không đủ điều kiện để kết hợp (ý chí, đường lối cụ thể. Nhất là đa số theo thời gian càng mang nặng hội chứng "chờ đợi / wait and see". Rồi hay dùng hư làm thực, sống bằng huyền thoại (vụ giấu diếm cái chết Hoàng Cơ Minh), thêu dệt quá-khứ cách-mạng và sự nghiệp chính trị (Bùi Diễm, Phạm Văn Liễu, Đặng Văn Nhâm, nhiều cây viét trên Internet, báo chợ, cả báo Văn Nghệ Tiền Phong, v.v.). Tranh đấu, kiến nghị, kháng thư gửi LHQ và chính phủ các nước nhưng cũng có những vụ lẩn quẩn trong cộng đồng người Việt.

 

2.2          Các điểm đáng ghi nhận :

 

Thứ nhất, các tổ-chức cộng đồng và chính trị thường trùng hợp, giành giựt, dẫm chân vì tụ họp chừng ấy tổ chức, lập đi làm lại. Chừng ấy tổ chức, thì cũng chừng ấy nhân sự! Hội-Đồng Liên hiệp Quốc dân Việt Nam tập hợp 13 tổ chức và chính đảng nhưng hơn nửa trùng với các tổ chức liên-minh cùng thời như Hội-Đồng Việt Nam Tự Do (lúc đầu cũng 13), Mặt-Trận Dân-tộc Dân-chủ Việt Nam (2 đảng, 2 Liên-Minh, 2 tổ chức như Phục Hưng và Mặt-Trận như Mặt-Trận Việt Nam tự do), v.v.

 

Thứ hai, có khuynh-hướng đòi bao trùm, tổng hợp : như Phong trào tranh đấu giành tự do dân-chủ cho Việt Nam và Liên-Minh các phong trào tranh đấu giành tự do dân-chủ cho Việt Nam (1990) ra tuyên cáo 20-5-90 ở Canada.

 

Thứ ba, phá phách, chống đối nhau để giành ưu thế "nói chuyện" với kẻ thù: Bùi Tín khi mới đến Hoa-Kỳ lần đầu, Vũ Thư Hiên (và Trần Độ, Nguyễn Hộ, Hà Sĩ Phu trong nước) bị một số người Việt hải ngoại nghi ngờ.

Về ngôn ngữ chính trị xử dụng thường là dao to búa lớn: Việt Cộng không thể thoát "mẻ lưới dân-chủ", cộng-sản Việt Nam sẽ sụp đổ, phải sụp đổ, CSVN hội đủ điều kiện để sụp đổ, .. Một số tuyên bố, phỏng đoán khiến mất giá trị, tin tưởng : đầu năm 1991, Nguyễn Văn Canh từng tiên đoán cộng-sản Việt Nam sẽ sụp đổ cuối năm 1991 đầu 1992 (!).

 

Khẩu hiệu, chiêu bài, tuyên truyền phong phú quá khiến giả chân khó phân biệt đối với người dân thường. Lãnh tụ Hà-Nội nói dân-chủ và nhân-quyền, các tổ-chức và nhân-vật ở hải ngoại cũng nói dân-chủ và nhân-quyền, mỗi bên hiểu và biện minh cho định nghĩa của mình nhưng trong thực tế cả hai đều thường chà đạp những ý niệm đó! Các tổ-chức tranh-đấu cũng đề cao những khẩu hiệu đó nhưng lại chống phá nhau có khi lấy lý do không dân-chủ và tự do!

 

2.3     Vấn đề hội nhập chính trị ở quê hương mới, tham gia các đảng phái chính trị, những lobbying với chính quyền, quốc hội, v.v. Lúc đầu, trong tình cảnh sống còn và làm lại cuộc đời nơi phần đất mới, người Việt phần lớn hoặc lo học sinh ngữ hoặc kiếm việc làm, thành thử hội-nhập xã hội và nghề nghiệp trở nên mối ưu tư hàng đầu. Khi đã an-sinh phần nào và đời sống tụ tập ở một số thành phố đưa đến vấn đề hội-nhập văn hóa và sau cùng mới nghĩ đến hội-nhập chính trị. Từ đó bắt đầu có những nghị viên thành phố và dân-biểu người gốc Việt ở Bắc Mỹ, Úc và Âu châu. Hai thập niên đầu, hội-nhập chính trị không cân bằng, không tham gia trực tiếp mà lại đòi hỏi nhiều. Sau người Việt mới hiểu đời sống hội-nhập chính trị chỉ có mỗi con đường là tham gia, người vắng mặt bao giờ cũng bị thiệt thòi! Nói chung, trong phần lớn 30 năm qua, người Việt một phần chưa hội-nhập đủ, một phần chấp nhận thực tại, số-mệnh, do đó hay có tâm lý hay trông mong chờ đợi tập thể, ngay cả đối với quyền lợi của chính bản thân.

 

2.4      Một số nguyên do, cắt-nghĩa những sự kiện, tình trạng cũng như chân dung của những con người và hành động chính trị. Người Việt với tự hào là một dân-tộc văn hiến, sau những thất bại chính trị trên đất nước (thực dân mới cũ, những ý thức hệ, những lý thuyết chính trị hoặc chính sách, chế độ theo mô hình ngoại lai,...), nay nơi quê hương mới, họ phản ứng thế nào đối với những vấn đề chính trị trên miền đất mới này? Những nghiên cứu và phân tích đưa đến các nhận xét sau đây :

 

- Liên hệ đảng phái và quyền hành : Đảng Đại-Việt ở  miền Nam tỏ rõ là Đại Việt Quan Lại như giới chính trị tự nhận (Phan Huy Quát, Nguyễn Tôn Hoàn, Bùi Diễm, v.v.), cũng như VN Quốc Dân Đảng và một số chính đảng khác, phần lớn nhắm quyền lực, ghế bộ trưởng hơn là làm cách-mạng khó khăn. Ra hải ngoại dù ít có dịp can thiệp hơn, một số chính khách này vẫn chi phối hoặc can thiệp "chính trường", mặt-trận, liên-minh và dĩ nhiên đã khiến một số tổ-chức phải chịu thất bại.

 

- Liên hệ với lãnh tụ cũ: một nhóm thân cận cựu tổng thống đệ nhị Việt Nam cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu, tổ-chức cho ông thử ra mặt lần đầu khoảng tháng 1-1986 ở Houston TX, rồi vào thời 1990 đã lập Tổ Chức Yểm Trợ Dân-chủ Và Tái Thiết Việt Nam cho ông chính thức vận-động chính trị, tổ chức nay mới ra mắt nhưng cho biết từng hoạt động trước đó, từ 1983. Đến 30-4-1995, một lần nữa ông lại lên tiếng, đưa ra lập trường 5 điểm để giải quyết vấn-đề Việt Nam, nhưng lần này chỉ gửi văn thư, "do văn phòng cựu tổng thống VNCH gửi". Và ông Thiệu mất tại Boston ngày 29-9-2001, hơn 2 tháng sau ông Dương Văn Minh. Cùng liên hệ, Ủy Ban Luật gia Việt Nam tại Paris (nhóm Vũ Quốc Thúc) vận-động áp dụng trở lại Hiệp định Paris và ông Thiệu là lãnh đạo hợp pháp duy nhất! Cựu thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn ngày 20-7-2003 phát động chiến dịch của tổ-chức VNCH-Foundation tại Nam Cali vận động yêu cầu Liên Hiệp Quốc buộc Hà Nội thi hành Hiệp định Hòa bình Paris 1973. Rồi từ một Đại-hội Toàn quân thành lập Ủy Ban Đại-diện Việt Nam Cộng-Hòa.

 

- Liên hệ gia-đình, dòng dõi, giai cấp, quyền hành tưởng tượng và thực chất : những trường hợp Bùi Diễm, hay liên hệ bên phối ngẫu người Mỹ (Stephen Young), hay trường hợp Bùi Tín. Cao Trào Nhân bản của bác-sĩ Nguyễn Đan Quế có giây rễ với những Ủy Ban Yểm Trợ Cao Trào Nhân Bản, Ủy Ban Tranh Đấu Đòi Trả Tự Do cho Tù nhân Chính trị Tại Việt Nam và Bác-sĩ Nguyễn Đan Quế, ở Montréal, 1992) - nhóm thu hẹp! Trong chính trị, "con ông cháu cha" bất xứng, gian xảo thường là nối dài miếu đường, nghĩa trang!

 

- Liên hệ tình báo, thế lực ngầm, mạng nhện giả chân (nhóm Văn Nghệ Tiền Phong, nhóm Phụ Nữ Diễn Đàn thời Chữ Bá Anh, nhóm Vạn Thắng và Mặt-Trận Cách-Mạng Hưng Phục Việt (Lê Tư Vinh), nhóm Phật Giáo Thích Nhất Hạnh, Đỗ Mậu, Giao-Điểm, Chuyển Luân, v.v. khiến người dân thường bị rối mù không biết đâu là chân đâu là giả! Vấn đề tài chánh và kinh tài đảng phái chi phối các vận-động chính trị khiến đưa đến nhiều thành công quảng cáo nhưng thất bại: ai có tiền làm chủ, áp đảo tổ chức (Mặt-Trận Hoàng Cơ Minh, các Mặt-Trận, Liên-Minh của Nguyễn Văn Kim, v.v.). Từ sau nghị quyết 36 của đảng cầm quyền trong nước, lại thêm những hiện-tượng Nguyễn Cao Kỳ, Phạm Duy, Nhất Hạnh, v. v. và hiện-tượng sách vở người Việt hải-ngoại công khai xuất-bản trong nước (Yên Tử cư-sĩ, Mai Ninh, Lê Minh Hà, v.v.). Cuối cùng cũng nên ghi nhận mối liên-hệ giữa và với một số thế-lực như Hội Y-Sĩ Tự-Do, Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, ... : nhiều lãnh-tụ cộng đồng và chính-trị được các thế-lực này ủng-hộ, bao che, đứng sau, bảo trợ, giải thưởng và những "nhân-vật ra mặt" phục vụ cho các thế lực đó!

 

2.5     Vài nguyên do lịch sử của hành-động chính trị :

 

Người Việt hải-ngoại có sức mạnh, hiểu giá trị của sức mạnh, nhưng tiếc là suốt 30 năm và sau đó, chưa có thực lực, sức mạnh không đủ vì hình như còn thiếu tinh thần, chí hướng và mục-đích. Những loại tư tưởng như "lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo" tựu trung là một loại tâm lý chiến thắng ... tinh thần! Trong khi đó, chính quyền trong nước biết sự quan trọng và tiềm năng của người Việt hải ngoại, sau một thời gian kết án "Việt gian, ngụy" theo chân đế quốc và tư bản hay này nọ, vả lại họ biết thêm áp lực cộng-đồng trên dư luận thế-giới và chính quyền bản xứ có thể ảnh hưởng đến thương mại cũng như chính trị (âm mưu diễn biến hoà bình).

 

Nhiều người trong giới hoạt động chính trị sống theo tinh thần nhà Nho, kẽ sĩ, trọng sĩ (nhất sĩ nhì nông...). Có người theo tinh thần Nho thật, nhưng phần lớn lấy đó làm bình phong hoặc đi cưỡng bức tinh thần kẻ khác! Với nếp suy nghĩ á-đông tiêu cực, không (hoặc khó) chấp nhận dân-chủ theo nghĩa Tây-phương, mà theo "lẽ phải" tự định-nghĩa, tự cho sứ mạng trí thức và chính trị nào đó. Đưa đến tư cách đại diện tự phong và hiện tượng những hiệu triệu, thư gửi đồng bào trong nước cũng như cho đồng bào hải ngoại. Đây là một phần của vấn-đề nhân danh và "bị đại diện" bởi các tổ-chức, ủy ban, liên-minh, mặt-trận mà cộng-đồng người Việt hải ngoại hơn 30 năm qua cứ xảy ra, không lối thoát!

 

Đặc tính đầu dễ nhận ra là tính cực đoan : chống Cộng, nên hễ nghi ngờ chao đảo là chống, chụp mũ, cả không gửi tiền về giúp người thân, không giúp việc xã hội, từ thiện, tẩy chay không mua hàng nhập cảng từ Việt Nam (dù mua hàng đóng họp vô bao ở các nước có người Hoa), v.v. Tình cảm, nông nổi khiến hiệu quả hạn chế!

 

Sống trong tình trạng tâm lý thua thiệt, bám quá-khứ, nội tâm bất an thành dễ bất thường, sinh mặc cảm. Lúc đầu nối dài quyền lực nên những cựu bộ trưởng, tướng tá, nhân-viên ngoại giao đoàn, khoa trưởng và giáo-sư đại học, v.v. khi có dịp vẫn nhắc nhở những chức tước, hào quang cũ, nhưng rồi thế hệ trẻ lên thay thế ở các tổ-chức, cộng đồng, thành hụt hẫng trong não trạng văn-hoá sĩ khí, sĩ diện! Cố Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận từng có cái nhìn phê phán cộng đồng người Việt hải-ngoại khi đến San Diego CA ngày 10-10-1993, trong một thuyết giảng, ông đã đề cao người Việt "Thập Đại Thành-Công" về học vấn, gia đình, kinh tế, ... nhưng cũng đã có 10 căn bệnh trầm kha ông gọi là "Thập Đại Thất-Bại" như bệnh quá-khứ cực độ, bi quan tiêu cực, vô trách nhiệm, ỷ lại, cá nhân chủ nghĩa, khôn vặt, riêng bè phái chia rẽ là căn bệnh trầm kha nhất của người Việt hải-ngoại. Theo ông, đó là nguyên nhân của mọi nguyên nhân thất bại trong việc xây-dựng cộng đồng và xây-dựng niềm tin (3). Thất bại vì chỉ là chính trị thủ đoạn, mánh khoé, chính trị theo tà đạo!

 

Có một tâm lý không thật lòng tin tưởng nơi lớp trẻ, dùng phương pháp hay sở học mới để nhìn lịch-sử : thí dụ Nhị Lang tự tin ở dữ kiện thủ đắc nên đã phê phán Nguyễn Kỳ Phong tác-giả bộ Người Mỹ Và Chiến-Tranh Việt Nam (4): "sử gia hải-ngoại viết hay cóp sử của ngoại nhân"(5). Trước đó, Phạm Kim Vinh đã hoảng hốt khi có lớp trẻ tuổi hơn xử dụng phương pháp hoạt động của hội-nhập để vận-động chính trị, bèn chụp mũ họ là "người Mỹ gốc Việt" làm tay sai. Trong cuốn Chính Nghĩa Lưu Vong Còn Một Chút Này (6), ông phê phán nặng nề những người trẻ hơn dùng ngôn ngữ hay phương cách làm việc của hội-nhập Âu-Mỹ.

 

Họ hô hào dân chủ tự do nhưng hiếm khi chấp nhận hành cử dân chủ và quan điển tự do của người khác. Trong cùng tổ chức nếu bị thua bầu cử họ sẽ không chấp nhận "bản án" đầu phiếu, họ sẽ bỏ và phá tổ chức hoặc lập ra một tổ chức trùng tên, trùng tôn chỉ, để họ có thể làm chủ tịch và hội viên có hay không không quan trọng. Hoặc thư rơi, chụp mũ! Hoặc trở thành hội viên của tổ chức ở một địa phương khác!

 

Rồi nạn phân chia giai cấp, người đến trước đến sau, nhưng cũng vài năm hay thập niên sau, thứ tự "quí phái, sang giàu" đã đảo ngược - "lao động" không được tôn trọng trong nước, thì ở xứ người có giá, làm ra tiền (nail, thợ chuyên môn, v.v.)! Cũng vì não trạng phân hóa mà người sau phá người đi trước hay lập lại lỗi lầm người trước, như một số các H.O. Biết bao diễn văn đã được lập đi lập lại. Và cái "tệ" nhất là thói hay nhân danh, mà toàn nhân danh chuyện quá ... lớn như chính nghĩa và dân tộc - bài bản y như kẻ thù của họ! Những kẻ này, có khi cả gia đình, xưa chuyên chụp mũ và đe dọa người khác mà họ nghĩ lung lay lập trường, một ngày kia sẽ tự đội nón cối chạy theo đô la và xin thù-cũ làm bạn-mới ! Ở xã-hội có đầy đủ tự do dân-chủ lại đi cấm cản người khác đọc sách báo của trong nước in từ trong nước hoặc ở hải ngoại in lại như từng xảy ra ở hải-ngoại bằng chứng là Tuyên cáo Toronto 15-7-1990 đứng đầu với Văn Bút Việt Nam Hải ngoại thời Nguyễn Ngọc Ngạn.

 

Sống với biểu tượng (quốc kỳ, quốc ca), họ bám chặt lá cờ biểu tượng. Nhưng lá cờ cũng từng là cái cớ để chụp mũ nhau, để chia rẽ và chống đối. Một chiến-dịch Cờ Vàng được phát động từ tháng 3-2004 và lan mạnh nhất là ở Hoa-Kỳ. Đến nay, vấn đề lá cờ vẫn là trở ngại cho sự đến gần người tị-nạn từ miền Bắc và người hiện nay trong nước cũng như đối với quốc tế. Nói đến quốc-ca, quốc ky,ø là đụng chạm đến quá khứ và lịch sử !

 

2.6     Ý niệm "Chính nghĩa" (chính nghĩa quốc-gia) suốt hơn 30 năm hải-ngoại chứng tỏ có một vấn-đề lớn mà dùng lý luận, khoa học để phân tích không dễ, vì phần lớn những nhân-vật cộng đồng hay chính trị đều có một cái nhìn hạn hẹp, bảo thủ mà khi hỏi cho ra lẽ thì không có được bao nhiêu yếu tố thuyết phục được nhất là đối với giới trẻ. Phạm Kim Vinh là một trong số những người này như đã trình bày phần trước đây. "Chính nghĩa" được dùng, giành chính danh, vẫn được xử dụng cho các sinh hoạt và tổ chức (Chính phủ cách-mạng Việt Nam Tự Do 1995, Đại Hội Chính Nghĩa CA 1997!, Đại Hội Chính Nghĩa của Mặt-Trận HCM, v.v. Tờ Chính Nghĩa (Atlanta) của Kim Âu Hà Văn Sơn, một H.O. cựu tù cải tạo tự xưng "đi guốc trong bụng cộng-sản", ra tập Một Vấn đề Của Dã Tâm (7), biện hộ cho Bùi Đình Thi bị Nguyễn Đình Thắng chủ tịch Boat People SOS kiện INS để đuổi ra khỏi Hoa-Kỳ và nhân tiện nói nặng LM Nguyễn Hữu Lễ là nạn nhân và là nhân chứng về những hành động của ông Thi trong các trại "cải tạo". Họ lập những Ủy ban Bảo Vệ Chính Nghĩa Của Người Việt Quốc-gia để chống CD và ca sĩ từ trong nước, ca sĩ chao đảo, ... lột cái gọi là "mặt nạ" những kẻ được gọi là "công an, nằm vùng": vụ H.O. Võ Văn Sáu, Lưu Thừa Chí, v.v.  Nghi ngờ những phản tỉnh như đối với Bùi Tín vì ông này đòi bỏ cấm vận cũng như cách xưng hô tán tụng những lãnh tụ cộng-sản hàng ngũ ông  nói là từ bỏ. Cũng vì chính nghĩa (theo như họ nghĩ), họ không chấp nhận những phản tỉnh trong nước như đối với Dương Thu Hương, Trần Mạnh Hảo, ... Chống một chế độ gọi là toàn trị trong nước, có những tập đoàn và nhóm ở hải-ngoại hành cử cùng bài bản và phương pháp (vụ Nguyễn Hữu Luyện kiện một đại học Hoa-Kỳ chẳng hạn).

 

Họ tự nghĩ đại diện chính thức cho Việt Nam Cộng Hòa, cho miền Nam, và cho cộng đồng hải-ngoại! Đưa đến thái độ  độc quyền chính trị : xem những ai không chống Cộng là phản bội, xem những văn nghệ sĩ phi chính trị là bị cộng-sản mua chuộc, văn-hoá vận! Đưa đến ảo tưởng, cứ nghĩ có chính nghĩa (chính danh là việc của sử gia hoặc một tập thể), nhân đạo, đạo đức, ... là chìa khoá của thành công đại sự; đưa đến ảo tưởng cộng-sản sắp bị lật đổ, năm 1989 với bầu cử tự do ở Cam Bốt, năm 1990 cộng-sản Đông Âu bị phá đổ, hoặc mỗi lần trong nước có đại hội Đảng, cách chức, thay đổi bí thư, thủ tướng, v.v.

 

2.7     Sự hình thành, biến dạng và tan rã của các tổ chức chính trị, cộng đồng:

 

Các tổ-chức vận-động chính trị của người Việt hải-ngoại được hình thành, củng cố nếu đã có trước, nhưng đã thay đổi cơ cấu cũng như chiều hướng vận động theo diễn tiến lịch sử và diễn tiến của tình hình thế-giới, theo kiến thức, tin tức cập nhật về chuyện cũ, về tương lai. Lúc đầu 1975, trong cộng-đồng người Việt có những nhóm người đối nghịch nhau: nhóm tị nạn cộng-sản bỏ nước mà đi và nhóm thân cộng, thân chính quyền Hà-Nội. Nhưng nhóm người sau bị một số biến cố chính trị thế-giới cũng như trong nước làm biến dạng, thay đổi bản chất và vị trí chính trị !

 

Các vận-động chính trị của người Việt nhạy bén theo thời sự, biến chuyển thế giới mà lập đảng, liên-minh hoặc gây phong trào, nhưng cũng vì quá cập nhật ở mặt ngoài mà không có thực chất, nội dung, mà các tổ-chức được lập ra sớm nở tối tàn! Nếu viết lịch-sử về các vận-động của người Việt hải-ngoại là như làm danh sách liệt kê dài nhưng khi đi vào phân tích nội dung thì lúng túng tìm cho ra đặc điểm và thành quả! Chừng ấy tổ-chức và nhân sự và thay đổi danh xưng khiến người dân thường tưởng là sinh động, thiết yếu.

Cộng đồng người Việt có nhiều giai đoạn và được nối tiếp thêm nhân lực, thêm tinh thần chính trị mà cũng thêm những lôi kéo về một phía.  Khi tinh thần, sinh hoạt chính trị giảm bớt thì cộng đồng lại được tiếp sức chính trị thêm nhân lực mới, các cựu tù cải tạo H.O., nhiều tướng lãnh, đảng viên, tai mắt, thêm tiếng nói, thêm khuôn mặt. Nhưng người sau làm lại cái người trước đã làm, nói lại diễn văn người trước, lại chịu cùng thất bại hoặc kết quả hoặc các tổ chức hội đoàn vẫn thế, cộng đồng vẫn phân tán, chuyện dài vẫn chưa tới đoạn kết.

 

Hết các tổ chức thành lập Cộng đồng Người Việt Hải ngoại đến chuyện Văn Bút VN Hải ngoại là một bằng chứng hùng hồn cho cái não trạng phân ly, lãnh tụ đã phân tích ở trên. Cơ nguy nhiều hơn là cơ may cho tập thể ! Một khuynh hướng khác ngày càng phổ biến là những cuộc hội thảo chuyên ngành thường thì đa ngôn mà không chương trình cụ thể hành động, lập lại chừng ấy chủ đề, có khi chỉ để chứng tỏ hãy còn đây. Bên cạnh đó đã có những người trẻ âm thầm bắt tay làm những việc thấy đúng hoặc để đóng góp một cách phi chính trị! Tóm, ba thế hệ di dân, tị-nạn, ngày càng đa dạng, phức tạp; có người khi đã ổn định thì làm ngơ chuyện chung, và chỉ đến với các cơ cấu cộng đồng khi cần mà thôi, có người vẫn sống tâm trạng và ý chí như vừa ra khỏi nước tháng 4-1975, có người thì đã quên tất cả, có người không biết đến chiến tranh, không biết ngày 30-4-1975, có người thì chuẩn bị âm thầm cho tương lai!

 

2.8     Vấn đề đoàn-kết và não trạng chia rẽ cùng mâu thuẫn nội tại :

 

Lịch sử cho thấy Việt Nam vì hoàn cảnh địa lý và lịch sử, đã là nơi tiếp xúc và thử nghiệm của nhiều tôn giáo, ý thức hệ, những yếu tố này có ảnh hưởng gì đến não trạng chia rẽ và mâu thuẫn nội tại ngày càng lớn giữa người Việt với nhau?

 

Về vấn đề đoàn kết, cộng đồng người Việt ở hải ngoại vì bị phân hoá, do đó chưa thật sự thành công gây lửa đấu tranh ở trong nước. Dù sống thoải mái giữa bầu trời tự do dân chủ của thế giới không cộng sản, nhiều tổ chức của người Việt hải ngoại vẫn chưa chứng tỏ trưởng thành về chính trị, vẫn còn bị điều kiện hoá, vẫn bị cái não trạng phục tùng điều khiển, chi phối. Không ai chối cãi sự lớn mạnh của cộng đồng người việt hải ngoại, mạnh về số lượng cũng như nhân tài đa dạng về nhiều lãnh vực. Nhưng chúng ta có quá nhiều hội đoàn và tổ chức trùng dụng về mục đích, chương trình, do đó đã làm suy yếu lực lượng chung. Thay vì đồng thuận vì chính nghĩa chung, các tập thể này đã vẫn cứ đối chọi, xung khắc thường trực. Rồi nạn nhận vơ có khi bị hố. Nạn lạm phát về tổ chức và lãnh tụ khiến cộng đồng người Việt dậm chân một chỗ nếu so sánh với các cộng đồng người Lào, Cam-Bốt, v.v. Thiết nghĩ đây không phải là trăm hoa đua nở mà cũng chẳng phải là đa nguyên tích cực! Không thành công, tan rã, vì thiếu đoàn-kết, hoặc kiểu "đoàn-kết sau lưng tôi", vì đầu nậu chính trị, ra vẻ hợp tác, nhưng đã bao giàn, có mục-đích khác trước hoặc dùng tổ-chức bạn, những kẻ khác như phương tiện! Sự phân hoá này thực sự xuất hiện từ khi có người Pháp đến xâm chiếm VN từ cuối thế kỷ XIX.

 

Vì thế trước những đổi thay chính trị quá mau lẹ của bàn cờ thế giới, từ thế lưỡng cực (chiến tranh lạnh, tư bản, cộng sản) sang đa cực, não trạng phục tùng lệ thuộc ngoại nhân đã khiến nhiều đoàn thể nói trên hụt hẫng, giật mình; nhưng rồi ra vẫn tiếp tục con đường lỗi thời đã quen đi. Thay vì chung sức chống kẻ thù chung là Cộng Sản Hà-Nội thì họ lại hủy hoại, phá rối tổ chức cũng như cá nhân bạn và những người trước vẫn cùng chung "chiến tuyến" cũng như thiếu tế nhị, hiểu biết đối với những cựu đảng viên CSVN hoặc cựu thành viên Mặt trận Giải phóng miền Nam - lầm lẫn phương tiện, nhân sự với mục tiêu giải phóng dân tộc (thay vì chỉ nhắm nắm quyền hành và cho phe đảng). Hà nội đề cao tập quyền, người không cộng sản thường để quá cao cái "tôi", nhưng kết quả vẫn là một !

Tình trạng và nảo trạng phân hóa đưa đến một chân dung cộng đồng siêu thực, giả chân, trắng đen bất phân, và tình trạng chiến tranh tình báo, bí mật vẫn tiếp diễn. Tuyên ngôn, thông cáo có lúc tung ra như bươm bướm, có khi cùng một tổ-chức Tuyên ngôn ra chưa kịp khô mực, đã có Tuyên ngôn sau đính chính, thanh minh hay lật ngược. Đưa đến những tan rã, chia đôi như đối với các tổ-chức cộng-đồng ở Houston (8), ở Atlanta (1994), rồi các cộng-đồng ở Nam Cali và Bắc Cali, Montreal Canada,

 

Tôn giáo bị lợi dụng nhiều vào những hoạt động chính trị cũng như văn hóa chính trị : cả hai thập niên người ta đã lợi dụng những cơ quan thông tin, giáo dục của các tôn giáo để phỉ báng các tôn giáo khác, những nhân-vật liên hệ xa gần đến các tôn giáo hoặc cưỡng ép gán ghép một số nhân-vật với tôn giáo của những con người ấy cũng như tung tin khả nghi và mạ lỵ những lãnh tụ quốc gia đồng thời vinh danh, đề cao những nhân-vật chính trị mà hành tung và hoạt động đầy khả nghi hoặc đã bị công luận lên án, gây chia rẽ thêm sự đoàn kết mà cả sự sinh hoạt bình thường của cộng-đồng.

 

Nói đến đoàn kết thì không thể không nhắc đến khuynh hướng tự hủy là khuynh hướng đầy dẫy trong cộng-đồng hải ngoại, hoặc thuần chính trị, cộng-đồng, hoặc có tính chính trị qua chiêu bài tôn giáo: nhóm Giao-điểm tấn công đạo Công giáo và ngày càng công-khai bênh vực cộng-sản Hà-nội, hoặc tự kỷ ám thị, nhìn đâu cũng thấy kẻ thù, hoặc cắt nghĩa lịch sử theo thiên kiến (Nguyễn Mạnh Quang, Nguyên Vũ, ...). Khi có kẻ thù chung như thời Pháp và cộng-sản, con người trí thức, tai mắt tự chế, hoà nhi bất đồng trong tương kính, nhưng nay thời hải ngoại thì kẻ thù ở xa, không ra mặt, con người trở nên thù địch nhau, có khi xem nhau còn tệ hơn những kẻ gọi là thù chung (lãnh tụ Hà-Nội!), v.v.

 

Mỗi biến cố, mỗi nhân vật nổi là một cơ hội giành nhau nắm, tâng công. Những người tị nạn hoặc di dân đến sau, như một số H.O, tỏ ra bị tổn thương, không thích nhận định và phương thức hành động của những người đi trước, họ nghĩ người đi trước lên mặt dạy dỗ về chính trị về chống Cộng mà họ là nạn nhân biết và sống hơn người đi trước (9).

 

2.9     Lý tưởng và lý thuyết :

 

Phạm Kim Vinh, LM Kim Định, Hoàng Văn Chí, Nguyễn Ngọc Huy, Nguyễn Huy Hân, Lý Đại Nguyên, Nguyễn Gia Kiểng, Võ Văn Ái, Nguyễn Cao Hách, Trần Thanh Hiệp, Đoàn Viết Hoạt, Bùi Tín, Phạm Nam Sách, Nguyễn Văn Chức, Tôn Thất Thiện, v.v. Dĩ nhiên đa số là tiếng nói của lớp người trí thức hoặc chính-trị gia!

 

Hai điểm tóm : một, có hai khuynh hướng , hoặc lý thuyết gia (theorists) quá lý tưởng - đa số, hoặc  nặng hành động (activists) quá cực đoan, nông nổi! Những nhà trí thức, khoa bảng nếu không đề cao một chính thuyết như của Lý Đông A, Tôn Dật Tiên, v.v. thì đưa ra lý thuyết riêng để cứu dân cứu nước. Hai, từ chống Cộng lúc đầu, một phần cộng-đồng ở ngoài nước đã đi đến chỗ chống độc tài: Nguyễn Hữu Chung, Tôn Thất Thiện, Nguyễn Minh Cần, Bùi Tín, v.v.(10).

 

2.10     Lằn ranh Quốc-Cộng :

 

Vấn-đề lằn ranh Quốc-Cộng ngày càng được báo chí và một số nhân vật cộng đồng, chính trị đề cập đến, và ngày càng khẩn thiết, có khi bị hiểu là tuyệt vọng. Nói chung được hiểu là một vấn-đề quan trọng hàng đầu vì liên hệ đến căn bản, ý nghĩa sự lưu vong và hiện hữu của cộng đồng người Việt ở hải ngoại, một vấn-đề liên hệ đến lịch sử và quá khứ. Những biến cố chính trị thế giới từ những năm 1986-1991 biến thế giới cộng-sản co cụm lại ở bốn quốc-gia và lần hồi Trung quốc rồi Việt Nam cũng không hoặc tránh nói đến danh từ và chủ nghĩa cộng-sản nữa ngoại trừ khi họp các đại-hội đảng, cộng-sản trở nên một loại chiêu bài che thân, hù dọa!

Ở vào thời điểm 2005, dĩ nhiên chuyện hợp lưu và hoà giải đã hết còn là vấn-đề động não và bạo-động dù là trên báo chí! Nay ngoài vài tiếng kêu gọi lạc lõng, lỗi thời, còn mấy ai bàn hoặc chống đối những chủ trương này! Hiện nay, vấn-đề lằn ranh Quốc-Cộng vẫn còn gây nhức nhối nhưng đã đến lúc phải cập nhật định nghĩa Quốc-Cộng và minh định rõ đối tượng. Đồng thời phía quốc-gia cũng cần nghĩ đến lúc phải nâng cấp nội dung "chủ nghĩa quốc-gia" thành "chủ nghĩa dân-tộc" hoặc "chủ nghĩa ái-quốc" chẳng hạn, vì nếu quốc-gia là không-cộng-sản thì khi không còn cộng-sản, quốc-gia sẽ là gì? Và nếu quốc-gia là yêu nước với một đối tượng đất nước, lãnh thổ, thì cộng đồng người Việt ở hải ngoại đang bước sang thế hệ thứ hai, thứ ba, trong khi thế hệ thứ nhất đang về hưu hoặc ra đi, thì khi hết thế hệ thứ nhất thật sự đại diện cho phe quốc-gia (cứ cho là như vậy!), thì đám trẻ lớn lên hay sinh trưởng ở xứ người, chủ nghĩa quốc-gia (theo nghĩa không-cộng-sản) làm sao thích hợp cho chúng đây?

 

Như vậy, vấn-đề Quốc-Cộng ngày càng trở nên trầm trọng còn vì lý do thế-hệ! Do đó việc khẩn thiết trước mặt là cần phải có cái nhìn xa và can đảm cập nhật để chuẩn bị cho thế hệ tiếp nối và các thế hệ sau nữa! Người trẻ sinh tại hải ngoại hoặc sau 1975 ngày càng đông, "ý thức" chính trị của họ sẽ tạo thành từ kinh nghiệm sống nơi đất nước họ sống (nhưng là đất mới đối với thế hệ cha ông). Con người, nhất là người Việt Nam, tình yêu quê hương đã là một bản chất quen thuộc. Với người trẻ do đó không có vấn đề quê-hương mới cũ, chỉ còn là vấn đề tiếng gọi của cội nguồn hoặc tình yêu quê-hương nếu có mà thôi. Với họ, làm chính trị không nhất thiết phải là chống Cộng! Họ có chống chăng là chống mọi hình thức áp bức con người và phản tiến bộ (hình như ở hải ngoại cũng có!).

 

Trong thực tế, người trẻ Việt Nam lớn lên ở hai chiến tuyến Quốc-Cộng trong cũng như ngoài nước nói chung, ngày 30-4 và cộng-sản là những "ấn tượng" ngày càng mờ dần, phần lớn họ lo hiện tại và tương lai nhiều hơn. Riêng người trẻ ở Đông Âu có người còn nghĩ 30-4 là tốt vì đã thống nhất đất nước và nghĩ rằng vấn đề là phải nghĩ đến tương lai và các nạn nhân vẫn là đa số (11). Từ đó, nhìn lại quan điểm của thế hệ di tản thứ nhất của người Việt hải ngoại về gia tài văn hoá sẽ thấy là đa số hãy còn đứng ở cái nhìn tĩnh, đóng và quá chú tâm đến cái đặc thù riêng. Một cái nhìn thực tế và trung dung mang tính động, mở, đón, mang tính dịch lý và phù hợp với lý thuyết toàn-cầu hóa hiện nay, hội nhập cùng thế giới! Hơn nữa, nếu chúng ta tự xét, để cái tâm linh lấn một chút cái vật dục tranh chấp bạo động, chúng ta có thể thấy rằng cái lằn ranh Quốc-Cộng đó nếu cứ trường tốn sẽ trở nên một gia tài hoặc bó đuốc tẩm độc. Và nếu vết hằn, lằn ranh đó - dù là trong tâm thức, nếu bỏ được, sẽ là điều tốt cho tương lai và con người nói chung. Người ngoài nước khổ sở với lằn ranh thế nào thì người trong nước cũng ngày càng hết (hoặc bớt) tự hào là người cộng-sản; hóa ra cuối cùng rồi phải chăng mục-đích của mọi phe phía là xóa bỏ mọi lằn ranh vì thật sự giữa những người yêu chuộng và hành-xử tự do, dân chủ và hoà bình không thể có lằn ranh ngăn cách! Lịch-sử thì cần đến thời gian; 50, 70 năm khá dài cho một đời người, nhưng không là gì cả đối với lịch-sử (12)! Lằn ranh Quốc-Cộng thực ra chỉ là một ý-niệm, một danh-xưng và có thể là lý-tưởng chính-trị tốt đẹp nhưng nhân-sự Quốc cũng như Cộng đều có những người nguy hiểm cho dân-tộc, đáng loại trừ. Vì lằn-ranh nguy-hiểm đã xảy ra, là giữa những lực lượng toàn trị phi dân chủ, tự do và lực lượng yêu dân chủ, tự do, pháp trị. Vấn-đề không còn là bảo-vệ lằn-ranh bằng mọi giá, mà nên là phổ-dương tinh thần dân-tộc cùng nhân quyền, dân chủ và một Nhà Nước pháp trị. Dân tộc Việt-Nam đã có từ nhiều ngàn năm, Quốc-Cộng chỉ là chuyện ba phần tư của một thế kỷ!

 

2.11     Vấn đề  thế hệ và thế-hệ trẻ :

 

Dù cùng màu da tiếng nói hoặc sống trong cùng môi trường văn hóa địa lý và lịch sử, mỗi thế hệ có những đặc điểm riêng khiến việc đối thoại, giao tiếp, làm việc chung chẳng hạn nhiều khi có những vấn đề, đụng chạm. Khoảng cách thế hệ (generation gap) đã và sẽ là một trở ngại chính cho các vận-động chính trị!

 

Yếu tố thế hệ đóng vai trò thiết yếu trong việc biến hóa xã hội. Những lý-tưởng công bằng, dân chủ cũng như giá trị xã hội thay đổi theo con người và thời đại. Nên việc tìm hiểu sự khác biệt, sự độc đáo của mỗi thế hệ giúp hiểu tại sao có những vấn đề và có thể từ đó làm sao giải quyết những vấn nạn chung.

 

Nói chung thì sau 30 năm hải-ngoại đã cho thấy sự có mặt tham gia các vận-động chính trị xã-hội cộng đồng của nhiều thế hệ. Sự hình thành và trưởng thành, kinh nghiệm, ý thức, cái nhìn khác nhau, khiến vai-trò cũng khác nhau. Ba thế hệ nhập một là không nên, không tưởng và cũng bất khả thi. Dĩ nhiên có những điểm gặp gỡ, như nếu lên phương trình độ ngang và dọc cũng có những đoạn gặp gỡ, nghĩa là các thế hệ có những xung đột mà cũng có những hợp tác! Người trẻ từng và tiếp tục lập nhóm với lý thuyết và hành động, theo mô hình cha anh, hoặc mới hẳn. Những nhóm Nhân Bản của Tổng Hội Sinh viên Việt Nam tại Paris, Người trẻ dĩ nhiên tích cực gia nhập hoặc bị lôi kéo, là ngoại vi, thành phần của các tổ chức chính trị, dần dà nghiêng về văn hóa.

 

Nhìn chung, giới trẻ ở Đông Âu dấn thân chính trị mạnh, trong khi người trẻ ở Bắc Mỹ cởi mở và dân thân xã-hội và chuyên môn nhưng ít chính trị hơn. Ở Liên Xô và Đông Âu không có vấn-đề đụng chạm tranh chấp thế hệ như ở Bắc Mỹ vì hầu như họ không có thế hệ trên 60,70, cũng có nhưng những người này cư ngụ ở các nước như Pháp hoặc không liện hệ chặt chẽ với các phong trào trẻ. Người trẻ Đông Âu hăng say ra nhiều báo (Tia Sáng, Đi Tới, Cánh En, Đàn Chim Việt, ...), làm đài phát thanh (Moscou, Hoàng Dung) và lập đảng (Xã hội Dân-chủ,v.v.),

 

Theo Census Bureau năm 1990, một phần ba người Việt ở Hoa-Kỳ dưới 18 tuổi (13). Ở hải-ngoại nói chung, có khoảng 300,000 chuyên viên phần lớn trẻ ở lứa tuổi 30. Người trẻ, chuyên viên, "vẻ vang dân Việt" đang nắm các sinh hoạt văn hóa, xã hội, cả chính trị. Đây cũng là thế hệ @, a móc, cũng là a thương mãi / commercial a. Như vậy cứ theo thống kê thì diaspora Việt có ưu thế ở xã hội tự do, dân chủ, với thế đông đảo, trẻ có thể tìm lý tưởng, có thể mới và có thể định-nghĩa mới về lý tưởng,

 

Nhiều tổ-chức cộng-đồng và chính trị đã chú tâm đặc biệt đến giới trẻ. Tổ-chức Phục Hưng là tổ-chức chính trị có căn bản và đã có những đóng góp xây dựng cho giới trẻ ở hải ngoại. Ngoài các lớp tiếng Việt Văn Lang ở nhiều tiểu bang, các lớp sư phạm cho giáo chức ở hải ngoại, các Trại cho giới trẻ, tổ-chức xuất bản các tài liệu học tập và tạp chí như Ngày Về, Diễn Đàn Thanh Niên, v.v.

 

Thế hệ người Việt mới và những người đã trưởng thành về chính trị bất luận tuổi tác và giai tầng xã hội, nhất là giới sinh trưỡng trên đất nước ngoài quê-hương gốc, sẽ hiểu sức mạnh của ước muốn của thời đại thế giới đa cực chúng ta đang sống, sẽ có thái độ và hành động chính trị thực tế hơn và sẽ nhìn thấy ai hoặc lực lượng nào thật sự là kẻ thù chung của dân tộc!

 

 

Một số Kết-luận tạm

 

Nghiên cứu của chúng tôi định chân dung để có thể nhìn lại, tổng kết, rút kinh nghiệm, từ đó có thể có dự phóng cho tương lai. Đồng thời có thể nhận định, khai thác ra được những dấu mốc, những dữ kiện có thể từ đó tin tưởng cộng đồng người Việt ở ngoài nước so sánh với người Việt trong nước, có thể thoát được những bó buộc, kềm kẹp, trở ngại,... của quá khứ ?

 

Cộng-đồng người Việt ở hải ngoại rõ rệt nhất ở Hoa-Kỳ, Úc, Đức, ... lúc đầu bị dân bản xứ nghi ngờ, kỳ thị, nhưng vẫn may mắn hơn những di dân những thập niên trước đó, thời người Việt đến từ 1975 được lợi thế những chính sách đa văn hoá, nên được sinh sống tự do theo truyền thống, sống như những ghetto nhưng một loại ghetto thời mới, ghetto mở, nghĩa là người Việt cũng để lại dấu ấn của Việt Nam nước gốc, song song với đời sống hội-nhập. Các khu thương mại mọc lên ở những thành phố đông người Việt mà thức ăn của người Việt cũng được đề cao nhiều chất lượng dinh dưỡng và tốt cho sức khoẻ con người.

 

3.1     Căn-cước (identity), định-nghĩa người Việt Nam hải ngoại :

 

Căn cước cộng đồng Người Việt hải ngoại nếu thời 1975 lúc đầu nhiều đồng dạng thế nào thì càng ngày càng đa dạng về chính trị và xã hội, theo tình hình chính trị thế giới và trong nước cũng như theo đặc tính của các lớp tị nạn và di dân. Nói chung, cộng đồng người Việt ở ngoài nước ngày càng lớn mạnh về dân số, khả năng và tiềm năng. Có thể định nghĩa người Việt của diaspora có nhiều nguồn gốc, giá trị, quá-khứ, tư duy, ... khác nhau nhưng gần nhau ở những hy vọng, ước muốn. Người Việt của giai đoạn tị nạn, di dân sau 1975 khác hẳn con người Việt Nam đến định cư ở Pháp trước đó, từ thế chiến I, II và những biến cố của năm 1954. Căn cước đó qua hơn 30 năm đã biến dạng nhiều lần, đã thay màu, thay nồng độ, đã trãi qua nhiều thất bại cũng như thành công - về chính trị thì phần lớn là thành công tinh thần, vì thành công cụ thể và cuối cùng vẫn chưa đạt được, còn về giáo dục và nhân tài "vẻ vang dân Việt" thì sau hơn 30 năm vẫn là điểm son ở xứ người!

 

Một số vấn-đề có thể làm thành đặc tính nhưng nếu giải quyết được, có lẽ căn cước người Việt lý tưởng hơn chăng? Người trẻ thì thiếu hành trang văn hóa Việt Nam, thiếu lý luận chính trị dù cách tiếp cận vấn đề trẻ, mới, có thể thuyết phục. Tâm thức lưu vong, mất mát, bi quan, khép kín, nỗi buồn trở về, có thể ngăn cản hội-nhập. Cái ta Việt Nam phải nén xuống, cho sống còn và tiến bộ cùng thế giới có cơ tiến lên. Tị hiềm địa phương Nam-Bắc mạnh thêm với chính trị (14), rồøi liên hệ Bắc-Nam, liên hệ người Việt "cũ" so với người Việt "mới" ở Đông Âu, v.v. Những chia rẽ, cô lập đối với người Việt đến từ miền Bắc sau 1975. Vì ngăn cách nên có những đụng chạm, như bôi xấu Hồ Chí Minh, rồi vấn-đề lá cờ Vàng, rồi vấn nạn người trong và ở ngoài nước. Căn cước người Việt hôm nay đã phải cập-nhật và biến thái không còn trăm phần trăm cái căn cước của thời điểm 30-4-1975 hay thời "boat-people", và căn-cước đó có bị "nhuộm đỏ" (như một nhóm người đã nhân danh cả cộng đồng Quốc-gia kiện cáo) hay không, là do chính mỗi người Việt hải ngoại, do chính các tập-đoàn độc tài tư-tưởng từ cộng đồng đó. Những Đỗ Mậu, Nguyễn Cao Kỳ, Phạm Duy, các ca sĩ, các người làm ăn, v.v., những người tự vứt bỏ căn cước đó cũng là chính những người 30, 30 năm trước đã xin di-trú xứ người với tư-cách "tị nạn chính-trị", còn căn cước của cả diaspora, là việc của cả cộng đồng! Căn cước tương lai, nếu có thể nói được như vậy, sẽ nhẹ phần quá-khứ và lý-lịch. Tóm một chữ, căn cước người Việt diaspora đã và đang hình thành, căn cước đó đa dạng và liên tục biến dạng theo thời đại và con người!

 

3.2     Đoàn kết là khẩu hiệu đầu môi của tất cả mọi người, các nhân-vật cộng-đồng cũng như chính trị, nhưng sau 30 năm, trở thành một loại ước mộng khó thành (wishful thinking), một ảo mộng (utopic). Hậu quả của chiến tranh, kỳ thị do bị trị, nghi ngờ do mất tự tin và tin tưởng nơi tha nhân, chia rẽ do đó đã trở nên một trong ba kẻ thù chung có thể nhận diện sau 30 năm, 2 thù kia là sự mất niềm tin và bám chặt quá khứ ! Mất niềm tin do kinh nghiệm với một số tổ-chức, mặt-trận, chính phủ lưu vong, v.v.  do đó người dân thường trở nên nghi ngờ các tổ-chức chính trị đồng thời hoặc đến sau, cả các đảng phái đã có từ trước trong nước và đã có quá trình tranh-đấu chính trị. Ngay cả các tập hợp cử tri chính trị bản xứ. Mất lòng tin đưa đến sự xuất hiện những nhóm và tổ-chức nhỏ, ái hữu giữa những người cùng trường học, cùng binh chủng hoặc cùng ngành gốc! Đoàn kết với người cùng nhóm cũng trục trặc, như giới y sĩ hải ngoại cho người ngoài cảm tưởng đoàn kết ngày càng thu hẹp, vẫn nhắm mục-đích nào đó nhưng không liên hệ lắm với lý tưởng chung (15). Già phê trẻ bị khủng hoảng văn hóa, thiếu niềm tin, trống lý tưởng, có thể vì hiểu văn hóa không theo nghĩa "động". Mô hình truyền thống theo định-nghĩa tĩnh không thuyết phục được thế hệ trẻ! Quá khứ có thể huy hoàng, đáng trân trọng, nhưng dần dà có những lừa dối, lộng giả thành chân, quá khứ biến thành mối hiểm nguy, nọc độc cho hiện tại và tương lai. Quá khứ đó còn là nguồn của chia rẽ, bất đồng tư tưởng, v.v. Tựu trung ba kẻ thù đó nếu không chế ngự được chỉ vì đã trở thành những kẻ nội thù nơi người Việt! Đoàn-kết bất khả thi, nhưng xét cho cùng,  đoàn-kết có cần thiết không? Nếu cứ đặc thù, riêng rẽ mà làm tốt, vì mục-đích chung (tập thể diaspora, đất nước) thì thiển nghĩ kết quả vẫn hơn là cố gắng đoàn-kết để rồi vẫn đồng sàng dị mộng và không làm được gì, ngoài vài tấm hình hoặc video lưu niệm đang báo, bỏ vào hồi ký?

 

3.3     Ở đâu có đông người Việt, ở đó có một "xã hội" Việt Nam, đẹp có nhưng đáng chán ngán cũng có, và chiến tuyến, kẻ thù lúc nào cũng như có sẵn! Dù sao thì cộng đồng hải ngoại với thời gian đã phần nào cởi mở chính trị hơn, chấp nhận những cựu đảng viên, VC, thân cộng, ... và những vấn-đề hoà hợp hoà giải, giao lưu văn-hoá, ... hết còn là đề tài cấm kỵ! Đa số thầm lặng theo khuynh hướng chung, được phép và hợp pháp: lúc đầu chống Cộng, sau về trong nước được thì không chống Cộng hoặc phát biểu hay có ý tưởng chính trị nữa, v.v. Tinh thần đối thoại khá hiếm hoi, vì nếu có đối thoại thì vấn đề trao đổi đã dễ dàng, không có thắng thua. Giới bình thường lo làm ăn mà lại có tiền (nail, buôn bán) quay ra hưởng thụ, đại nhạc hội, casino, du lịch, bất cần chính trị đúng sai. Họ lánh xa những hội họp chính trị ngày càng ít người đến.

 

Mặt khác, tình trạng chính trị hóa quá độ, thường trực nên trở thành ám ảnh có khi đến bệnh hoạn (paranoiac), nhìn đâu cũng thấy công an nằm vùng, cộng-sản trá hình, nào là chiến dịch Hoa hồng đỏ, hoa hồng xám, v.v.  ít thành nhiều, thường võ đoán, tự xem người biết nhiều, có tư cách đại diện để bảo vệ chuyện chung : có người nhìn đâu cũng thấy bàn tay Do-thái, đổ trăm thứ tội lên đầu Do-thái kể cả việc mất miền Nam (16), người khác cực đoan nhìn đâu cũng thấy chao đảo, lung lay (17). Nhị Lang không tin thế hệ trẻ hơn có phán xét, kết luận riêng (18). Từ chống đối nhau vì chủ nghĩa, tư tưởng, đi đến chống đối nhau. Từ bình thường như nhau vào thời 1975 chẳng hạn, đi đến liên hệ bất bình thường (gửi tiền về Việt Nam giúp người nhà, nhưng chống, cả chống lén và du lịch công khai, v.v.). Vận-động chính trị xét cho cùng là bình thường hoá tình liên hệ con người, bắt tay giữa những người cùng nguồn gốc, tổ-quốc, cùng yêu dân-chủ, tự do!

 

Về thành quả chính trị của hơn 30 năm qua, tùy quan điểm mà kết luận khác nhau, có khi trái ngược nhau. Có tổ-chức như Phong trào Thống Nhất Dân-tộc và Xây Dựng Dân-chủ qua Nguyễn Đình Huy nhận xét rằng người quốc gia phải nhìn nhận đã thất bại, chính quyền Hà-Nội cũng chậm tiến, do đó cần thay đổi. Ngược lại, có người thì cho rằng 30 năm qua người Việt hải ngoại đã thành công quốc tế vận, đã "đánh cho cộng-sản Việt Nam thất điên bát đảo trên toàn thế-giới"(Nguyễn Hữu Nghĩa) (19) . Dân-chủ, tự do hay nhân-quyền dĩ nhiên phải đấu-tranh mới có và sau 30 năm, sau nhiều cố gắng, thử nghiệm, cộng-đồng người Việt hải ngoại vẫn chưa có được một hay những tổ chức chính trị thuần nhất, đoàn kết được nhiều người và có tính cách đại diện cho đa số, với cơ cấu mạnh và dân chủ; cũng như chưa có một Mặt-Trận thống nhất về tư tưởng và phương cách đấu tranh giữa các tổ-chức. Nặng về con số (tổ-chức, liên-minh, mặt-trận) hơn là đồng thuận, đồng tâm, quyết chí vì chính nghĩa, hợp đó tan đó. Xa địa bàn đất nước, nay tứ phương địa lý, kỹ luật lỏng lẻo (ngay cả với những chính đảng đã có từ trước trong nước), nhiều thành kiến, chia rẽ, nghi kỵ, thiếu thành công ngoạn mục.

 

Chính trị trở nên nghiệp dư hơn là lý tưởng sống chết, hơn là sự nghiệp lớn và chức chưởng đi cùng. Các tổ-chức, lực lượng lại hay mất thì giờ tranh luận Quốc-Cộng, thù-bạn, phản kháng thật giả, v.v. Cộng-đồng Việt Nam lại không có lãnh tụ như Sihanook đối với dân tị nạn Cam-Bốt. Nói chung quá nhiều lãnh tụ mà không có hoặc rất ít dân, đảng viên, thành viên. Nhiều tổ chức giống nhau (Mạng lưới Nhân quyền, chống cấm vận, vận động dân chủ...)  đều với chừng ấy nhân-vật ; giống cho nên trở thành trừu tượng, cho có, không thực tế.

Tóm, cái thiếu là tranh-đấu chung, đồng thuận trong tinh thần dân-chủ và tự do, với những phương thức hợp thời đại hơn và với những cơ cấu tân tiến, cập nhật. Tựu trung, vận-động chính trị ở hải ngoại là làm và hướng dẫn chính trị và dư luận, càng chính trị thì giải pháp tưởng dễ nhưng chưa có đồng thuận lâu bền! Còn quân sự thì có thử đôi lần ở những vùng biên giới nhưng không thành công. Văn hóa, kinh-tế thì trồi sụt theo nhân tâm và thời thế.

 

Như vậy, có hai khuynh hướng và đường lối chính trị khác nhau : một triệt để lật đổ, giải thể chế độ hiện nay ở trong nước rồi canh tân kỹ thuật và đầu tư kinh doanh; khuynh hướng  kia  thì đầu tư và giúp trong nước về xã hội, kỹ thuật để mở mang dân trí và cải thiện đời sống rồi người dân trong nước tự họ canh tân, dân chủ về chính trị! Dù sao lúc nào cũng có hai thành-phần người Việt ở hải-ngoại: Việt-kiều là người của Hà-nội hoặc có quan hệ chặt chẽ và người Việt hải-ngoại phần lớn gốc tị nạn cộng-sản - lúc đầu bị Bắc-bộ phủ phán trách là điếm đàng phản quốc, chạy theo đế-quốc, nhưng sau lại chính-thức nịnh hót với đủ chính sách và nghị quyết (114 năm  2001 hoặc 36 mới đây và Quỹ yểm trợ cộng đồng hải-ngoại 2003, v.v.) vì những người Việt này đầy chất xám và tiền đô hàng tỉ đổ về trong nước và đã là cái phao cứu ngân sách Nhà Nước cộng-sản từ hơn hai thập niên qua.

 

Dù gì thì cộng-đồng người Việt ở hải ngoại đã và tiếp tục vận-động chính trị đấu tranh cho đất nước và đồng bào trong nước. Cộng-đồng sẽ trẻ trung hoá với các thế hệ nối tiếp, sẽ cập nhật hội-nhập theo trào lưu sống chung, toàn cầu hoá của nhân loại. Chính trị từ đó sẽ biến thái cường độ và hình thức, nhưng thiển nghĩ vẫn cùng mục đích. Từ huynh đệ chiến-tranh thù nghịch trở nên huynh đệ hoà-bình, từ chỗ tránh, chống nhau vì khác nhau, đi đến chỗ đến gần nhau vì những điểm đồng (hoà-bình, đời sống hài hoà với thiên nhiên, với chính mình, v.v.).

 

Và sau 30 năm, sau nhiều vận động và tổ chức, người Việt hải ngoại đã trở về tình trạng ổn dù không định. Sau những Mặt trận, Võ Đại Tôn, Lý Tống, ..., các hoạt động nổi về chính trị hình như đã biến thành triết lý sống, thường trực nhưng chỉ dùng đến khi cần, khi có biến cố. Cá nhân mỗi người hình như tự tìm cho mình những lối thoát có tính văn hóa và tâm linh.

 

3.4     Chính trị cho con người  với những đòi hỏi căn bản, tự nhiên của con người, đi xa hơn chính trị cho một miền Nam, cho riêng người quốc gia. Giá trị nhân bản của những vận động chính trị, xã hội, cộng đồng được đặt trên nền tảng sự thật và liên đới! Nếu chế độ và cơ chế không đánh đổ, lật đổ được thì con người có thể chuyển đổi, có thể từ đó thay đổi xã hội, cơ chế! Gương Đức hồng y Nguyễn Văn Thuận, 13 năm tù và quản thúc, bị bao vây bủa, thù nghịch, nhưng khi ra hải-ngoại đã không hận thù, chỉ nhắm "chính trị con người" một cách dấn thân và nhập cuộc; quá-khứ với ông là sự sống và thử thách.

Hải ngoại và trong nước nếu đến gần nhau vì cùng tranh đấu cho con người, ở hai trình độ hoặc thiểu số trí thức elite, hoặc chung chung. Lý tưởng, vì cũng có thể trở nên ngôn ngữ tuyên truyền rỗng nội dung, như Nghị quyết Đại hội Đảng cộng-sản Việt Nam lần VI cũng đã "khẳng định" rằng "phục vụ con người là mục đích tối cao" của mọi tổ chức và cơ chế xã hội! Tranh-đấu cho nhân-quyền trong mục đích chung là một Việt Nam tự do dân-chủ, là chống cộng-sản vì con người, vì phản tiến bộ! Và đạo-đức chính-trị phải là căn bản của mọi diễn văn, chính sách hay chiến-dịch. Do đó chính quyền Hà-Nội có vẻ nao núng, phản ứng trước những vận-động của cộng-đồng hải ngoại với quốc hội Hoa-Kỳ qua các dự án lập pháp như đạo luật nhân-quyền Việt Nam. Chính trị thế giới hiện nay (2003) đang đi đến một định nghĩa mới về nhân quyền khi cho các nước lớn (hoặc nhân danh LHQ) quyền can thiệp nhân đạo, tức xem nhẹ chủ quyền quốc-gia. Do đó nếu khôn ngoan, các quốc-gia có vấn-dề nhân quyền phải tự thay đổi trước khi bị can thiệp!

 

3.5     Văn hóa dân-tộc luôn được dùng như lý tưởng, mục đích, trong nhiều tuyên ngôn, cương lĩnh chính trị. Đại diện cho khuynh hướng truyền thống, giáo-sư Vũ Ký chẳng hạn đặt nặng vấn đề liêm chính, sĩ-khí và đoàn kết trong cuộc đấu tranh hiện tại của người Việt hải ngoại, xét theo quan điểm văn hóa. Theo ông đấu tranh chính trị trước hết phải phục hồi một số giá trị tinh thần (20). Khiếu Đức Long trong tập Luận về Nền Văn hóa Tổng hợp của Dân tộâc Việt Nam thì đề nghị rằng « bài học của quá-khứ là tuyệt đối tránh vọng ngoại mù quáng » và « cởi mở để tiếp thu, nhưng phải chọn lọc, tránh a dua xu thời » (21). Lịch sử cho thấy người Việt luôn vươn lên sống cho ra con người, luôn cập nhật đồng thời giữ gìn văn hóa, chí khí và bản sắc dân-tộc! Do đó, cần phân biệt phát huy bản sắc (văn-hoá + hội-nhập) với bảo tồn thủ cựu (chỉ có quá-khứ)! Hội-nhập hai văn-hoá chỉ làm tăng nhân cách và tăng trưởng truyền thống đẹp!

 

Một số tiếng nói bảo thủ quá khích lo sợ những người Việt hội-nhập hải-ngoại mà họ  gọi là « tay sai Mỹ gốc Việt » ra tay hành thế. Lo sợ không căn gốc đảm bảo, cứ nhân danh dân-tộc thì ai nói sao cũng được! Đặc tính chung của sinh hoạt cộng-đồng chính là trạng thái văn hóa của cộng-đồng đó trong một giai-đoạn lịch sử. Hiện cộng-đồng người Việt hải ngoại về chính trị đang biến thái từ đối đầu sang cạnh tranh về phẩm, về cái đặc thù mà cả tập thể sau hơn một phần tư thế kỷ đã đạt được. Văn-hoá quan trọng và thiết yếu đối với người Việt, do đó các tổ-chức và đảng phái chính trị đều đề cao vai trò của văn-hoá cả trong việc vận-động chính trị cho một Việt Nam tương lai. Tổ-chức Phục Hưng trong tài liệu Cẩm Nang Thành Viên (22) đã khẳng định « văn-hoá là con đường cứu nước và dựng nước ». Quan hệ chính trị và văn hóa mật thiết, đối với Việt Nam còn hơn nữa! Chuyện cấp thiết là phải thống nhất tình tự dân-tộc! Tinh thần Việt Nam vốn là nhân bản, sự sống còn mạnh mẽ, là những điều khiến dân-tộc Việt Nam thoát được những trói buộc của đô hộ và ngoại bang ! Như đã xét qua ở trên, cơ may đã và đang đến với dân-tộc Việt Nam : các thành phần từng chống đối nhau (cộng-sản, thân cộng, quốc gia, v.v.) đã đến gần và ngồi lại với nhau, chỉ còn chút nữa, đó là bỏ chia rẻ và phát triển tình tự dân-tộc là đồng thuận lớn!

 

Văn hóa tuổi trẻ thủ đắc ở đời sống hội-nhập và văn hóa đa diện cần được đề cao và ảnh hưởng những cái gọi là căn bản truyền thống. Giới trẻ như đã trình bày, cũng chú tâm đến văn hóa. Các hội đoàn trẻ, các trại hè, các lớp tiếng Việt và các báo chí được xuất bản mục đích nhắm giới trẻ; làm một gạch nối thế hệ trung-trẻ hoặc hoàn toàn trẻ, thay vì lúc đầu cộng-đồng có khuynh hướng truyền thừa già-trẻ - mà thường theo quan niệm và phương cách người lớn.

 

Tương lai sẽ là vấn đề sống chung - nếu không là giải pháp chính trị thì sẽ vẫn đến tự nhiên vì người Việt nhất là giới trẻ hội-nhập có tiềm năng kinh-tế, trí thức và tối tân hoá, từ đó họ có thể giúp phát triển cộng-đồng hải ngoại và Việt Nam trong nước, đi vào toàn cầu hoá. Vấn-đề giao lưu văn-hoá tích cực, tự nhiên, thẳng thắn trong và ngoài nước, vẫn là một vấn-dề chỉ có thể giải quyết với thời gian. Ngoài có chống, có tiếp, trong nước khuyến khích đầu tư, hồi hương, nhưng chưa có chính sách hợp lý về văn-hoá, xã hội ! Đối với một số thì kinh tế thị trường là một phương tiện tốt vì sẽ dần thay đổi bản chất của chế độ trong nước, xã hội sẽ càng phân hoá và dân sẽ bớt sợ quyền uy của đảng. Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ kinh tế trí thức, người Việt ở hải ngoại nằm trong đó nhưng liệu tâm lý, não trạng (mentality) đã sẵn sàng chưa? Vấn-đề văn hoá vận quan trọng khi giao lưu văn hoá đã trở nên không thể tránh, nhưng phải có phẩm chất  văn hóa, nâng cao phẩm giá con người!

*

Tóm lại, tập-thể người Việt hải ngoại muốn thoát được những bế tắc nhân tâm và chính trị hiện nay, người Việt phải thay đổi tư duy và dứt khoát, phải có tổ-chức, có văn hóa nhìn xa và có lòng tin! Văn-hoá ngoài phần đã thủ đắc, còn là động cơ cho phát triển khả năng và cập nhật thời đại! Trong nước chính quyền vẫn vậy, vẫn độc đoán, chuyên chính về chính trị dù có thay đổi kinh-tế, xã hội phần nào theo đường lối của Trung quốc; ở hải-ngoại thì  cộng đồng người Việt khách quan mà nói, sức mạnh có phần yếu đi, tinh thần chống Cộng loảng dần đi. Muốn thành công vận-động chính trị, hội-nhập chưa đủ, còn cần có tổ-chức  và có sức mạnh thật sự.

 

Quá khứ là việc của lịch sử, tương lai phải là của dân tộc! Người Việt hải ngoại đã quá mất nhiều thì giờ đi tìm giải pháp vì việc chính trước mắt là xây dựng một cộng đồng hải ngoại có thực lực, sống động, đặc thù hoặc Việt rồi sau mới tính chuyện xây đắp cho đất nước gốc thật sự tự do dân chủ và giàu mạnh! Nếu không sẽ mất cả đôi bên, trong và ngoài nước!

 

Chú-thích :

1.Thủ tướng 2 ngày Vũ Văn Mẫu không lên tiếng nhưng để lại tập ký Sáu Tháng Pháp Nạn 1963 (1984).

2. Cương Lĩnh Chính trị Giải phóng Dân-tộc Xây dựng Tổ-quốc, 1990 (VN Quốc Dân Đảng Hải-ngoại. Cục Tuyên huấn TU, Orlando FL, 28 tr.). Trang VI, 4.

3. Theo Nhuệ Hồng. "Cộng đồng hải-ngoại tự-phán: thập đại thất bại". Thế Kỷ 21, 116, 12-1998, tr. 33-34.

4. Nguyễn Kỳ Phong. Người Mỹ Và Chiến-Tranh Việt Nam: liên hệ quân sự chính trị 1945-1975. Tập 1 (Centrevill, VA : Vietnam Bibliography, 2001. 339 tr.).

5."Trở lại vụ án 47 năm trước: Ai giết tướng Trình Minh Thế?". Văn Nghệ Tiền Phong, 636, 16-7-2002, tr. 24+.

6. Phạm Kim Vinh, Chính Nghĩa Lưu Vong Còn Một Chút Này. CA : Tủ sách PKV, 1991. Tr. 140-166.

7. Một Vấn đề Của Dã Tâm  (Atlanta GA. 84 tr.), ký BN 587.

8."Có nên xóa bài cả hai phe ở Houston để làm lại từ đầu?". Ngày Nay TX, 473, 15-1-02.

9. X. Nguyễn Vạn Hùng, Việt Nam Qua Lăng Kính 24 Nhân Vật Thời Đại. Culver CA : Thời Luận, 1996). Tr. 161.

10. Thí dụ: Nguyễn Văn Quảng và Nguyễn Đình Thường, "Chống Cộng hay chống độc tài".  Thăng Long Boston 170, 21-7-1998; X. Nguyễn Hữu Chung. "Hãy ngưng chống Cộng". Thế Kỷ 21, 18, 10-1990, tr. 13; Ngày Nay, 501-502, 15-4 & 1-5-2003.

11. Ngày Nay, 478, 15-4-2002.

12. Sau nghị-quyết 36 và loạt bài của báo Ngày Nay, 184 cựu sĩ quan và nhân-vật hoạt động chính trị, cộng đồng đã ra Tâm Thư đề nghị một "Lập trường chung của người Việt Quốc gia hải ngoại", minh định lại lằn ranh của thời chiến tranh lạnh và Quốc-Cộng, như trước nay! X. Quốc Gia Montréal, 90, 8-2003, tr. 27-31, và một số báo khác. Một cuộc hội-thảo về lằn ranh Quốc-Cộng và Bản Lập-trường chung này cũng đã được tổ chức ngày 11-1-2004 tại Quận Cam Hoa-Kỳ.

13. Theo Lê Ngoan của Northern Illinois University, X. Ngày Nay 320, 15-5-1995, tr. B1.

14. Nguyễn Mạnh Cần nêu vấn đề trong Ngày Nay, 484, 15-7-02, tr. A4.

15. Tập san Y Sĩ Montréal, 123, 4-1994.

16. Bùi Như Hùng. Đại  Cáo Trạng : Tập Đoàn Do Thái Bức Tử Việt Nam Cộng-Hòa. Montréal : Prestige Edition, 2000, 128 tr., tái bản 2001, 160 tr.

17. Những bài báo và thông cáo, tuyên ngôn ủng hộ vụ ông NHL kiện WJC thuộc University of Massachussetts chứng tỏ những người này tự nhân danh một tập thể trong thực tế phức tạp đa dạng hơn họ tưởng, tự cho quyền phê phán người khác, tự cho có chính nghĩa, hiểu biết, v.v. !

18. X. chú thích 4 và 5.

19. Nguyễn Hữu Nghĩa. "Sau 25 năm đấu tranh, nhìn lại thế hệ 75 và vấn đề liên kết quốc gia". Làng Văn, 201, 5-2000, tr. 4. Xin lưu ý chữ dùng "liên kết" thay vì "đoàn kết"!

20. Vạn Thắng, 9, 1993. X. cùng tác-giả Luận Cương về Văn hóa Việt Nam (Bruxelles, Belgium : Trung tâm văn hóa xã hôi Viêt Nam tại Bruxelles, 1995).

21. Khiếu Đức Long. Luận về Nền Văn Hóa Tổng Hợp Của Dân Tộc Việt Nam (Montreal : Nhật Hương, 2000). Tập 2, tr. 558.

22. Cẩm Nang Thành Viên (Pasadena CA : Cục Huấn Luyện, 2003). Tr. 30.

 

Nguyễn Vy Khanh
Số lần đọc: 2748
Ngày đăng: 30.04.2011
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Nhà văn trong quan niệm của lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam 1954-1975 - Trần Hoài Anh
Brueghel - Hamvas Béla
Hồn phố qua những con đường trong nhạc Trịnh Công Sơn - Trần Hoài Anh
Văn Học Miền Nam Tự-Do 1954-1975 - Nguyễn Vy Khanh
Tại Sao Ta Ít Nhớ Thơ-Nhạc Thời Mới Khởi Phát Chiến Tranh - Trần Văn Nam
Lịch Sử Hiện Đại Hoá Thơ Việt Trong Mắt Một Nhà Thơ - Hoàng Hưng
Niềm Lạc Quan Vẫn Có Giữa Thời Chiến Qua Thơ Của Khuất Đẩu - Trần Văn Nam
Sóng Lành Mùa Phật Đản - Trần Kiêm Ðoàn
Tranh biện về triết Học Trung Quốc. phần 3, hết. - Đặng Phùng Quân
Tranh biện về triết Học Trung Quốc. phần 2 - Đặng Phùng Quân
Cùng một tác giả
Thơ Du Tử Lê (tiểu luận)
Thơ Hôm Nay (phê bình)
Lục Bát Huy Tưởng (nghệ thuật)