Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
975
123.201.096
 
Thực Lực Về Cuộc Ðấu Tranh Chống Ngoại Xâm Dưới Thời Quân Minh Cai Trị. 4
Hồ Bạch Thảo

Ngày 13 tháng 10 năm Tuyên đức thứ nhất [12/11/1426]

 

Quan Tổng binh Thành sơn hầu Vương Thông tấu rằng Đô Chỉ huy Vi Lượng hành quân tại Giao Chỉ bị thất lợi. Lúc bấy giờ đồ đảng của Lê Lợi là Lê Thiện chiếm cứ châu Quảng Oai; Sự quan Trần Trí sai Lượng cùng các Chỉ huy Vương Miễn, Tư Quảng mang quân chống cự. Khi quân đến đất này, Lượng muốn vượt sông, nhưng viên quan Thổ quan là Chỉ huy Hà Kháng nói:

   Chắc bọn chúng đặt phục binh, phải cẩn thận đừng coi thường mà tiến.”

Lượng không nghe, sai Chỉ huy Đào Sâm, Tiền Phụ vượt sông đánh, giặc đặt phục binh và mang quân chặn đoạn hậu; giết Sâm, Phụ, Thiên hộ Triệu Trinh cùng hơn 500 quân, Lượng cũng bị bắt. Thông, cùng Tuần, Án, Ngự sử đem việc này tâu lên. Thiên tử cho rằng Vương Miễn và Tư Quảng không cứu viện, sắc mệnh Thông phạt Miễn, Quảng sung quân lập công chuộc tội; vẫn ra lệnh Thông tiến binh dẹp giặc. ( Minh Thực Lục v. 17, tr. 0579-580; Tuyên Tông q. 22, tr. 5b )

 

Tháng 10 quân Vương Thông đến thành Ðông Quan (Hà Nội). Lý Triện làm cuộc tấn công thử thách, rồi nhử quân Minh đến Ninh Kiều, khiến đại quân của Vương Thông sa vào trận phục kích lớn:

 

Bấy giờ nhà Minh sai Thành Sơn hầu Vương Thông làm chinh di tướng quân, và đô đốc Mã Anh

làm tham tướng, đem năm vạn quân sang cứu Đông Quan, bóc hết chức tước của bọn Trần Trí và

Phương Chính, cho sung làm sự quan, lệ thuộc trong quân để lập công chuộc tội; còn Trần Hiệp thì vẫn

cho làm tham tán quân vụ. Tất cả đều ở dưới quyền chỉ huy của Thông.

Thông mới đến, tinh thần rất hăng, điều động tất cả mười vạn quân, cùng bọn Hiệp chia làm ba

đường, đồng thời xuất phát. Thông đóng ở bến Cổ Sở; Phương Chính đóng ở Sa Đôi; Mã Kỳ đóng ở

Thanh Oai. Doanh trại của chúng đằng dăng đến vài mươi dặm, cờ xí rợp cả đồng nội. Chúng tự cho

rằng chỉ một chuyến này có thể dẹp yên được.

Các tướng Triện và Bí từ Ninh Kiều tiến đến Sốm  ( 7 ), chia quân và voi cho mai phục sẵn để đợi

giặc. Họ cho toán du binh  xông xáo đến sát trại Mã Kỳ, khiêu chiến, giả cách thua chạy. Mã Kỳ lùa hết

quân đuổi theo. Khi chúng đến cầu Ba La (8): quân phục của ta nổi dậy, đánh cắt ngang trận địch. Quân

Minh tan vỡ, chạy bừa, sa lầy, bị chém hơn nghìn thủ cấp. Quân ta ruổi dài đến cống Mọc  (9) , bắt được hơn

năm trăm địch. Thây giặc rải rác đến vài mươi dặm. Mã Kỳ chỉ kịp một người một ngựa trốn về.

Các tướng Lý Triện thừa thắng, muốn chẹn phía sau Phương Chính, nhưng Phương Chính đã rút

quân lui rồi. Bấy giờ trời đã chiều hôm, các tướng bên ta phải đem quân quay về. Bọn Kỳ và Chính nhân

lúc ban đêm, lén đem quân đến hội với Vương Thông.

Ngày hôm sau, các tướng Lý Triện đến bến Cổ Sở, bổ vây quân Thông. Trước đó, Thông đã đặt

quân mai phục, và đã đan tre làm cái khiên, phía trong khiên có cài chông sắt. Khi thoạt giao chiến, quân

của Thông đã quăng bỏ khiên, giả vờ chạy. Bọn Triện đuổi theo: voi giẫm phải chông, không lợi. Bọn

Triện bèn thu quân vào giữ Cao Bộ.

Nghe nói các tướng Đinh Lễ và Lê Xí đang đóng quân ở Thanh Đàm, Triện liền sai báo gấp cho

họ đến tiếp ứng. Bọn Lễ và Xí lựa lấy ba nghìn quân tinh nhuệ và hai thớt voi, tức tốc ngay ban đêm, đến

hội quân ở Cao Bộ. Họ chia quân đặt phục ở Tốt Động (10) và Chúc Động.

Bắt được gián điệp của địch, ta biết rằng Thông đã tiến đóng ở Ninh Kiều, ngầm cho kỳ binh1 đi

rảo đến phía sau quân Triện, còn chính binh  của Thông thì sẽ qua sông tiến lên phía trước. Chúng hẹn

nhau rằng hễ nghe nổ pháo3 thì các đạo quân địch đồng thời đánh khép lại. Hồi trống canh năm đêm ấy,

bọn Lễ sai quân nổ pháo ở nơi yếu hại để đánh lừa địch. Địch nghe tiếng pháo, mọi đứa đều đổ xô đi

chiếm lấy thuận lợi. Chúng lùa quân đi tắt vào. Bấy giờ trời mưa, đường lầy lội. Chúng kéo đến Tốt Động,

bị quân phục của ta bốn bề nổi dậy. Quân ta hợp sức lại, hăng hái chiến đấu, cả phá được địch: chém

thượng thư Trần Hiệp và nội quan Lý Lượng. Ta lại đuổi kẻ chạy, dượt kẻ thua, hoặc giết chết, hoặc bắt

sống. Quân Minh cùng giày đạp chồng chất lên nhau, chết đến hơn năm vạn. Số quân địch chết đuối

cũng rất nhiều, làm nghẽn cả khúc sông Ninh Giang. Ta bắt sống được hơn một vạn địch, tước được

quân nhu và khí giới vô kể.

Bọn Chính và Kỳ chạy trốn. Thông bị thương, chạy về Đông Quan, đóng chặt cửa thành, cố giữ.

Thông sai phá hủy chuông Quy Điền (11) và vạc Phổ Minh  (12)để làm chiến xa và vũ khí. (13)

 

Nhà Minh, phía thua trận không dám huênh hoang nói nhiều, nhưng Minh Thực Lục cũng đã xác nhận quân bại, Thượng thư Trần Hiệp, Ðô chỉ huy Lý Ðằng chết, Vương Thông bị thương:

 

 Ngày 6 tháng 11 năm Tuyên  Đức thứ nhất [4/12/1426]

 

Ngày hôm nay quan Tổng binh Thành sơn hầu Vương Thông tiến binh đánh giặc, bị thua to giặc bèn vây thành Đông Quan. Trước đó tướng giặc Lê Thiện chia quân  làm 3 đạo, tới đánh thành Giao-Chỉ. Một đạo từ cửa phía tây đánh vào thành đất Thanh Oai, một đạo từ Giáo Trường đánh Hạ Quan; bị Đô đốc Trần Tuấn dùng súng lửa, hỏa tiễn đánh lui; một đạo đánh vào cửa nhỏ tại ven sông gặp Sự quan Lý An mang quân tinh nhuệ giao chiến, giặc bị chết rất nhiều, nửa đêm bèn rút lui.

Lúc này Thông điều quân chia đường mà tiến. Tham tướng Đô đốc Mã Ánh mang quân đến Thanh Oai gặp giặc, đánh bại chúng. Rồi đến huyện Thạch Thất họp quân với Thông, cả hai mang quân đến huyện Ứng Bình, trú quân tại Ninh Kiều. Các tướng nói đất này hiểm trở nên lập trại để xem tình hình , không nên coi thường mà tiến. Thông không nghe, cho điều quân qua cầu, đường sá lầy trơn, người ngựa lặn lội, phục binh nỗi lên, quan quân bị bại; Thượng thư Trần Hiệp chết, Đô Chỉ huy Lý Đằng bị chết vào tay giặc, Thông trúng thương nên quay về. Lê Lợi tại Nghệ An nghe tin bèn mang đại quân tới Thanh Đàm, đánh  các xứ tại Bắc Giang, rồi vây thành Đông Quan. ( Minh Thực Lục v. 17, tr. 0593-0594; Tuyên Tông q. 22, tr. 12a-12b )

 

 

Chú thích

 

 

1.Tuổi búi tóc trái đào: ý nói tuổi thiếu niên.

2.Tư Minh: phủ trị Tư Minh xưa tại huyện Ninh Minh hiện nay, vị trí cách ải Nam Quan khoảng 30km.

3. Tam ty: gồm 3 ty: Ðô ty, Bố chánh ty, Án sát ty.

4. Sự quan: theo qui chế nhà Minh, quan bị tội, cho tạm thời giử chức để lập công chuộc tội, gọi là Sự quan.

5.Ninh Kiều: vùng Ninh Sơn, xã Ngọc Sơn, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây ngày nay.

6.Cương Mục, Sđd, trang 365-366.

7.Hán văn gọi là Cổ Lãm.

8.Hán văn gọi  là "Tam La kiều". Cái cầu chỗ giáp giới ba làng La, tức là La Khê, La Cả và La Nội, nay thuộc xã Văn Khê, thị xã Hà

Đông, tỉnh Hà Tây.

9. Nguyên văn là "Nhân Mục kiều". Nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội.

10.Tốt Ðộng: nay có xã Tốt Ðộng, thuộc huyện Chương Mỹ tỉnh Hà Tây.

11.Chuông Quy Điền: Thôn Thanh Bảo, huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà

Nội có chùa Một Cột. Tục truyền rằng đời Lý đúc quả chuông lớn, để ở trong chùa, đánh

không kêu, bèn đem bỏ chuông ấy ở ruộng Quy Điền. Ruộng này trũng thấp ẩm ướt, có

sản nhiều rùa, nên gọi tên như vậy.

12.Phổ Minh: Tên chùa. Năm Thiệu Long thứ 5 (1262) đời Trần Thánh Tông làm

chùa này, có đúc cái vạc và khắc bài minh vào vạc.

13.Cương Mục, Sđd, trang 367-368.

 

 

Năm Ðinh Mùi [1427]

 

 

Tháng giêng, mùa xuân. Bình Định vương đóng quân ở bên sông Nhị Hà, phân phái

các tướng tiến sát đến thành Đông Quan để đánh thành này.

Vương tiến quân đóng ở bờ bên bắc sông Nhị Hà: đồn lũy đối ngang với thành Đông Quan.

Vương sai bọn Trịnh Khả đóng quân ở phía cửa Đông, Đinh Lễ đóng quân ở phía cửa Nam, bọn Lê Cực

đóng quân ở phía cửa Tây, Lý Triện đóng quân ở phía cửa Bắc: tất cả đều bao vây nhằm đánh thành

Đông Quan. Vương lại sai đóng chiến thuyền, tập thủy chiến, điểm duyệt võ khí, bổ sung quân đội, chế

thứ xe đánh thành. (1)

 

Trước khí thế của nghĩa quân, Vương Thông sợ Bình định vương Lê Lợi tấn công tiếp, nên tỏ ra hòa hoãn ra lệnh rút quân từ Thanh Hóa trở vào nam trở về thành Ðông Ðô; nhưng viên Chỉ huy thành Thanh Hóa không tuân, sợ bị giết dọc đường, nên vẫn tiếp tục cố thủ:

 

Ngày 5 tháng 12 năm Tuyên Đức thứ nhất [2/1/1427]

 

Ngày hôm nay giặc họ Lê đánh châu Thanh Hóa không hạ được, bèn rút đi.

 Trước đó, từ khi thất bại tại Ninh Kiều Thành sơn hầu Vương Thông không còn vững lòng như trước, tự tiện cho Lê Lợi cai quản từ Thanh Hóa trở vào nam, truyền hịch cho quan quân tại nơi này rút về thành Đông Quan. Riêng châu Thanh Hóa không chịu nghe lệnh. Trước kia Lê Lợi đánh Thanh Hóa, Tri châu La Thông, Chỉ huy Đả Trung suất quân dân kiên thủ, có lúc mang quân đánh núi đất (2), sát thương giặc nhiều, thế giặc bớt căng thẳng. Lúc này hịch tới, người trong thành kinh sợ. Thông nói với Trung rằng:

“ Bọn chúng ta chống cự, mấy lần đánh bại giặc, ra khỏi thành thì không sống được; nay tại đây thành cao, hào sâu, lương nhiều, dân đông; so với việc chịu trói, chi bằng tận trung mà chết, mà chưa chắc đã chết đâu! Bọn [Vương] Thông bán thành cho giặc, lệnh này không thể theo được.”

 Rồi cùng với Trung tưởng lệ quân sĩ, giữ thành vững thêm; giặc đánh không hạ được, bèn bỏ đi. Khi Vương Thông bỏ Giao Chỉ, bọn [ La] Thông cũng trở về kinh đô. ( Minh Thực Lục v. 17, tr. 606; Tuyên Tông q. 23, tr. 2b )

 

Về phía gần biên giới phía bắc, trên tuyến đường từ Trung Quốc sang thành Ðông Ðô [Hà Nội], quân ta bao vây và tấn công đồn Ải Lưu tại Lạng Sơn:

 

 Ngày 18 tháng 12 năm Tuyên Ðức thứ nhất [15/1/1427]

 

Đêm hôm nay, giặc hơn một vạn người địa phương Giao Chỉ, đến bao vây và tấn công Ải lưu, bọn Bách hộ Hoàng Bưu giữ thành bị hại. Bách hộ Vạn Tông bí mật San trèo lên thành hô lớn, cầm đao cùng quân cảm tử từ cửa nam ra đánh; giặc rút chạy. ( Minh Thực Lục v. 17, tr. 617; Tuyên Tông  q. 23, tr. 8a )

 

Tình thế khẩn trương, Vương Thông phải xin thêm quân cứu viện:

 

Trước kia, chiến dịch Tốt Động, Trần Hiệp thua trận, bị chết; Vương Thông xin với nhà Minh cho

thêm quân. Vua Minh được tin, vô cùng sợ hãi, bèn sai:

Tổng binh chinh lỗ phó tướng quân thái tử thái phó An Viễn hầu là Liễu Thăng, tham tướng Bảo

Định bá là Lương Minh, đô đốc là Thôi Tụ, Binh bộ thượng thư là Lý Khánh, Công bộ thượng thư là

Hoàng Phúc và hữu bố chính sứ là Nguyễn Đức Huân5 thống lĩnh mười vạn quân, hai vạn ngựa, do

đường Quảng Tây tiến đánh cửa ải Pha Lũy (3);

Chinh nam tướng quân thái phó Kiềm quốc công là Mộc Thạnh, tham tướng Hưng An bá là Từ

Hanh và Tân Ninh bá là Đàm Trung, do đường Vân Nam, tiến đánh cửa ải Lê Hoa (4 ).

 

Minh Thực Lục chép chi tiết hơn, tường thuật kế hoạch điều động, theo trình tự như sau:

 

Ngày 26 tháng 12 năm Tuyên Ðức thứ nhất [23/1/1427]

Do bọn Thành sơn hầu Vương Thông tâu giặc Giao Chỉ  trở nên càn dữ, mệnh Thái tử Thái truyền An viễn hầu Liễu Thăng mang ấn Chinh Lỗ Phó Tướng quân giữ chức Tổng binh, Bảo định bá Lương Minh sung Phó Tổng binh, Đô đốc Thôi Tụ sung Hữu Tham tướng, mang quan quân đến Giao Chỉ phối hợp với bọn quan Tổng binh Kiềm quốc công Mộc Thạnh đánh bắt man khấu. Các quan quân lãnh đi, cùng các vệ quan quân, thổ quân, thổ dân tại Giao Chỉ đều dưới quyền điều động tiết chế. ( Minh Thực lục v. 17, tr. 619-620; Tuyên Tông q. 23, tr. 9a-9b)

 

 Ngày 26 tháng 12 năm Tuyên Ðức thứ nhất [23/1/1427]

 

Mệnh Thái truyền Kiềm quốc công Mộc Thạnh mang ấn Chinh Di Tướng quân sung chức Tổng binh, Hưng an bá Từ Hanh sung chức Tả Phó Tổng binh, Tân ninh bá Đàm Trung sung chức Hữu Phó Tổng binh; mang quan quân đến Giao Chỉ phối hợp với quan Tổng binh An viễn hầu Liễu Thăng đánh bắt man khấu. ( Minh Thực Lục v. 17, tr. 620; Tuyên Tông q. 23, tr. 9b )

 

Ngày 26 tháng 12 năm Tuyên Ðức thứ nhất [23/1/1427]

 

Sắc Thái tử Thiếu bảo Thượng thư bộ Binh Lý Khánh rằng:

“ Nay mệnh quan Tổng binh An viễn hầu Liễu Thăng mang quân từ Quảng Tây, Thái truyền Kiềm quốc công Mộc Thạnh mang quân từ Vân Nam; hai đạo quân cùng tiến để chinh tiễu bọn phản tặc tại Giao Chỉ. Khanh là bậc lão thành có kinh nghiệm, đặc mệnh tham mưu việc binh, phàm công việc nên đồng lòng mưu với nhau, thỏa đáng thì cho thi hành; lại lo chiêu phủ quân dân, xứng với sự ủy nhiệm quan trọng . Đợi Liễu Thăng đến Nam Kinh, thì cùng khởi hành. Cần dùng những tay văn học, cùng những người có tài liệu biện; có thể lựa chọn trong các nha môn tại Nam Kinh để đi cùng; chỉ cần trình cho biết tên họ và chức vụ.” ( Minh Thực Lục v. 17, tr. 620; Tuyên Tông q. 23, tr. 9b )

 

 Ngày 26 tháng 12 năm Tuyên Đức thứ nhất [ 23/1/1427]

 

Sắc dụ Thượng thư bộ Công, kiêm Chiêm sự tại phủ Chiêm sự Hoàng Phúc:

 “ Khanh trước kia nhậm chức tại Giao Chỉ thành tín cần mẫn, ban ân huệ một phương. Tiên Hoàng đế khen, nghĩ đến bậc lão thành nơi vạn dặm, bèn triệu về để giúp Trẫm. Nay dân Giao Chỉ quyến luyến khanh khôn xiết; Trẫm vốn không muốn khanh bỏ đi, nhưng cũng không muốn trái ý nguyện của dân. Nay hãy vì Trẫm trấn nhậm thêm một lần nữa. Phàm vua tôi tương đắc với nhau, không kể xa hay gần; khanh vốn đem hết tâm lực, thì dân chúng sẽ được yên chỗ, ngõ hầu xứng với lòng của Trẫm. Khanh hãy chỉ huy mọi việc tại hai ty Bố chánh và Án sát Giao Chỉ. Khâm tai!”

( Minh Thực Lục v. 17, tr. 620; Tuyên Tông q. 23, tr. 9b-10a )

 

 Ngày 26 tháng 12 năm Tuyên Đức thứ nhất [23/1/1427]

 

Sắc mệnh điều các vệ tại hai kinh Nam, Bắc;Trung đô Lưu thủ ty, Vũ xương Hộ vệ; các Đô ty Hồ Quảng, Giang Tây, Phúc Kiến, Chiết Giang, Sơn Đông, Hà Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu; Phúc Kiến Hành Đô ty, cùng các vệ quan quân phía nam Trực Lệ do An viễn hầu Liễu Thăng thống lãnh. Thành Đô Hộ vệ, các Đô ty Tứ Xuyên, Vân Nam; Tứ Xuyên Hành Đô ty do Kiềm quốc công Mộc Thạnh thống lãnh; tổng cộng gồm 7 vạn tên, để sang đánh dẹp tại Giao Chỉ. Cần khí giới tinh nhuệ, y giáp tốt mới, dọc đường gia tăng ước thúc, không được nhiễu hại. Lương bổng quân dân tính từ ngày khởi hành; tất theo lệ  kỳ đánh Giao Chỉ lần trước chi cấp. Tại Nam kinh cùng các Đô-ty, vệ sở; tiền thưởng lúc khởi trình do quan sở tại chi cấp, nếu tiền không đủ có thể dùng vải bố, quyên để chiết khấu ra tiền. Thưởng tiền giấy cho Đô Chỉ huy 500 quan, Chỉ huy 400 quan, Thiên hộ Trưởng quan vệ, trấn 300 quan; Bách hộ Trấn-phủ sở 200 quan, Tổng kỳ 150 quan, Tiểu kỳ 120 quan; quân lính,  thổ quân 100 quan. ( Minh Thực Lục v. 17, tr. 0621-0622; Tuyên Tông q. 23, tr. 10a-10b )

 

 Ngày 26 tháng 12 năm Tuyên Đức thứ nhất [23/1/1427]

 

Sắc dụ quan Tổng binh Giao Chỉ Thành sơn hầu Vương Thông, Tham tướng Đô đốc Mã Ánh. Nay mệnh An viễn hầu Liễu Thăng, Kiềm quốc công Mộc Thạnh xuất sư do hai đường Quảng Tây, Vân Nam cùng tiến; để hợp với bọn ngươi diệt giặc này. Các ngươi nên cố thủ thành trì, thao luyện quân mã, đợi bọn Thăng đến thì tiến binh. ( Minh Thực Lục v. 17, tr. 0622; Tuyên Tông q. 23, tr. 10 b)

 

 Ngày 2 tháng 3 năm Tuyên Ðức thứ 2 [ 30/3/1427 ]

 

Sắc dụ điều thêm quan quân hộ vệ Vũ Xương 1.000 người, hộ vệ Thành Ðô 1.200 người. quan quân tinh nhuệ tại Nam Kinh, Nguyên Hạ, Tây Dương 10.000 người; Trung đô lưu thủ ty, Ðô ty Hồ Quảng, Chiết Giang, Hà Nam, Sơn Ðông, Quảng Ðông, Phúc Kiến, Giang Tây, Vân Nam, Tứ Xuyên; cùng Tứ Xuyên hành Ðô ty 33.000 người; theo An viễn hầu Liễu Thăng, Kiềm quốc công Mộc Thạnh sang đánh Giao Chỉ. ( Minh Thực Lục v. 17, tr. 673; Tuyên Tông q. 26, tr. 2a )

 

Trong khi chờ quân tăng viện từ Trung Quốc sang, quân Minh đánh thắng hai trận xung quanh thành Ðông Ðô, nhưng Vương Thông không dám triển khai sự thành công này , cuối cùng lâm vào thế hoàn toàn bị động:

 

Tháng 2. Phương Chính nhà Minh đánh úp huyện Từ Liêm: thái úy Lý Triện tử trận.

Các tướng Lý Triện, Đỗ Bí đóng quân ở huyện Từ Liêm, bị Phương Chính bí mật ra quân đánh úp.

Triện cố sức chiến đấu, chết tại trận; Bí bị bắt, kịp khi việc giảng hòa đã xong, được người Minh lấy lễ độ

mời về. (5)

Tư không Đinh Lễ và thượng tướng quân Lê Xí đánh nhau với người Minh ở Mi Động (6):

bị thua, Lễ tử tiết.

Vương Thông đem quân tinh nhuệ trong thành lén đánh Lê Nguyễn ở Tây Phù Liệt. Bình Định

vương sai các tướng Lễ và Xí đi cứu. Khi đến Mi Động, Thông thấy bọn Lễ ít quân, bèn chia binh đánh

kẹp lại. Bọn Lễ thống lĩnh hơn năm trăm quân Thiết Đột, cố sức chiến đấu: voi bị sa lầy, Lễ và Xí đều bị

bắt về thành Đông Quan. Đinh Lễ không chịu khuất phục, bị giặc giết chết. Còn Xí, nhân một đêm mưa

gió, dùng mẹo trốn thoát được.

Vương cho rằng các tướng Đinh Lễ và Lý Triện  đều có công lớn, chết vì việc nước, bèn phong

em Lễ là Đinh Liệt làm nhập nội thiếu úy, phong cha của Triện là Lý Ba Lao làm quan sát sứ và cấp cho

hơn một trăm mẫu ruộng, con của Triện là Lăng làm phòng ngự sứ. (7)

 

 

Minh Thực Lục chép gộp hai trận này làm một, và chê trách Vương Thông không dám vượt sông Hồng để đánh vào đại bản doanh của Bình định vương Lê Lợi:

 

 Ngày 7 tháng 2 năm Tuyên Đức thứ 2  [4/3/1427]

 

Ngày hôm nay giặc Lê Lợi tại Giao Chỉ [Đông Đô]. Bọn Thành sơn hầu Vương Thông mang binh đánh bại, chém bọn  ngụy Tư đồ Lê Trỉ [Triện] , Tư  không Đinh Lễ, Thái giám Lê Bí,  và bọn Thái úy, Thiếu úy, Chánh đốc, Đồng đốc bọn Trần Chửng; giặc bị giết có đến vạn tên, số còn lại bỏ chạy, Lê Lợi hoảng sợ đến vở mật. Trên đường, các tướng, cùng quan lại tại tam ty nói với Thông rằng:

- “ Giặc bại tẩu, không phòng bị; nên thừa thế vượt sông đánh bất thình lình, có thể bắt giặc được; nếu trì hoãn, giặc chiêu tập được tàn dư tất sẽ liều chết chống lại quân ta.”

 Thông do dự không quyết, trả lời :

-  “Đợi xem xét .”

Qua 3 ngày không chịu ra quân, giặc dò xét biết Thông sợ, bèn tập trung dư đảng xây đồn trại, đào hào, tu sửa khí giới, tiến công bốn phía. ( Minh Thực Lục v. 17, tr. 654-655; Tuyên Tông q. 25, tr. 3b-4a )

 

Tiếp tục quân ta tấn công Khâu Ôn [Lạng Sơn] , nhờ Ðô ty Quảng Tây Cố Hưng Tộ sai quân đến cứu viện, nên thành không bị mất:

 

  Ngày 11 tháng 3 năm Tuyên Đức thứ 2 [7/4/1427]

 

Ngày hôm nay giặc họ Lê tại Giao Chỉ đánh và vây Khâu Ôn, Đô Chỉ huy Tôn Tụ suất binh cố thủ; dùng phi pháo, súng thần công bắn ra từ địch lâu, nên giặc không dám đến gần. Nhưng trong thành lương ít, ngầm sai người chạy đến báo cho Chinh man Tướng quân Trấn viễn hầu Cố Hưng Tổ. Hưng  Tổ sai Chỉ huy sứ Dương Chính mang quân hộ tống, theo đường tắt đến cấp lương. ( Minh Thực Lục v. 17, t. 0678; Tuyên Tông q. 26, tr. 4b )

 

Tuy nhiên mấy tháng sau, hai thành Khâu Ôn và Ải Lưu đều bị đánh tan, Cố Hưng Tộ bị đàn hạch vì không cứu viện kịp thời:

 

Ngày 13 tháng 7 năm Tuyên Đức thứ 13 [ 5/8/1427 ]

 

Chiếu mệnh bắt Trấn viễn hầu Cố Hưng Tổ. Lúc bấy giờ giặc Giao Chỉ phá Ải Lưu, tấn công Khâu Ôn; Hưng Tổ đặt quân tại Nam Ninh (8 ), Thái Bình (9 ) không cứu viện, để cho giặc chiếm được thành. Hưng Tổ trước kia tâu rằng đã chém được giặc Vi Vạn Hoàng, bêu đầu thị chúng; nhưng Vạn Hoàng vẫn ra vào cướp phá như xưa! Hưng Tổ lại sai bọn Chỉ huy Trương Ban giả mạo việc quân đoạt của quan, dân hơn 2500 lượng bạc, 100 con ngựa; lại cưỡng bách dân  ép cưới con gái; bị Tuần Án Ngự sử hặc tâu.

Thiên tử thấy tội ác không chừa, mệnh hành tại Đô sát viện bắt và điều tra, sai công hầu Đại thần cử tướng giỏi thay thế. ( Minh Thực Lục v. 17, tr. 763; Tuyên Tông q. 29, tr. 4a )                       

 

Về việc này sử nước ta xác nhận rằng Cố Hưng Tổ thực sự có mang quân đến cứu viện, nhưng bị đánh thua tại ải Pha Lũy [Nam Quan]

 

Nhà Minh sai Trấn Viễn hầu Cố Hưng Tổ, tổng binh Quảng Tây, đem năm vạn quân, năm nghìn

ngựa, sang cứu Đông Đô. Khi đến cửa ải Pha Lũy, bị các thủ tướng của ta là Trần Lựu và Lê Bôi đón

đánh: giặc phải bỏ chạy. (10)

 

 

Ðô đốc thiêm sự Sơn Vân được cử thay thế Cố Hưng Tổ để trấn thủ Quảng Tây và lo việc hành quân vùng biên giới:

 

 Ngày 23 tháng 7 năm Tuyên Ðức thứ 2 [ 15/8/1427 ]

 

Mệnh Hậu quân Ðô đốc phủ, Ðô đốc Thiêm sự Sơn Vân mang ấn Chinh Man Tướng-quân giữ chức Tổng binh, thay thế Trấn viễn hầu Cố Hưng Tở trấn thủ Quảng Tây; cùng suất lãnh quan quân do 3 Ðô-ty Hồ Quảng, Quảng Tây, Quí Châu điều đến để đánh bắt phản tặc. Trước đây Hưng Tổ có tội bị bắt, Thiên tử mệnh các quan Công, Hầu, Ðại -thần cử một tướng giỏi thay thế; nay các quan Ðại thần đều nói Vân thanh liêm, uy dõng, có trí lược.

 Thiên tử cũng công nhận như vậy, nên có mệnh này. ( Minh Thực Lục v. 17, tr. 770; Tuyên Tông q. 29, tr. 7b )

 

Sau khi Vương Thông đại bại tại Ninh Kiều, rồi bị vây tại thành Ðông Quan; các thành Nghệ An, Thị Cầu, Ðiêu Diêu, Tam Giang lần lượt ra hàng. Ðặc biệt chỉ huy thành Tam Giang là Lưu Thanh tỏ ra biết  kính trọng Bình định vương Lê Lợi, đã quở mắng người lính bản xứ nói lời vô lễ về Vương; khi đã đầu hàng không cho hàng binh dưới quyền dính líu vào âm mưu nỗi loạn, nên quân thành này không bị giết:

 

Vương chia sai các tướng Trịnh Khả đi đánh các thành. Người Minh ban đầu còn đóng chặt cửa

thành, đợi quân cứu viện; về sau, bị quân ta bao vây đánh phá, lâu dần chúng càng cùng quẫn kiệt quệ.

Các thành Nghệ An, Diễn Châu, Thị Cầu và Điêu Diêu đều lần lượt đầu hàng.

Vương sai Nguyễn Trãi đem theo viên chỉ huy họ Tăng, là người Minh đã đầu hàng ta, đến dụ

thành Tam Giang, thành này đầu hàng.

Trước kia, khi Vương còn ở Thanh Hóa, người bản thổ thành Tam Giang theo quân Minh, bị điều

động đi trận, khi thua rút về, có kẻ nói ra những lời láo xược phạm thượng, Lưu Thanh bèn mắng ngay

rằng:

-"Quân mán xá này vô lễ! Người1 là vua của các nị (11) đấy!".

 Đến đây, Lưu Thanh đầu hàng. Sau đó ít lâu, nhiều người ở các thành khác đã hàng vì âm mưu làm phản đều bị giết cả, riêng có thành Tam Giang

này không dính líu gì đến việc làm phản ấy. (12).

 

Trong một văn bản chép về việc xét xử các cấp chỉ huy quân Minh từng đầu hàng, rồi hợp tác với nghĩa quân của Bình định vương, sau đó được thả về; Minh Thực Lục xác nhận Ðô đốc Thái Phúc bỏ thành Nghệ An, sai người tố cáo âm mưu nỗi loạn của hàng bình, cùng đích thân đi kêu gọi các thành ra hàng:

 

Ngày 30 tháng 5 năm Tuyên Đức thứ 3 [12/7/1428]

 

Thái Phúc, Chu Quảng, Tiết Tụ, Chu Tán, Lỗ Quý, Lý Trung bị xử tử. Phúc là Đô đốc; Quảng, Tụ, Tán đều giữ chức Đô chỉ huy, Quý là Chỉ huy, Trung là Thiên hộ.

 Bọn Phúc trước đây tại Giao Chỉ trấn thủ Nghệ An, bị giặc vây, Phúc không đánh, lại đem bọn Quảng hàng giặc, chỉ cho giặc tạo chiến cụ để đánh thành Đông Quan. Lúc bấy giờ hơn 9000 quân định đốt trại giặc, bọn Phúc lệnh Bách hộ Mưu Anh  tố cáo ; giặc giết sạch 9500 người, rồi đánh các thành như Xương Giang. Phúc đi thuyết dụ những người trong các thành ra hàng; đến Thanh Hóa phi ngựa đến dưới thành, kêu to rằng:

 “ Thủ thành lợi dụng cơ hội đầu hàng có thể bảo tồn mạng sống, không nghe thì gan não phơi mặt đất.”

 Bị bọn Tri châu La Thông chửi mắng nên bỏ đi.

 Nay bọn Lợi đưa bọn Phúc đến kinh sư. Mệnh Công, Hầu, Bá, 5 phủ, 6 bộ, Đô sát viện, cùng các quan 3 bốn lần hặc tội.. Đều phúc tấu tội trạng, mệnh hành quyết phơi thây ngoài chợ và tịch thu gia sản. ( Minh Thực Lục v. 18, t. 1075-1076; Tuyên Tông q. 43, t. 17a-17b )

 

Vụ quân  Minh ra hàng rồi âm mưu nỗi loạn nên bị giết, còn được chép kỹ hơn trong văn bản truy tặng viên Chỉ huy thiêm sự Chu An, y bị giết vì đã xúi dục hàng binh nỗi loạn:

 

Ngày 20 tháng 5 năm Tuyên Đức thứ 3 [ 2/7/1428 ]

 

…..Chu An từ Chỉ huy thiêm sự vệ Chấn Vũ được điều đi đánh giặc họ Lê, cải nhiệm tiền vệ Giao Chỉ, trấn thủ Nghệ An. Gặp lúc giặc Lê Lợi lộng hành, Đô đốc Thái Phúc triệu các tướng đến bàn:

“ Nay tại đây thiếu lương thực, khó khăn, nên không thể giữ được, hãy thu thập về Đông Quan.”

Tất cả đều đồng ý. Riêng Thiên hộ Bảo Tuyên lĩnh binh hơn 100 tên chạy đến trại giặc. An đốc suất kẻ dưới quyền, cùng quân dân vệ Diễn Châu trở về thành Đông Quan. Đi đến sông Phú Lương gặp giặc; vì binh ít, yếu nên bị giặc bắt, Phúc bị giặc bức bách lệnh đến các thành dụ các chỉ huy thành ra hàng. An phẫn nộ cùng đồng đội mưu:

 “ Quan quân sẽ đến diệt giặc, mỗi người chuẩn bị gậy, dao, súng; chờ quan quân đến sẽ làm nội ứng chắc sẽ phá được giặc.”

Tuyên biết được mưu, đem sự việc cáo với Lê Lợi; Lợi giận đem giết hết. Khi sắp bị giết An nói:

“ Ta là quan của Thiên triều, há lại chết dưới tay các ngươi.” Rồi cùng Chỉ huy Trần Lân Cựu nhảy lên cướp đao giặc, giết một vài người rồi tự tử. ( Minh Thực Lục v. 18, tr. 1057-1062; Tuyên Tông q.43, tr. 8a-10b)

 

Tuy phần đông các thành ra hàng, nhưng cá biệt có thành Xương Giang, vị trí chiến lược nằm trên đường quân Minh  tiếp viện phải qua lại vẫn cố thủ; nghĩa quân phải vây đánh trong thời gian dài mới hạ được:

 

Các tướng Trần Hãn và Lê Sát đánh thành Xương Giang: hạ được.

Xương Giang là đường lối quân Minh tất phải qua lại. Bọn chỉ huy Minh là Kim Dận và Lý Nhiệm

(Nhậm) bị vây hàng hơn sáu tháng, liều chết cố giữ để đợi viện binh; quan quân không hạ được. Đến

đây, các tướng Trần Hãn khoét đất thành đường hầm đi xuyên vào thành, đánh kẹp lại, mới phá được

thành này. Bọn Kim Dận đều bị chết

 

Minh Thực Lục mô tả sự khốc liệt của trận đánh này như sau:

 

 Ngày 2 tháng 4 năm Tuyên đức thứ 2 [28/4/1427]

 

Ngày hôm nay giặc Giao Chỉ Lê Lợi công hãm thành Xương Giang. Lợi cho rằng Xương Giang là nơi quan trọng, [trên đường] đại quân ra vô; bèn dùng hơn 8 vạn quân đánh. Quan giữ thành Đô Chỉ huy Lý Nhiệm,Chỉ huy Cố Phúc ra lệnh già, trẻ, phụ nữ đều lên mặt thành, dương cờ hò hét, ngày đêm chống cự; Bọn Nhiệm  bất ngờ mang quân tinh nhuệ ra công kích, đốt phá dụng cụ đánh thành. Bốn phía giặc đều xây núi đất, dùng phi minh bắn vào thành; Nhiệm sai quân cảm tử ban đêm mở cửa thành ra đánh , giết giặc giữ núi đất. Mưu tập kích doanh trại, giặc đào địa đạo vào thành, Nhiệm sai đào hào ngang chặn địa đạo, rồi ném đá xuống, khiến giặc chết nhiều.

Giặc nghe tin đại binh của Chinh di Tướng quân sắp tới, sợ sẽ dùng thành này làm chổ dựa, bèn tăng cường thêm quân và voi tấn công. Tên đá bắn vào như mưa. Nhiệm dùng trăm cách để chống cự, trãi qua 9 tháng trời, giao tranh hơn 30 trận; khởi đầu trong thành có hơn 2000 tướng sĩ, lúc này chết và tật bệnh đến một nửa, nhưng giặc vẫn quyết vây đánh, dùng thang mây leo lên thành, rồi đoạt cửa, Nhiệm điều lính quyết tử ba lần đánh lui, nhưng giặc lại xua voi và lính vào. Bọn Nhiệm kiệt sức, đánh không xuể , Nhiệm và Phúc đều tự tử; quan trong thành là Phùng Trí khóc ròng, hướng về phía bắc bái tạ, rồi cùng Chỉ huy Lưu Thuận, Tri phủ Lưu Tử Phụ thắt cổ chết . Trong thành các quan quân, cùng trai gái chết rất đông; giặc phóng hỏa đốt, cướp phá đến sạch không. (Minh Thực Lục v. 17, tr. 0701-702; Tuyên Tông q. 27, tr.2b )

 

Tình thế quẩn bách, Vương Thông triệu tập các quan lại nhắm thông qua quyết định giảng hòa với Bình định vương Lê Lợi để rút quân về; nhưng không được đám dưới quyền hoàn toàn nhất trí:

 

 Ngày 11 tháng 4 năm Tuyên Đức thứ 2 [7/5/1427]

 

Ngày hôm nay bọn quan Tổng binh Giao Chỉ Thành sơn hầu Vương Thông bị giặc đánh vây gấp, nhưng gom binh lại không dám ra đánh, giặc bèn gữi thư cho Thông xin hòa. Thông từ khi quân bại tại Ninh Kiều, tinh thần suy sụp rất nhiều; tuy thắng một trận dưới thành nhưng chí khí không vững, bèn hứa cho giặc những đất tại các châu Thanh Hóa. Ý của Thông cho rằng Liễu Thăng đã xuất sư nhưng chưa đến ngay được, đường sá có nhiều sự ngăn trở; nay Lê Lợi cầu hòa, thành tâm dâng biểu tạ tội; thuận theo lời xin của y còn có đường sống, để có thể thu xếp cách tiến thủ sau này; vả lại Thiên tử nhân từ không muốn giết, dùng binh nên thể theo ý của Thiên tử.

 Tướng hiệu dưới quyền có kẻ cho là đúng, có kẻ im lặng không có ý kiến, có người phản đối nhưng chưa ra mặt ngăn cản; chỉ một mình Án sát sứ Dương Thời Cập can:

- “ Phụng mệnh đánh giặc lại chịu hòa với giặc. Tự tiện bỏ đất mang quân về, làm sao tránh tội được; việc này không thể làm được!”

Thông to tiếng nạt rằng:

- “ Việc phi thường, chỉ có con người phi thường mới làm được, ngươi làm sao hiểu nỗi!”

Từ đó không có ai dám nói. Bèn sai thuộc hạ cùng đi với người của Lê Lợi để dâng biểu, cùng phương vật. ( Minh Thực Lục v. 17, tr. 0713-714; Tuyên Tông q. 27, tr. 8a-8b )

 

Tháng 9 viện quân của Liễu Thăng sang đến nước ta, Bình định vương sai các tướng Trần Lựu, Lê Sát đón đánh, cả phá được quân địch, Cương Mục (13) trình bày về chiến dịch này như sau:

 

Trước kia, các tướng sĩ ta được tin quân cứu viện của Minh sắp kéo sang, phần đông đều khuyên

Vương nên đánh gấp Đông Đô để diệt địch ở trong làm nội ứng. Vương bảo rằng:

-"Đánh thành, là mưu thấp; chi bằng nuôi sức quân, tích lũy lấy tinh thần sắc bén, đợi giặc đến, ta đánh phá ngay. Một khi viện

binh đã bị tuyệt diệt thì thành Đông Đô tất phải đầu hàng. Đó là mưu chước vạn toàn: làm một việc mà

được lợi cả hai".

Vương bèn sắp xếp việc phòng thủ một cách nghiêm mật, ra lệnh cho các lộ Lạng Giang, Bắc

Giang, Tam Đái, Tuyên Quang và Quy Hóa làm cho đồng ruộng sạch quang (14) để tránh mũi dùi sắc bén

của địch. Đến đây, hay tin bọn Thăng đã kéo nhau đến đầu biên giới. Vương nhóm họp các tướng, bàn

rằng: "Quân địch cậy mạnh lấn yếu, ỷ đông hiếp phía ít người. Ý chúng chỉ cốt chạy theo mối lợi chứ

không đoái nghĩ gì đến chuyện gì khác. Chúng đi gấp suốt ngày đêm từ hàng nghìn dặm sang đây để

cứu viện. Thế là đúng như Binh pháp đã nói: "Quân đi hàng năm trăm dặm mà chỉ vội nhằm lấy lợi thì

viên thượng tướng tất phải kiệt quệ!". Bây giờ thừa cơ chúng nó mới đến, người mệt, ngựa mỏi, chúng ta

với cái thế lấy sức thong thả chờ đợi quân giặc đang nhọc nhằn, đánh ngay cho đòn phủ đầu để làm bạt

tinh thần của chúng thì không còn chệch đâu mà không thắng nữa".

Vương liền sai các tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Linh , Đinh Liệt và Lê Thụ đem hơn một vạn

quân và năm thớt voi trước đặt phục binh ở cửa ải Chi Lăng (15) để đợi giặc. Lại sai Lê Lý và Lê Văn An lĩnh

ba vạn quân, lục tục tiến lên.

Bấy giờ Trần Lựu phòng thủ cửa Pha Lũy, thấy giặc đến, lui giữ cửa Ải Lưu (16). Giặc tràn đến, giành

lấy Ải Lưu, Trần Lựu lại lui giữ cửa ải Chi Lăng. Phía trước cửa ải này cứ cách từng quãng lại có rào lũy

để chống giữ. Liễu Thăng thừa thắng đánh gấp, phá luôn được: tiến đến đâu cũng không còn ai dám

chống cự nữa. Thăng rất đắc ý.

Vương sai người đem thư đến cửa quân của Thăng, cầu xin nhà Minh làm theo cái ý "tiếp nối cho

dòng vua một họ đã bị tuyệt diệt" do Minh Thành Tổ (1403-1424) đề xướng trước và cho lập Trần Cao

làm chủ trong nước, bãi việc binh đao, khiến dân được yên nghỉ.

 

Sau mấy tháng, bức thư này được trình lên vua Tuyên Tông, bản dịch nguyên văn như sau:

 

Ngày 28 tháng 10 năm Tuyên Đức thứ 2 [16/11/1427]

 

Hồng lô tự tâu trình Thiên tử bức thư của Lê Lợi gửi qua quan Tổng binh An viễn hầu Liễu Thăng. Thư như sau:

“ Kẻ hèn này được nghe thầy Mạnh Tử dạy : Duy bậc nhân mới có thể dùng đức người trên vổ về kẻ dưới; kẻ trí lấy lễ người dưới để thờ người trên. Lấy đức người trên vổ về kẻ dưới là vui với đạo trời, lấy lễ kẻ dưới thờ người trên là sợ trời.

 Trước đây khi Thái tổ Hoàng đế mới lên ngôi báu, tiên Quốc vương nước An Nam là nước đầu tiên đến triều cống; được đặc biệt khen thưởng và ban tước Vương, đời đời giữ đất, triều cống không khuyết. Từ khi Lê Quí Ly làm điều thoán nghịch, lật cả một dòng họ, trên thì lừa dối triều đình, dưới hành hạ dân khổ. Thái tông Hoàng đế hưng sư thảo phạt, một lần ra quân đều bình định, ban chiếu tìm con cháu nhà Trần để phụng thừa tổ miếu. Bấy giờ vì lâm vào cảnh độc hại của Quí Ly, con cháu họ Trần đều phiêu dạt trốn tránh nơi xa xôi, nên nhất thời không tìm ra được.

Nay con cháu họ Trần có người tên Cảo, trốn tránh tại Lão Qua đã 20 năm. Người trong nước không quên ân trạch của Tiên vương, tìm Cảo  tại chốn ky lữ, muốn được Cảo kế thừa tổ tiên. Trăm vạn tấm lòng không hẹn cùng đồng lòng, do vậy bọn Lợi không dám mạo phạm uy trời với lời ngông dại, chỉ mong được ơn Thiên tử thể theo chiếu thư của Thái tông Hoàng đế với lời ghi rõ “ kế tuyệt” khiến họ Trần đã diệt lại được phục hồi, thì chẳng riêng Cảo được hưởng đại ân, mà mọi người trong nước đều được đội ơn Thiên tử vô cùng vậy.” ( Minh Thực Lục v. 17,tr. 0830-0831; Tuyên Tông q. 32, tr. 8b-9a)

 

Tiếp theo, Cương Mục kể thêm:

 

Thăng nhận thư, không mở xem, liền cho chạy trạm đem về tâu với vua Minh, còn mình thì cứ kéo quân ruổi dài thẳng tiến. Khi Thăng đến chỗ

còn cách Chi Lăng vài dặm, các tướng Lê Sát sai Trần Lựu ra đánh, giả cách thua chạy. Thăng hí hửng

mừng, chính hắn cầm đầu hơn trăm quân kỵ xông xáo lên trước, xa lìa toán quân hậu đội, rồi hắn, vì

lầm lỡ, sa xuống lầy. Phục binh của ta thình lình nổi dậy: đánh cho quân địch phải thua xiểng liểng, chém

Thăng ở sườn núi Đảo Mã và hơn vạn thủ cấp quân Minh.

Đạo quân của các tướng Lê Lý vừa vặn kéo đến, hội với đạo quân của các tướng Lê Sát. Bấy giờ

quân phục lại trổ sức đánh khép lại: chém Lương Minh ở vòng trận và làm cho Lý Khánh phải tự vẫn

chết. Thôi Tụ và Hoàng Phúc sắp xếp lại quân đội, rảo thẳng xuống Xương Giang. Các tướng Lê Sát đón

đánh: phá được địch. Bọn Tụ thu lượm số quân còn sót, gượng gạo tiến lên. Kịp khi biết tin Xương Giang

đã bị phá, chúng cả sợ, phải đắp lũy đất ở ngoài đồng để tự vệ. Vương sai quân thủy và quân bộ bao vây

chúng. Rồi ra lệnh cho Trần Hãn cắt đứt đường vận tải lương thực của địch, các tướng Phạm Vấn, Lê

Khôi và Lê Xí thống lĩnh ba nghìn quân Thiết đột đi tiếp ứng. Mặt trận quân Minh rối loạn. Quan quân

chém hơn năm vạn thủ cấp địch, bắt sống bọn Tụ, Phúc và ba vạn quân Minh. Thôi Tụ không chịu khuất

phục, Vương sai giết chết.

Bấy giờ Mộc Thạnh đang cầm cự với các tướng Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả ở cửa ải Lê Hoa.

Vương liệu trước rằng Mộc Thạnh là tay lão luyện, tất còn phải nghe ngóng cánh quân Liễu Thăng được

thua ra sao đã, chứ không chịu vội vã tiến quân một cách khinh thường. Vương bèn sai mật dặn các

tướng Văn Xảo và Trịnh Khả đừng giao chiến với địch vội. Kịp khi Liễu Thăng thua trận, Vương sai đem

những tì tướng nhà Minh đã bị bắt làm tù binh và những sắc thư, phù tín, ấn chương đã bắt được đưa

đến chỗ quân Mộc Thạnh cho Thạnh biết. Thạnh quá kinh hãi. Quân Thạnh tự tan vỡ, lẩn chạy. Các

tướng Trịnh Khả nhân đà đang sắc bén, tung quân ra đánh phá; chém hơn vạn thủ cấp, bắt được hơn

một nghìn quân địch và hơn một nghìn ngựa. Mộc Thạnh chỉ kịp một người một ngựa chạy thoát. (13)

 

Tuy chép theo quan điểm của kẻ địch, nhưng Minh Thực Lục cũng phải công nhận phần lớn những sử liệu nêu trên qua văn bản dưới đây:

Hồ Bạch Thảo
Số lần đọc: 2055
Ngày đăng: 05.06.2011
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Chiến lược của Nguyễn Cư Trinh trong việc củng cố và phát triển miền nam Việt Nam - Hồ Bạch Thảo
Saigon-Chợ Lớn và Nam bộ: Từ tiền sử đến Phù Nam, đế quốc Khmer và vương quốc Champa (Phần 1) - Nguyễn Đức Hiệp
Thực Lực Về Cuộc Ðấu Tranh Chống Ngoại Xâm Dưới Thời Quân Minh Cai Trị. 2 - Hồ Bạch Thảo
TRỤ ÐỒNG MÃ VIỆN: Sự Ðàn Hồi Của Biên Giới Ðế Quốc Trung Hoa - Chính Đạo
Xứ Mô Xoài – Vùng Đất Đầu Tiên Người Việt Khai Phá Ở Nam Bộ - Nguyễn Đình Thống
Trạng Bùng Đi Sứ. - Phùng Thành Chủng
Vị Sứ Thần “Bất Nhục Quân Mệnh”Giang Văn Minh. - Phùng Thành Chủng
Xem xét lại thời Tây Sơn - Nguyệt Cầm
Sài Gòn đầu thế kỷ 20 đến 1945: Việt Nam thức tỉnh - Nguyễn Đức Hiệp
Công và tội- Đâu dễ dàng phán xét! - Đinh Kim Phúc
Cùng một tác giả
Biển Giao Chỉ (lịch sử)
109. Vua Lê Uy Mục. (tiểu luận)