Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.054
123.201.794
 
Phản biện lập luận của nhà nghiên cứu Hàn Chấn Hoa về lãnh vực sử địa cổ có liên quan đến Biển Ðông….1
Hồ Bạch Thảo

Nhân bà Ngoại trưởng Mỹ tuyên bố các nước có yêu sách về biển Ðông sẽ phải trưng ra những bằng chứng về chủ quyền, Nhà nghiên cứu Hồ Bạch Thảo gửi VCV một bài phản biện lập luận sai trái của Trung Quốc qua cuốn sách của Hoàng Chấn Hoa. Một tài liệu quý để trả lời cho những ai còn mơ hồ về vấn đề này. Anh viết” Người đọc sách luôn luôn kính trọng các nhà biên khảo đã ra công tham khảo nhiều thư tịch, cung cấp tài liệu chính xác; dựa vào chính luận nhắm hướng dẫn độc giả thấy được sự thực vấn đề. Ngoài ra cũng có những tác giả với ý đồ xấu, cũng tham khảo nhiều tư liệu, nhưng nhằm mục đích tung lên trái hỏa mù, lập luận giả thực lẫn lộn; nhắm lôi kéo độc giả hiểu theo điều mình muốn, những người này bị các nhà Nho xưa chê là “đa thư loạn tâm ”.

 

 

Phản biện lập luận của nhà nghiên cứu Hàn Chấn Hoa về lãnh vực sử địa cổ có liên quan đến Biển Ðông được đề cập trong tác phẩm Ngã Quốc Nam Hải Chư Ðảo Sử Liệu Hối Biên 我國南海諸島史料滙编 .

 

Người đọc sách luôn luôn kính trọng các nhà biên khảo đã ra công tham khảo nhiều thư tịch, cung cấp tài liệu chính xác; dựa vào chính luận nhắm hướng dẫn độc giả thấy được sự thực vấn đề. Ngoài ra cũng có những tác giả với ý đồ xấu, cũng tham khảo nhiều tư liệu, nhưng nhằm mục đích tung lên trái hỏa mù, lập luận giả thực lẫn lộn; nhắm lôi kéo độc giả hiểu theo điều mình muốn, những người này bị các nhà Nho xưa chê là “đa thư loạn tâm ”.

 

Giửa hai con đường nghiên cứu nêu trên, chúng ta tự hỏi nhà biên khảo Trung Quốc Hàn Chấn Hoa cùng các cộng sự viên, tác giả cuốn sách đồ sộ đến 60 vạn chữ, mang tên NGÃ QUỐC NAM HẢI CHƯ ÐẢO SỬ LIỆU HỐI BIÊN 我國 南海 島史料滙编[ viết tắt: NQNHCÐSLHB] ; được hàng mấy chục cơ quan văn hóa tại Trung Quốc như thư viện, viện bảo tàng, trường đại học cung cấp tài liệu, sử dụng hành trăm thư tịch tham khảo, đã đi theo con đường nào để nghiên cứu?

 

Nhắm tìm hiểu câu trả lời, trong phạm vi hiểu biết khiêm tốn chúng tôi xin nêu lên luận cứ của tác giả về phương diện lịch sử, địa lý qua thiên 1 sách: Cổ đại thời kỳ ( Hán chí Nha Phiến chiến tranh) hữu quan ngã quốc Nam Hải chư đảo chủ quyền cập kỳ địa lý hòa hàng tuyến đích ký tải [ Thời kỳ cổ đại (từ nhà Hán đến cuộc chiến tranh nha phiến) có liên quan đến chủ quyền các đảo Nam Hải nước ta, cùng sự ghi chép về địa lý và tuyến hàng hải].

 

Trong thiên 1 sách, tác giả trình bày theo trình tự các triều đại Trung Quốc: Hán, Tam Quốc Nam Bắc triều, Tùy, Ðường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh; nên chúng tôi cũng tuân theo trình tự đó, để độc giả tiện bề tham khảo:

 

A.      Ðời Hán:

 

Sách DỊ VẬT CHÍ [异物志] của Dương Phù đời Ðông Hán đề cập đến Trướng Hải, sách này tuy đã thất truyền nhưng được các tác gỉả Trung Quốc đời Tống, Minh, Thanh nhắc lại như sau: 漲海崎頭水淺而多磁石,徼外大舟,錮以鐵葉值之多拔 (1) tại Trướng Hải Kỳ Ðầu nước cạn nhưng nhiều đá nam châm, thuyền lớn đi ngoài cõi  ,dưới thuyền gắn lá sắt sẽ bị nhổ ra.

 

Tư liệu từ một quyển sách viết cách đây khoảng 2000 năm, không xác định vị trí Trướng Hải ở đâu, diện tích lớn hay nhỏ; nhưng Hàn Chấn Hoa đã vin vào đó để cố tình cho rằng Trướng Hải có liên quan đến các quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa] và Nam Sa [Trường Sa], ông viết:

 

Các sách địa phương chí đời Thanh và cận đại nói về đảo Hải Nam đều trích dẫn đoạn văn này tại DỊ VẬT CHÍ. Thấy được Trướng Hải Kỳ Ðầu cùng truyền thuyết về nam châm tại Trướng Hải hút đinh sắt của thuyền có liên quan đến các quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa] và Nam Sa [Trường Sa] tại vùng biển Nam Hải. (2)

 

Lời bàn vừa hàm hồ lại thiếu khoa học. Trong tác phẩm ÐỊA LÝ BIỂN ÐÔNG VỚI HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA, tác gỉả Vũ Hữu San, cựu Hạm trưởng đã từng tham gia cuộc chiến tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974, có nhiều kinh nghiệm và kiến thức về hàng hải; viết về “ sự kỳ diệu về từ tính” tại vùng biển đông như sau:

 

Thiên nhiên đã tạo nên một vài vùng biển đặc biệt trên thế giới mà ở đó không có độ lệch về từ tính như Biển Á Rập và Biển Ðông. Một trong nhiều nguyên nhân tạo nên nền văn minh hàng hải ở Ðông Nam Á có lẽ cũng vì sự nhiệm màu đó. Trong khi la bàn từ trệch 30, đến 40 độ tại nhiều nơi khác trên thế giới, kim định hướng của nó lại chỉ ngay đúng phương Bắc địa dư, khi con tàu tiến vào vùng Biển Ðông.(3)

 

Chú thích:

 

1.Hàn Chấn Hoa,NQNHCÐSLHB, trang 23; nhà xuất bản Hạ Môn Ðại Học Nam Dương Nghiên Cứu sở, Trung Quốc, 1985.

2.NQNHCÐSLHB, trang 24.

3.Vũ Hữu San, ÐỊA LÝ BIỂN ÐÔNG VỚI HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA, xuất bản năm 2007, trang 92.

 

 

B.      Ðời Tam Quốc đến Nam Bắc triều

 

1.Sử liệu đời Tam Quốc được Hàn Chấn Hoa nêu lên là sách PHÙ NAM TRUYỆN [扶南傳] của Khang Thái. Sách này cũng thất truyền, được Lý Phương đời Tống trích dẫn tại cuốn THÁI BÌNH NGỰ LÃM [太平御覧], trong đó có câu : ,   , 洲厎有盤石,    (1) Từ Trướng Hải đến châu San Hô, dưới châu có đá bàn thạch, san hô sinh trong đó.

 

Hàn Chấn Hoa vin vào 3 chữ “ San Hô châu ” để nêu lên đây là đảo Tây Sa [Hoàng Sa] và Nam Sa [Trường Sa] là những đảo tại Nam Hải được cấu tạo bởi san hô. (2)

 

Ðây cũng chứng tỏ sự hàm hồ cố ý, vì trên đại dương có biết bao nhiêu đảo được cấu tạo bởi san hô, nào phải chỉ riêng Trường Sa và Hoàng sa mà thôi !

 

2.Lý Phương, trong sách THÁI BÌNH NGỰ LÃM [太平御覧], lại trích từ sách NGÔ LỤC [ 吳緑]của Trương Bột đời Tấn, mô tả đồi mồi tại Trướng Hải:   (3)Tại Trướng Hải, ở vùng huyện Lô Tân, Lãnh Nam; có đồi mồi lớn như con rùa.

 

Nhạc Sử đời Tống, qua sách THÁI BÌNH HOÀN VŨ KÝ [太平寰宇記], trích dẫn QUẢNG CHÂU KÝ [廣州記] của Bùi Uyên, như sau: ,  ( ) , , (4) Châu San Hô tại phía nam huyện Ðông Hoàn [Quảng Ðông] 500 lý, xưa có người đánh cá trên biển bắt được san hô.

 

Qua các sử liệu nêu trên, Hàn Chấn Hoa đổi phương hướng phía nam thành hướng đông nam, và có lời nhận xét như sau: Châu San Hô tại phía nam huyện Ðông Hoàn (tức phía tây nam)để chỉ quần đảo Ðông Sa (5) ngày nay. (6)

 

Không kể việc đổi phương hướng không có lời giải thích, họ Hàn lại cưỡng ép châu San Hô thành quần đảo Ðông Sa.

 

3.Lời chú sách NHĨ NHÃ [尔雅]của Quách Phác đời Tấn có đoạn như sau: , , (7). Ốc loa lớn như cái đấu sinh ra từ Trướng Hải quận Nhật Nam, có thể dùng làm chén uống rượu.

 

Bàn về lời chú của Quách Phác, họ Hàn nêu lên rằng: Nhật Nam là quận cực nam của Trung Quốc (8). Quách Phác nói Trướng Hải đất Nhật Nam chỉ rằng từ đảo Hải Nam đến Nhật Nam phải đi qua Trướng Hải, tức vùng biển quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa] (9)

 

Nguyên văn không hề đề cập đến Tây Sa, lại một lần nữa họ Hàn đồng hóa Trướng Hải với Tây Sa [Hoàng sa] một cách vô căn cứ!

 

Chú thích:

 

1.THÁI BÌNH NGỰ LÃM, quyển 69, mục Ðịa Bộ 34, châu, trang 3.

2.NQNHCÐSLHB,  trang 25.

3.NQNHCÐSLHB, trang 26.

4.NQNHCÐSLHB, trang 27.

5. Ðông Sa: Trung Quốc gọi Pratas Island là đảo Ðông Sa, đảo này nằm giửa Ðài Loan, đảo Hải Nam, và Philippines.

6.NQNHCÐSLHB, trang 27.

7.NQNHCÐSLHB, TRANG 27.

8. Dưới thời Bắc thuộc, quận Nhật Nam tức tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam ngày nay.

9.NQNHCÐSLHB, trang 27.

 

 

C.      Ðời Tùy

 

1.Hàn Chấn Hoa dẫn chứng TÙY THƯ [隨書] như sau: , 駿 , , 便 , , ,西 , .(1) Tháng 10 năm Ðại Nghiệp thứ 3 [607] bọn Thường Tuấn từ quận Nam Hải đáp thuyền, qua ngày đêm 2 tuần, gặp gió thuận đến đảo Tiêu Thạch Sơn, rồi qua đông nam ghé đến châu  Lăng Già Bát Bạt Ða, phía tây đối diện với nước Lâm Ấp, tại đó có đền thờ thần.

 

Trong phần nhận xét (2) Hàn Chấn Hoa cho rằng địa danh “Tiêu Thạch” và Pracel của Tây phương nghĩa giống nhau, người Tây phương gọi Tây Sa [Hoàng Sa] là Pracel (3), vậy Tiêu Thạch tức Tây Sa.

 

Hai địa danh nghĩa giống nhau như thế nào thì họ Hàn không hề giải thích; nhưng dù hai địa danh giống nhau cả âm lẫn nghĩa, cũng không thể đồng hóa làm một. Chẳng lẽ thấy tên tỉnh Hà Ðông, Trung Quốc, đồng âm và nghĩa với tên tỉnh Hà Ðông Việt Nam, rồi cho hai xứ là một. Lại càng không thể được, khi đem người phụ nữ dữ dằn ghen tuông mà điển tích Trung Quốc gọi là “ sư tử Hà Ðông”, để đồng hóa với cô gái Hà Ðông, Việt Nam duyên dáng trong chiếc áo lụa mỏng ; khiến một thi nhân lòng tràn đầy cảm hứng qua câu thơ:

 

Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát,

Bởi vì em mặc áo lụa Hà Ðông.

 

Chú thích

 

1.NHỊ THẬP TỨ SỬ, TÙY THƯ, trang 191.

2.NQNHCÐSLHB, trang 29.

3.Nguyên văn Hàn Chấn Hoa viết Pracel, chứ không phải là Paracel như hiện nay thông dụng.

 

 

D.      Ðời Ðường:

 

1.Hàn Chấn Hoa trích một đoạn văn  của Giả Ðam đời Ðường trong sách QUẢNG CHÂU THÔNG HẢI DI ÐẠO [廣州通海夷道]có  đề cập đến địa danh Tượng Thạch  như sau : , ,    西 , , , 西   , .(1)Từ phía đông nam Quảng Châu hải hành 200 lý đến Ðồn Môn Sơn, lại dương buồm đi tiếp 2 ngày đến Cửu Châu Thạch,lại đi về phía nam 2 ngày đến Tượng Thạch, đi tiếp về phía tây nam 3 ngày đến núi Chiêm Bất Lao, núi tại phía đông nước Hoàn Vương 200 lý.

 

Mặc dầu địa danh  Tượng Thạch nêu lên trong sử liệu này đã được học gỉả Phùng Thừa Quân  馮承鈞  ,một nhà nghiên cứu lịch sử nổi tiếng vào tiền bán thế kỷ thứ 20, cho rằng đó là đảo Ðại Châu, sách xưa gọi là Ðộc Châu lãnh, thuộc huyện Vạn Ninh, tỉnh Hải Nam, và Hoàn Vương quốc là nước Chiêm Thành; nhưng họ Hàn vẫn khẳng định rằng Tượng Thạch là quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa] mà không nêu lý do. (2)

 

2. Hai bộ sách khác của các tác giả dưới thời nhà Thanh là THIÊN HẠ QUẬN QUỐC LỢI BỆNH THƯ [天下郡國利病書]của Cố Viêm Vũ, và ÐỘC SỬ PHƯƠNG DƯ KỶ YẾU [讀史方輿纪要]của Nguyên Tổ Vũ được Hàn Chấn Hoa trích dẫn, nội dung tương tự như sử liệu nêu trên, chỉ nêu thêm rằng... , 西 ,  Ði 2 ngày đến Tượng Thạch, nếu theo gió đông đi theo hướng tây nam qua 7 ngày đến Cửu Nhũ Loa Châu.

 

Theo câu văn nêu trên thì từ Tượng Thạch đến Cửu Nhũ Loa Châu phải đi mất 7 ngày đường, nhưng họ Hàn vẫn xác nhận rằng Tượng Thạch tức Cửu Nhũ Loa Châu, và cả hai địa danh đều chỉ quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa] ! (3)

 

 

Chú thích

 

1.NQNHCÐSLHB, trang 30.

2.NQNHCÐSLHB, trang 30.

3.NQNHCÐSLHB, TRANG 31-32.

 

 

E.Ðời Tống:

 

1.Mở đầu chương sách này, Hàn Chấn Hoa cho rằng sách CHƯ PHIÊN CHÍ của Triệu Nhữ Quát đời Tống đã đưa Thiên Lý Trường Sa và Vạn Lý Thạch Ðường vào bản đồ Trung Quốc . Nguyên văn CHƯ PHIÊN CHÍ [諸蕃志]mô tả vị trí đảo Hải Nam như sau:... ,   西 , , , , Nam đối diện với Chiêm Thành, phía tây nhìn sang Chân Lạp, đông thì Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Ðường, xa xôi không bờ, trời nước một màu.

 

Ðây chỉ là câu văn tả cảnh vị trí phương xa của đảo Hải Nam; còn nếu bảo Thiên Lý Trường Sa và Vạn Lý Thạch Ðường nằm trong lãnh thổ Trung Quốc, như vậy cả Chiêm Thành và Chân Lạp được đề cập trong lời trích dẫn, cũng cùng chung số phận nằm trong lãnh thổ Trung Quốc ư!

 

2. QUỲNH QUẢN CHÍ [瓊管志], là một bộ sách vào đời Tống, nay đã thất truyền và không rõ tác gỉả; được Hàn Chấn Hoa nêu lên những sách trích dẫn  như DƯ ÐỊA KỶ THẮNG [輿地紀勝] của Vương Tượng Chi đời Tống, QUỲNH ÐÀI CHÍ [瓊台志]của Ðường Trụ, QUẢNG ÐÔNG THÔNG CHÍ [廣東通志]của Kim Quang Tổ đời Thanh, QUỲNH CHÂU PHỦ CHÍ [瓊州府志]của Minh Nghị đời Thanh. Câu văn trích dẫn nói về vị trí phủ Quỳnh Châu, thuộc đảo Hải Nam như sau: 瓊筦古志云,外布大海,接乌里蘇密吉浪之州,南則占城,西則真腊,交趾,東則千里長沙,萬里石塘,北至雷州府徐聞縣  Quỳnh Châu bên ngoài bao bọc bởi biển lớn, tiếp giáp với châu Ô Lý Tô Mật Cát Lãng, phía nam có nước Chiêm Thành, phía tây Chân Lạp, Giao Chỉ; phía đông Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Ðường, phía bắc có huyện Từ Văn, phủ Lôi Châu.

 

Câu văn này cũng tương tự như câu trên nhắm chỉ phương hướng xa, được Hàn Chấn Hoa suy diễn ngoài sự thực rằng  Vạn Lý Trường Sa và Thiên Lý Thạch Ðường nằm trong cương vực Trung Quốc về đời Tống. (2)

 

3.Tăng Công Lượng đời Tống trong VŨ KINH TỔNG YẾU [武經總要]kể qua thủy trình của nhà Tống đi xuống Chiêm Thành, họ đi từ núi Ðồn Môn thuộc tỉnh Quảng Ðông, chờ gió đông hải trình theo hướng tây và Nam, qua 7 ngày đến Cửu Nhũ Loa Châu, rồi đi tiếp 3 ngày đến núi Bất Lao thuộc Chiêm Thành. (3)

 

Thủy trình này tương tự như Chu Khứ Phi đời Tống, kể lại trong LÃNH NGOẠI ÐẠI ÐÁP [嶺外代答] rằng thuyển đến các nước Phiên phương nam đều đi theo hướng tây đến biển Giao Chỉ, rồi tiếp tục đi xuống phía nam:

 

 

 

Ba dòng nước xoáy

 

Bốn quận phía tây nam đảo Hải Nam có biển lớn gọi là Giao Chỉ dương. Tại biển có 3 dòng nước xoáy, nước phun lên chia thành 3 dòng; dòng thứ nhất chảy về phía nam dẫn đến biển thuộc các nước Phiên ; dòng thứ 2 chảy lên phía bắc qua vùng biển Quảng Ðông, Phúc Kiến, Chiết Giang; dòng thứ 3 chảy vào nơi mù mịt không bờ gọi là Ðông Ðại Dương. Tàu thuyền đi về hướng nam phải qua ba dòng nước xoáy, nếu gặp một chút xíu gió thì vượt được,nếu vào chổ hiểm đó mà không có gió  thuyền không ra được, ắt phải vỡ chìm trong ba dòng nước xoáy. Nghe truyền rằng biển lớn phía đông    Trường Sa Thạch Ðường  rộng vạn dặm, nước thủy triều  thi triển đẩy vào chốn cửu u . Trước kia đã có thuyền bị bão phía tây thổi, trôi dạt đến biển lớn phía đông này , nghe tiếng ba đào chấn nộ hung hãn, trong khoảng khắc gặp gió lớn thuận chiều nên may thoát được .

 

Qua các sử liệu đã dẫn, chứng tỏ thuyển Trung Quốc xuống phương nam thường đi theo ven biển Việt Nam, họ không dám ra đến Trường Sa Thạch Ðường hay quần đảo Tây Sa như họ Hàn đã quả quyết. (4)

 

4.TỐNG SỬ [宋史]chép việc quân Mông cổ truy kích vua Tống Ðoan Tông vào năm Chí Nguyên thứ 14 [1277] như sau:

 

Ngày Bính Tý tháng 12, Chính [Ðoan Tông] đến Tỉnh Áo, gặp bão hư thuyền, một số bộ hạ bị chết trôi, nên nhiễm bệnh.Hơn tuần sau quân lính từ từ đến tụ tập, 10 phần chết còn 5,4. Ngày Ðinh Sửu Lưu Thâm truy kích Chính đến Thất Châu Dương, bắt được Du Như Khuê rồi rút lui. (5)

Hàn Chấn Hoa vin vào sử liệu này để  khẳng định rằng Thất Châu Dương tức quần đảo Tây Sa; luận điệu này đã được nhà biên khảo Trung Quốc Ðàm Kỳ Tương phản đối trong bài THẤT CHÂU DƯƠNG KHẢO [七洲洋考] (6). Ngoài ra sách ÐÔNG TÂY DƯƠNG KHẢO [東西洋考] của Trương Tiếp đời Minh xác nhận rằng:  Theo QUỲNH CHÂU CHÍ [瓊州志]Thất Châu Dương  tại phía đông huyện Văn Xương 100 lý , . (7) Trên bản đồ Google nếu phóng to thì địa danh Văn Xương [Wenchang] thuộc tỉnh Hải Nam xuất hiện , từ đó đến quần đảo Paracel [ Trung Quốc gọi Tây Sa] khoảng 400 km tức gần 700 lý xưa; như vậy tính cả phương hướng và khoảng cách Thất Châu Dương cách Tây Sa [Hoàng Sa ] rất xa!

 

 

Chú thích

 

1.NQNHCÐSLHB,trang 32.

2.NQNHCÐSLHB, trang 33-36.

3.NQNHCÐSLHB, trang 37.

4.NQNHCÐSLHB, trang 38.

5.NQNHCÐSLHB, trang 39-40

6.Xem NAM HẢI CHƯ ÐẢO LUẬN CHỨNG KHẢO TẬP, trang 1-6

7.Trương Tiếp, ÐÔNG TÂY DƯƠNG KHẢO, quyển 9.

 

 

F.Ðời Nguyên:

 

1.Hàn Chấn Hoa trưng sử liệu trong QUỲNH HẢI PHƯƠNG DƯ CHÍ

[瓊海方輿志]của Thái Vi đời Nguyên như sau:

[Quỳnh Châu] phía ngoài bao bọc bời biển lớn, tiếp với châu Ô Lý Tô Mật Cát Lãng; phương nam thì Chiêm Thành, tây là Chân Lạp, Giao Chỉ; đông thì Trường Sa Vạn Lý Thạch Ðường; đông bắc phía xa thì Quảng Ðông, Mân[Phúc Kiến], Chiết [Chiết Giang]; gần thì có Khâm [Khâm Châu], Liêm [Liêm châu], Cao[Cao Châu], Hóa [Hóa Châu]. Ði biển 4 ngày tới Quảng Châu, 9 ngày đêm đến Phúc Kiến, 15 ngày đến Chiết Giang.

Sử liệu này cũng như lời trích dẫn trong mục số 1, đời Tống, qua CHƯ PHIÊN CHÍ của Triệu Nhữ Quát ; đây chỉ nói Trường Sa Vạn Lý Thạch Ðường cách phủ Quỳnh Châu đằng xa, ở ngoài vòng biển bao bọc; nhưng họ Triệu bảo rằng quần đảo được liệt nhập vào đảo Hải Nam quản hạt, quả là điều vô lý! (1)

 

2. Ðời Nguyên cuối năm Chí Nguyên thứ 29 [1293] Sử Bật được lệnh mang quân đến nước Trảo Oa [Java], khởi trình từ Tuyền Châu Phúc Kiến đến Thất Châu dương gặp gíó bão, thuyền chao đảo, quân lính mấy ngày không ăn, gió thổi lạc đến Vạn Lý Thạch Ðường cuối cùng men được vào duyên hải Giao Chỉ, Chiêm Thành, để tiếp tục hành trình. Nội dung  được chép trong 2 bộ: NGUYÊN SỬ [元史] của Tống Liêm, và TÂN NGUYÊN SỬ [新元史]của Kha Thiệu Văn (2) như sau:

二十九年,拜榮祿大夫、福建等處行中書省平章政事,往徵爪哇,以亦黑迷失、高興副之,付金符百五十、幣帛各二百,以待有功。十二月,弼以五千人合諸軍,發泉州。風急濤涌,舟掀簸,士卒皆數日不能食。過七洲洋、萬里石塘,歷交趾、占城界

Năm Chí Nguyên thứ 29, được ban chức Vinh Lộc Ðại phu, giữ chức Trung thư tỉnh Bình chương chính sự các xứ  Phúc Kiến, được lệnh mang  quân đến Trảo Oa;có Hắc Mễ Thất,Cao Hưng giữ chức Phó. Mang 150 chiếc kim phù; vải lụa, bạch (3) mỗi thứ 200 tấm  để thưởng cho người có công. Tháng 2, Bật mang 5000 quân hợp với các quân khác, xuất phát từ châu Tuyền [Phúc Kiến].Gặp gió bão, ba đào nỗi lên, thuyền xốc ngược lên,quân lính mấy ngày không ăn được, qua Thất Châu Dương, Vạn Lý Thạch Ðường, đến Giao Chỉ, biên giới Chiêm Thành.

Ðây là chuyến đi lạc hướng vì sóng gió, còn hành trình thường lệ được Trương Tiếp mô tả trong ÐÔNG TÂY DƯƠNG KHẢO  [ xem Ðời Minh, mục số 5] là từ Thất Châu Dương , đến biển Giao Chỉ theo hướng Nam, qua bờ biển Chiêm Thành, đảo Côn Lôn, rồi hành trình tiếp đến Trảo Oa [Java].

 

3.Hàn Chấn Hóa trích sử liệu trong ÐẢO DI CHÍ LƯỢC [島夷志畧] của Uông Ðại Uyên nói về Côn Ðảo như sau:

 

Xưa núi Côn Lôn có tên là Quân Ðồn sơn, núi cao mà vuông, đáy trải dài đến mấy trăm lý, nghiễm nhiên trên biển cả, cùng các nước Chiêm Thành, Tây Trúc hướng đến, dưới có biển Côn Lôn, nên lấy đó làm tên.Thuyền buôn các nước đi Tây Dương, thuận gió 7 ngày đêm có thể đến đó; ngạn ngữ có câu:”Thượng hữu Thất Châu, hạ hữu Côn Lôn” [ý chỉ phía trên có Thất Châu Dương  đáng sợ, phía dưới có Côn Lôn].

 

Nguyên văn mô tả Côn Lôn có núi cao, gần Chiêm Thành, đúng là Côn Ðảo nước ta ngày nay. Nhưng họ Hàn cho Côn Lôn là Nam Sa [Trường Sa], nơi đó không hề có núi cao, và biển Côn Lôn thành biển Nam Sa ; dụng ý muốn chứng tỏ rằng thuyền bè Trung Quốc xưa có đi qua Nam Sa! (4). Ðiều vô lý này đã bị nhiều thư tịch Trung Quốc phủ nhận:

 

-    Ðời Nguyên Chu Ðạt Quan, trong CHÂN LẠP PHONG THỔ KÝ [眞腊風土記], dùng kim chỉ nam với 48 hướng, mô tả hải trình đến nước Chân Lạp [Cam Pu Chia] cho biết biển Côn Lôn gần nước Chân Lạp; sử liệu này cũng được họ Hàn trích trong NQNHCÐSLHB (5) như sau:

 

“ Khởi hành từ Ôn Châu [thuộc tỉnh Chiết Giang] theo hướng Ðinh Mùi [202.5 độ] qua các hải cảng tại Mân [Phúc Kiến], Quảng [Quảng Ðông] ,  biền Thất Châu [ phía đông đảo Hải Nam], biển Giao Chỉ, rồi đến Chiêm Thành. Lại từ Chiêm Thành theo chiều gió khoảng nửa tháng đến Chân Lạp. Từ Chân Lạp theo hướng Khôn Thân [232.5 độ] qua biển Côn Lôn, rồi vào cảng.]”

 

-ÐÔNG TÂY DƯƠNG KHẢO [東西洋考]của Trương Tiếp đời Minh cung cấp phương hướng từ đảo Côn Lôn đến Xích Khảm Sơn [ Phan Rang], và nước Bành Hanh [Pahang] như sau:

 

Từ Xích Khảm Sơn[Phan Rang] theo hướng đơn Mùi [210 độ], thời gian 15 canh đến núi Côn Lôn

Lại từ núi Côn Lôn theo hướng Khôn Mùi [217.5 độ] thời gian 30 canh đến Ðấu Dự, lại theo hướng Ðinh Ngọ [187.5 độ] đến nước Bành Hanh [tức Pahang thuộc Mã Lai]. (6)

 

Xét đoạn văn trích dẫn trên, trung bình thuyền bè thời xưa 1 canh đi được 60 lý, 1 doanh tạo lý tương đương .58 km; vậy từ đảo Côn Lôn đến Phan Rang là 522 km, đến Pahang là 1044 km. Với những con số nêu trên, nếu kiểm chứng qua bản đồ hiện nay thì có thể chấp nhận được; còn nếu bảo Côn Lôn là đảo Nam Sa [Trường Sa ] thì khoảng cách còn tăng lên gấp bội!

 

4.Thế nhưng trong TỐNG HỘI YẾU [宋㑹要] có nêu địa danh biển Côn Lôn, bàn về sử liệu này Hàn Chấn Hoa lại cho rằng biển Côn Lôn bao quát vùng biển tại đảo Côn Lôn thuộc miền Nam Việt Nam. Có lẽ vì sử liệu dưới đây đề cập đến vùng đất giáp Chân Lạp, Chiêm Thành,  nên họ Hàn đành phải thuận theo sự thực, không thể luận bàn khác được:

 

Ngày 20 tháng 7 năm Gia Ðịnh thứ 9 [1216], người nước Chân Lý Phú (7) muốn đến Trung Quốc. Từ nước này ra biển 5 ngày tới Ba Tư Lan, thứ đến biển Côn Lôn, qua nước Chân Lạp, vài ngày đến nước Tân Ðạt Gia (8), vài ngày sau đến biên giới Chiêm Thành, qua biển khoảng 10 ngày. Phía đông nam là Thạch Ðường, có tên Vạn Lý; biển chỗ này hoặc sâu hoặc cạn, nước chảy gấp nhiều đá, thuyền bị lật chìm đến 7,8 phần 10, không thấy bờ núi. Rồi đến Giao Chỉ, 5 ngày sau đến châu Khâm, Châu Liêm. ( Nguyên chú: gọi là gió thuận toàn tại mùa hè, lúc gió Nam thổi. Khi trở về nước đợi gió Bấc mùa đông; nếu không theo như vậy không thể đến nơi được. (9)

 

Cũng như với trường hợp Thất Châu dương, địa đanh Côn Lôn họ Hàn chia thành 2 vị trí, thứ nhất gần bờ biển miền nam Việt Nam, thứ 2 tại quần đảo Nam Sa; lập luận gỉả thực lẫn lộn, cố dẫn giải theo ý tác giả muốn!

 

Chú thích

 

1.NQNHCÐSLHB, trang 44.

2.NQNHCÐSLHB, trang 45.

3Bạch: một loại hàng dệt bằng tơ trần.

4.NQNHCÐSLHB, trang48.

5.NQNHCÐSLHB, trang 49.

6. ÐÔNG TÂY DƯƠNG KHẢO, quyển 9.

7.Chân Lý Phú: một nước tại phía nam Chân Lạp.

8Tân Ðạt Gia: một nước xưa, giửa Chiêm Thành và Chân Lạp.

9.NQNHCÐSLHB,trang 43.

 

Hồ Bạch Thảo
Số lần đọc: 1971
Ngày đăng: 01.08.2011
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Tư Tưởng Việt Nam Ngang Hàng Với Trung Quốc Và Mục Tiêu Bảo Vệ Độc Lập Dân Tộc Của Nhà Nước Đại Nam - Nguyễn Lục Gia
Trường hợp ra đời của tạp chí Nam Phong - Huỳnh Văn Tòng
Thái độ của triều đình Huế trước cuộc tấn công của quân Pháp*. - Đinh Kim Phúc
Biển Giao Chỉ - Hồ Bạch Thảo
Trung Quốc đã từng sử dụng thợ mỏ trong việc xâm lăng nước ta. - Hồ Bạch Thảo
Những ngôi mộ cổ họ Lê Văn: Bi Kịch Và Huyền Thoại - Diệp Hồng Phương
Ba triều đại Lê Trịnh, Tây Sơn, Nguyễn nối tiếp đòi trả đất tại phủ An Tây, Hưng Hóa. - Hồ Bạch Thảo
Cuộc Chiến Thương Mại Của Chính Quyền Chúa Nguyễn - Nguyễn Lục Gia
Giải Mã Đại-Nam-Thực-Lục-Tiền-Biên - Nguyễn Lục Gia
Hoàng Đế Tự Đức Dị Ứng Với Thiên Triều - Nguyễn Lục Gia
Cùng một tác giả
Biển Giao Chỉ (lịch sử)
109. Vua Lê Uy Mục. (tiểu luận)