Phương thức diễn tả nội dung phức hợp của chữ Hữu Tình
"Cõi người ta" ở trong đoạn nầy được Kiều cảm nhận như là ngổn ngang trăm mối. Đây không phải là cảnh tượng xã hội bên ngoài giữa các tầng lớp giai cấp chủ - thợ, tư bản - vô sản, nam - nữ, già - trẻ..., hoặc tình trạng phức tạp của các đối tượng nhận thức, ngày càng đòi hỏi phải sâu sát hơn, hay số lượng của những dự án ngày càng tăng theo nhịp đòi hỏi của ước muốn nào bất kỳ của con người. Nguyễn Du gắn liền "ngổn ngang trăm mối" với cái khung "bên lòng" hay trong "cõi lòng". Ngỗn ngang là "vô trật tự" hay tệ hơn nữa là sự xung đột giữa hai trật tự vốn đang cư ngụ trong "Tình", nhưng cả hai không có cùng vùng trời, cùng ngôn ngữ để hiểu nhau.
Tình trạng "ngổn ngang" đó được thể hiện ngay trong lối bố cục và các mẫu đối thoại trong đoạn nầy; Kiều nói một đường, Kim Trọng mẹ của Kiều hiểu một nẻo; chưa kể đến những biến chuyển bất chừng lúc Kiều tiếp nhận lời cảnh tỉnh của Đạm Tiên hay khi quyết tâm quên tất cả đánh liều nhắm mắt "vì hoa nên đánh đường tìm hoa" (câu 443).
Hai thi hào của Đức vào thời cận đại, trước trào lưu nhân bản đang ở vào thời cao độ, đã nhận ra thực trạng của thân phận con người tại thế và các khung trời khác nhau, hoặc ẩn hay hiện của nó xuyên qua cuộc sống của con người thời đại.
Trong kịch phẩm Faust, J-W-Goethe, ở phần cuối truyện đã mượn lời Méphistophéles nói với Faust thế nầy:
"ở đây, thuộc về ta!".
Và ta thấy cũng trong tác phẩm nầy, cõi người ta "ở đây thuộc về ta" nầy vui tươi rực sáng như ban ngày của Hội Đạp Thanh hay cảnh huy hoàng khi Kiều lần đầu gặp Kim Trọng.
"Nầy hãy xem, hãy xem đoàn lũ đổ xô ra vườn và ra đồng! thuyền bè dập dìu vui tươi rẽ sóng bên sông, ngang dọc!... và con thuyền cuối tách xa những chiếc khác, chở đầy đến mạn thuyền. Những nẻo đường xa xôi nhất trên núi cũng rực sáng qua những tia óng ánh của áo quần. Ta đã nghe tiếng rộn trong làng; đấy thật đúng là thiên đàng của dân chúng; lớn nhỏ, người người nhảy múa: ở đây ta cảm được ta là người, nơi đây ta dám là người" [1].
"Cõi người ta" đầy vui tươi đó, Kiều cũng đã gặp, tức khắc sau cuộc tương ngộ lần đầu với Đạm Tiên. Âm hưởng ở đây không phải cung đàn bạc mệnh u uẩn, nhưng là tiếng nhạc vàng:
Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần (câu 134).
Tuyết in sắc ngựa câu dòn
Cỏ pha mùi áo nhuộm non da trời (câu 139-140).
Nhưng từ đằng sau, trên hay dưới chân trời mở toang đầy ánh sáng đó, Đại-ký-ức hay âm vang của cung đàn bạc mệnh vẫn ngân lên.
Trong bài thơ Đại-ký-ức, thi hào Hölderlin đã nhận ra thân phận tại thế của con người tự nhận là nhân bản chúng ta hôm nay như sau:
Một dấu chỉ (một quái vật), đấy là chúng ta, và (một sự xuất lộ) mất hết sự sống, chúng ta nay trơ trơ không cảm được khổ đau, và hầu như chúng ta đã mất lời để nói, nơi xứ lạ.
Đại-ký-ức đó nơi đoạn nầy của Đoạn Trường Tân Thanh là sự giật mình nhận ra lại "lòng ta". Trong "cơn tỉnh cơn mê" trước mắt, con người nhận ra khủng hoảng trong bước hụt chân giữa hai trật tự:
Chập chờn cơn tỉnh, cơn mê
Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chẳng khôn,
Bóng tà như giục cơn buồn,
Khách đã lên ngựa, người còn ghé theo" (câu 165-168).
Nhạc vàng và cung đàn bạc mệnh, Đạm Tiên và Kim Trọng, vui dòn mỏng của những lần gặp gỡ chen lẫn với nỗi buồn dai dẳng vì xa cách:
Đủ điều trung khúc ân cần,
Lòng xuân phơi phới, chén xuân tàng tàng
Ngày vui ngắn chỉ đầy gang
Trông ra ác đã ngậm gương non đoài (câu 423-426).
Tóm lại, bằng nhiều hình ảnh, tâm tình khác nhau, đoạn nầy chỉ gợi lên một cuộc chiến giữa hai sức mạnh giằng kéo của "Hữu Tình".
Nhưng trong cuộc tranh chấp đó, nhiều chi tiết của Đoạn Trường Tân Thanh hé lộ ra đây không phải là một cuộc xung đột giữa hai yếu tố trái nghịch, có-không, vui-buồn ở trên một bình diện hay trong một trật tự (xét về mặt hữu thể học) như lối biện chứng của Hegel.
Cái buồn khổ nơi cung đàn bạc mệnh không phải ở trong cùng trật tự với cái buồn nơi Kim Trọng. Không phải vì hai đối tượng khác nhau của tác động buồn, nhưng tất cả nỗi buồn-vui trong tương quan Kim - Kiều hàm ngụ trong cái vui phổ quát của thế giới "bây giờ, thuộc về ta". Buồn vọng lên từ cây đàn bạc mệnh gắn liền với số đoạn trường không nằm trong lãnh vực tâm lý, nhưng có thể nói là một lối nói tượng trưng hướng về "Khổ" thuộc về hữu thể học.
Ta có những đoạn văn nói về sự khác biệt nầy:
-
Cái vui của ngày hội Đạp Thanh bao phủ cả cảnh âm u của cảnh mồ mả trong lễ Tảo mộ, "Thoi vàng vó rắc, tro tiền gió bay" (câu 50).
-
Cảnh buồn vào buổi xế chiều vẫn vui khi Kim Trọng xuất hiện (câu 133-164).
-
Thúy Vân nực cười vì cảm thức đau xót người xưa của Kiều (câu 106).
-
Người mẹ chỉ hiểu cái buồn của Kiều trong câu chuyện Đạm Tiên được nàng kể lại như chỉ là nỗi buồn vu vơ trong một giấc mộng thoáng qua (câu 235-236).
-
Kim Trọng không hiểu gì về đàng sau câu nói của Kiều:
Anh hoa phát tiết ra ngoài
Nghìn thu bạc mệnh, một đời tài hoa (câu 415-416).
Câu nói có tính cách sấm ngôn của một thầy bói, gợi lên thân phận con người tại thế; nhưng với lối hiểu của Kim Trọng, mệnh bạc và tài hoa theo nghĩa khổ đau và sắc đẹp - tài ba theo nhận thức thường nghiệm nên đã trả lời bạo miệng.
Sinh rằng giải cấu là duyên,
Xưa nay nhân định thắng Thiên cũng nhiều" (câu 419-420).
Nhiều tác giả gợi lên câu nầy để cho rằng Nguyễn Du có tư tưởng lạc quan về nỗ lực "cãi mệnh" của con người. Kỳ thực, làm sao sắp gần câu nầy với giá phải trả cho sự cứu độ Kiều là nàng phải chết đi con người cũ, để được duyên cứu? Và làm sao lại có câu nầy trong phần Tổng luận: "Ngẫm hay muôn sự tại trời" (câu 3240). Nếu nhận xét nầy có gần gũi với nhận định về sự lạc quan trên đây, thì đó là về mặt tâm lý, xã hội thuộc lãnh vực thường nghiệm. Nghĩa là nó đúng trong khung ngôn ngữ của Kim Trọng. Nhưng"khổ" dấy lên từ cung đàn bạc mệnh mà Kiều phát biểu, gắn liền với chân tính con người tại thế "Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong" (câu 244).
Sự chen chân giữa hai trật tự tâm lý và hữu thể học qua lối văn tượng trưng, đặc biệt ở đoạn nầy không những tạo một cảnh "ngổn ngang" trong chính bản văn, mà còn cống hiến cho chúng ta nhiều lối giải thích về tư tưởng truyện Kiều, lắm lúc xa lạ với nhau như "nỗi khổ" của Kiều được Đạm Tiên báo mộng và cách hiểu của mẹ nàng!
Chữ Tình trong quan niệm Tính - Tình của Nguyễn Du
Blaise Pascal trong "Pensées" đã nói đến một trật tự gọi là "Lý của con tim" để mở ra một lối tư tưởng trật ra bên lề của truyền thống triết học Tây phương dựa vào lý trí được hiểu là khả năng nhận thức sự vật. Trong Đoạn Trường Tân Thanh, Nguyễn Du đã dùng chữ Tình trong khuôn khổ của Tương quan Tính-Tình, đưa câu truyện nầy vượt qua mức độ của một tiểu thuyết mô tả những cảm xúc thường nghiệm đến cảnh giới con người thắc mắc về chân tính của mình.
Nhìn với tiên kiến phê bình văn học dựa vào khung trời của tâm lý, xã hội, và đối chiếu với những chung đụng gay cấn của mối tình Kim Trọng - Kiều, nhiều tác giả đã ví Truyện Kiều như một tác phẩm văn chương thuộc trường phái lãng mạng của văn học Tây phương, đặc biệt là văn học Pháp vào thời cận đại. Trong bối cảnh nghiên cứu nầy, đôi đường có những khác biệt, vì lãng mạng Tây phương diễn đạt sức năng động phi lý của tình cảm con người gắn liền với sức mạnh tự nhiên của thể lý, tiếp theo sau hay chống lại thế giới hữu lý của truyền thống nhận thức và đạo lý dựa trên lý trí: Cõi âm u, sinh động tình cảm buồn rầu thay cho lối phân tích, vô cảm, trật tự nề nếp... Còn tính lãng mạng nơi Đoạn Trường Tân Thanh có những dữ kiện của Lãng mạng Tây phương nhưng cũng có những giới hạn: Có việc táo bạo vượt qua khuôn phép luân lý truyền thống (như ban đêm lại đi tìm trai), nhưng cũng có đặt ra những bức tường không vượt qua được như lập trường bảo vệ chữ trinh trong tình cảm trai gái. lưu tâm đến quyền uy của cha mẹ...
Nhưng chữ Tình của Đoạn Trường Tân Thanh có thực sự nằm trong nội dung tình cảm thông thường nầy, làm đối tượng cho lối văn mô tả sự kiện xảy ra trước mắt, hay đây là một lối nói tượng trưng đưa vào cảnh vực hữu thể học? Phong trào lãng mạng Tây phương ở Đức không phát triển trong lãnh vực tiểu thuyết tình cảm như Pháp (tiểu thuyết lãng mạng Pháp ảnh hưởng nhiều đến trào lưu lãng mạng của văn chương Việt Nam vào cuối tiền bán thế kỷ 20): Tình trong phong trào lãng mạng Đức nằm trong khuôn khổ triết học, được đồng hoá với đà sinh lực của Vũ Trụ, kéo con người vào sự tổng hợp của toàn thể, đẩy lui dần lý trí được tiên kiến là giấc mơ của cá thể muốn tách rời khỏi Đại Nhất là Thiên Nhiên nguyên thủy. Hầu hết các triết gia của Đức vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 chịu ảnh hưởng của những chữ Tình nầy.
Đoạn Trường Tân Thanh thật sự không có chủ tâm mô tả tình cảm như đà sống thể hiện ưu thắng trong tình cảm lứa đôi, cũng không hề nêu lên chữ Tình như hình ảnh năng lực của Thiên Nhiên Đại Nhất, (mà Nietzsche dùng từ ngữ Dionysos để tượng trưng) tranh chiến với lý trí (Apollon)[2]. Trước hết về mặt hữu thể học, cũng nằm trong ưu tư đi tìm căn cơ là chân tính như cách đặt vấn đề chữ Tình của trào lưu tư tưởng về "sự sống" của Đức, nhưng có sự khác biệt hữu-thể-học giữa hai quan niệm như trong phần chúng ta đã khảo sát về nội dung các câu thơ Dẫn nhập (từ 1-6).
Chân tính được nêu lên không phải là nền tảng cho "tất cả mọi sự vật" tiền kiến là cái gì đã xuất lộ trước mắt; chân tính mà Đoạn Trường Tân Thanh tra vấn là chân tính của con người tại thế, thuộc "cõi người ta", thế giới của những ai chứ không phải những cái gì.
Cuộc chiến Tài-Mệnh thể hiện trong chữ Tình là hai lực đối chọi của nhưng có thể gắn liền với thân phận con người tại thế. Những tình cảm, hình ảnh nêu lên là chất liệu được dùng để tượng trưng cho các đối lực thuần túy con người ẩn dấu đàng sau các hiện tượng trước mắt. Hẳn nhiên việc sử dụng các hình ảnh cho thích hợp, lấy cảnh vực Tình hay Lý để khai triển đó là những chi tiết đáng đào sâu để thấy nét đặc sắc của tài năng và phương cách diễn đạt độc đáo của mỗi tác giả, mỗi truyền thống văn hoá, mỗi thời đại; nhưng ở đây vấn đề chính được đặt ra là đưa các hình thức văn chương lại vào chính những ưu tư nguyên ủy của tác phẩm hay chủ đề của nó.
Thứ đến, việc đối chiếu chữ Tình trong Tính.-Tình vào trật tự của tình cảm thường nghiệm và tiếp theo đó là những phán đoán, biện minh về mặt luân lý lại càng xa lạ với chủ đề hơn nữa. Những tiền đề "Trăm năm trong cõi người ta" (câu 1), những nội dung đi sâu vào tận căn của thân phận con người như "Ví đem vào tập đoạn trường, thì treo giải nhất, chi nhường cho ai" (câu 210) hay tiếng ngân của cung đàn bạc mệnh qua tay Kiều diễn tả tóm gọn toàn bộ nhân sinh (xem câu 471-488), làm sao có thể xếp lối đặt vấn đề của Nguyễn Du vào mục tiêu duy nhất là mô tả những tình cảm nhất thời của các mối tình đôi lứa!
Chữ "Tình" trong Tính-Tình được diễn tả qua hình ảnh rốt ráo là sự xung đột giữa Tài qua các câu:
Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường,
Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa (câu 442-442).
và Mệnh qua các câu:
Ví đem vào tập đoạn trường
Thì treo giải nhất, chi nhường cho ai (câu 209-210).
Hoa là cái sức lôi cuốn hay lực bên ngoài; nhưng cũng là từ việc đánh giá chân tính cư ngụ nơi bên ngoài đó, mà con người tự mở ra để đi tìm. Tìm bên ngoài như là mở ra để thiết lập một tương quan, nhưng tìm hàm ngụ là thực hiện ý của mình. Đó là tương quan giả, như Đế Lai về Phương Nam tìm của lạ theo ý mình. Người trở thành đồ vật, chất liệu làm thoả mãn ý mình, tưởng rằng hoàn thành nhân tính trong nỗ lực chiếm hữu "hoa" để làm lớn cái tôi của mình lên. Về mặt hữu thể học thì đây chỉ còn là thế giới cái tôi, chưa mở ra với ai khác để có được sự sống nhân tính như một tương quan thật. Buồn, vui được nhắc đến đây tượng trưng cho sự gần gũi hay xa cách giả tạo (xét về mặt hữu thể học khi đối chiếu với khổ căn nguyên) giữa tôi và đối tượng tôi tìm. Trong các văn bản tôn giáo, thế giới nầy gọi là tôn vinh thần tượng (Idolâtrie), mà nhà Phật gọi là thế giới của Karma, có căn nơi ngã, xuất hiện từ dục. Sự giả ảo được nêu lên không nằm trong khuôn khổ nhận thức thường nghiệm và cả trong lối đặt vấn đề có hay không của siêu hình học truyền thống Tây phương. Kim Trọng, người vẫn là người, nhưng trong thế giới mở ra của Kiều, Kim Trọng (trong tương quan với Kiều) đã bị tha hoá vì ý muốn của Kiều. Và chữ Tình được Kiều khai triển trong mối tương giao với Kim Trọng như thế, lại gắn liền với thân phận con người trần thế của nàng như một nghiệp chướng, và đó chính là một trong những nội dung khổ của nhân sinh: "Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong" ( câu 244).
"Đoạn trường" khổ đứt ruột, tưởng chừng như ở một nơi nào khác xét về lối nhận thức thường nghiệm nhưng, nỗi khổ nầy không ở chỗ nào khác hơn là "âm vang" từ chính sự xuất lộ của chữ Tình trên. Hình ảnh tượng trưng về Đạm Tiên hay thế giới kẻ chết cũng chỉ gợi lên cái ẩn kín bên trong tương quan con người mở ra với ai khác để hoàn thành chân tính của mình.
Tương quan ẩn kín của chân tính liên hệ với con người tại thế như thế nào?
Nó đồng thời xuất hiện với sự khai triển Tính do con người; xuất hiện nơi câu trả lời cho sự khai triển nầy qua âm vang "không phải", và âm vang nầy dội lên nơi cảm thức "khổ đứt ruột".
Đến đây ta hiểu được, tại sao qua cách đặt vấn đề về chân tính dựa vào kinh nghiệm "trong cõi người ta" chân tính thường được gọi là "Vô" (theo nghĩa động từ, tức là sự phủ định). Vô là nền của chân tính, không phải cái có - không của nhận thức thường nghiệm, nhưng trong trực giác về khả năng nghe được lời phủ định phát ra từ chân tính. Đây là sự trả lời "không phải" khi Augustinô chất vấn Mặt trời, Mặt trăng và vũ trụ xem có phải là chân tính hay Thượng đế hay không. Đây cũng là âm hưởng của những chữ Vô để nói đến căn nguyên bao trùm những cái có trước mắt, trong tất cả các nền văn hoá: Vô cùng, Infini... Chữ Vô (động từ ) nầy đẩy lui tất cả Tài hay nỗ lực thần tượng hoá (idolâtrie) phát xuất từ bất cứ ý định nào của con người. Và "sự phủ định" nầy không tương quan gì với lối nói xã hội về "hữu thần" hay "vô thần", tiền kiến thần ở trong tầm tay con người hữu hạn và có thể gọi tên được như hòn sỏi hay củ khoai trước mắt.
Và "lời phủ định" làm đau con người, vì xé con người ra khỏi cái tôi đóng kín của thế giới nó có theo ý của riêng nó. Lời phủ định cũng là lời của chân tính nguyên sơ (= như lối nói của Pascal là Lý của con tim) mà con người đã tiếp nhận để làm người, nhưng đồng thời có thể lạm dụng nó (= Tài).
Nhưng Tính nguyên sơ lại không xuất lộ như hòn sỏi trước mắt, mà chỉ xuất lộ tiêu cực khi con người lạm dụng nó, qua âm hưởng chối từ sự lạm dụng nầy. Kiếp con người tại thế không những là chiến trường của hai cực đối kháng ấy, mà còn cảm thức chới với không tìm được lối ra, vì cửa vào chân tính tích cực chưa mở. "Chưa" như một sự đợi chờ một duyên bất ngờ đến từ chân tính để cứu độ; hoặc chưa và luôn mãi chưa khi nhìn vào thực trạng của thân phận con người tại thế!
Xung đột giữa công lý ẩn kín và các nỗ lực biện minh của con người
Socrate nói rằng "Điều mình biết chính là mình không biết chi cả!" và đó là đầu mối tư tưởng; thì những người lên án tử hình ông lại nói: "con người là thước đo vạn vật". Hai bên không ở trong một trật tự để hiểu nhau; và đã có một mạng người phải chịu án tử hình.
Nhưng... Lịch sử của truyền thống tư tưởng Tây phương lại lấy trật tự của "con người làm thước đo vạn vặt" để quay lại tôn vinh Socrate làm bậc thầy của triết học; bậc thầy được hiểu như được khai phá quyền năng hiểu biết vô tận trong tầm tay con người để định cho chính mình con đường hoàn thành nhân tính!
Đoạn-Trường Tân-thanh, mở đầu câu chuyện lưu lạc của Kiều nơi đất khách quê người, bằng cuộc chiến bất tương dung giữa thước đo do con người và chân tính hay công lý, mẫu mực của mọi thước đo; cuộc chiến xảy ra ngay tại "nhà Kiều đang cư ngụ". Từ câu 569-776, tác giả Đoạn-trường Tân-thanh mô tả cảnh gia thế Kiều bị tai vạ, đầu mối đẩy Kiều vào con đường hoạn nạn.
Nỗi "khổ" hay "tính thảm kịch" của sự kiện là kẻ vô tội phải gánh lấy "khổ", khi khổ được cảm nhận được là hậu quả đương nhiên của tội. Trước công lý tiếng Kiều kêu oan, trời xanh thinh lặng:
Oan nầy còn một kêu Trời, nhưng xa! (câu 569).
Hầu như tất cả các thảm kịch làm nên những tác phẩm chi phối văn hoá nhân loại đều diễn tả nỗi oan nầy: Oedipe vô tội, không nhận ra cha tưởng là kẻ thù và đã giết: oan!
Prométhée vì lòng thành muốn cứu giúp con người, mà phải bị trời xanh (Zeus) phạt để kên kên moi gan: oan!
Job kẻ đạo hạnh, gặp phải cảnh nhà tan cửa nát, vợ bỏ và bị bệnh phong cùi: oan!
Và con người trong Thánh vịnh Thánh kinh Cựu ước kêu lên Thiên Chúa của mình, Thiên Chúa vốn được mặc khải là luôn gần và nâng đỡ họ, nhưng mọi sự đều thinh lặng: oan! ("Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi, tại sao Ngài đã bỏ tôi") [3].
Những người trẻ sơ sinh vô tội đã bị giết, như là vì có Tin mừng Đấng Cứu độ giáng trần tại Bê-lem: Oan! [4]
Định luật nhân quả, được con người hiểu và lấy làm tiêu chuẩn cho kiến thức sự vật, tưởng có thể đo được Công lý, nhưng trước sự kiện nầy, lai bể bung. Thực tế con người vô tội chịu khổ đau dẫn đưa vào tra vấn về tương quan giữa chân tính và thân phận con người tại thế qua câu hỏi: Con người đã làm gì trái công lý, khi chỉ vì mang thân phận làm người, để vừa phải gánh nỗi khát khao chân tính vừa lầm lạc không tìm được đường về ?
Một lối nhận thức cho rằng định luật nhân quả vốn đủ để biện minh Công lý, khi hiểu chữ kiếp làm người như một vòng quay của thời gian, và phải tìm nguyên do việc làm sai trái trong kiếp trước. Chữ kiếp nầy được hiểu theo nhận thức thường nghiệm là hoàn cảnh phải gánh chịu hay được hưởng của một con người trong một khâu của vận hành nhân quả của vũ trụ Đại nhất.
Trong Kinh thánh Tân ước, Gioan đã ghi lại thắc mắc của các môn đệ Đức Giêsu về nguyên nhân của kiếp đau thương của một người mù từ thuở sơ sinh như sau:
"Thưa Thầy, ai đã phạm tội, nó hay cha mẹ nó, để phải sinh ra mù như thế?" [5].
Và câu trả lời của Đức Giêsu đã làm họ hụt chân:
"Không phải người nầy, cũng không phải cha mẹ nó đã phạm tội, nhưng là để các việc làm của Thiên Chúa được thể hiện trong người ấy" [6].
Mẫu đối thoại nầy cô động toàn bộ những mẫu đối thoại khác nhau trong sách Job. Job kêu la đến Trời xanh để buộc Trời xanh phải đích thân trả lời về oan nghiệt của mình đang chịu; những bạn bè Job lại tìm đủ mọi lý chứng nhân quả, không những để giải thích nguyên nhân của khổ mà còn để an ủi Job, trong viễn tượng hứa hẹn một tương lai tốt đẹp hơn! Nhưng Trời cao đã nói với những người dùng lý luận nhân quả để an ủi Job rằng: "Cơn giận của ta bừng lên chống lại ngươi (Eliphaz de Tếmân) và hai bạn ngươi, các ngươi đã không nói về ta cho đúng như tôi tớ ta là Job đã nói" [7].
Trong Đoạn-Trường Tân-Thanh, tác giả có lúc qua miệng một vài nhân vật, đặc biệt là Kiều, để nói đến chữ kiếp trong khuôn khổ nhân quả nầy:
Biết bao duyên nợ thề bồi,
Kiếp nầy thôi thế thì thôi còn gì?
Tái sinh chưa dứt hương thề,
Làm thân trâu ngựa đền ghì trúc mai..." (câu 705-708).
Nhưng trước hết những câu trong Kiều thường phải được hiểu trong mạch văn và diễn tiến của toàn chủ đề: có lúc là một nhận xét thường nghiệm liên quan đến một bước tìm mò mẫm của con người đang lưu lạc, có lúc cô động một nội dung tư tưởng liên hệ đến chủ đề.
Câu trên là một phản ứng của Kiều, thoáng hiện ra như một giải pháp mà nàng nghĩ ra được. Thực ra trong toàn bộ câu truyện, Nguyễn Du ưu tư về chân tính của thân phận con người tại thế, và kiếp hay nghiệp làm người không gì hơn là cuộc chiến Tài-Mệnh trong mỗi con người hôm nay, và cũng là mãi mãi cho những ai là người có thân:
Trời kia bắt làm người có thân (câu 3241)
....
Đã mang lấy nghiệp vào thân (câu 3249).
"Nhân" là nghiệp làm người và "quả" cũng là nghiệp đó trong lối tiếp nhận của con người. Cũng như lối nói Đại-ký-ức là một sự nhớ lại, kỳ thực đó là Lời của chân tính ẩn kín trong mình được con người thoáng nhận ra.
Trời xa hay Trời làm thinh trước lời kêu "oan" của con người, thông thường được cảm nhận như là, hoặc do lỗi người (nhưng con người tự xét mình không có lỗi) hoặc do lỗi Trời vì công lý của trời bất công, hay theo ngôn ngữ của Nietzsche là do tính Trời hay báo thù (ảnh hưởng lối nói của Eschyle trong Prométhée bị trói)..., nhưng tất cả các phản ứng nầy đều đã tiền kiến một nền công lý dựa trên định luật nhân quả trong tầm hiểu biết của con người.
Ở đây Nguyễn Du đào sâu vào thảm kịch con người tại thế rốt ráo hơn so với truyện họ Hồng Bàng. Trong truyện lập quốc Họ Hồng Bàng, có sự xa cách của Lạc Long Quân và Âu Cơ, vì thế giới tại thế của Âu Cơ cách trở với Thuỷ Phủ, là chân trời xa lạ nơi Long Quân cư ngụ. Vì cách trở nên có sự lầm lạc của Âu Cơ đi về phương Bắc, nhưng khi bế tắc, nàng kêu van, thì Long Quân lại xuất hiện (Vũ Quỳnh đã không, hay chưa, khai triển bước đi kỳ lạ của Âu Cơ về lại phương Bắc, và trong hành trình lầm lạc nầy, tương quan giữa Âu Cơ và Long Quân thực sự như thế nào).
Trong Đoạn-trường Tân-thanh, Kiều gặp nạn kêu đến Trời xanh nhưng Trời vẫn xa, làm ngơ dù nàng vô tội! Đây chính là nét đặc sắc riêng của tư tưởng Nguyễn Du so với Vũ Quỳnh trước ông.
Những lời kêu van đến Trời luôn được lặp lại trong mỗi bước đường lưu lạc của Kiều sau nầy; nhưng ở đoạn nào Trời cũng xa và thinh lặng:
Trăng già đội địa làm sao?
Cầm dây chẳng lựa buộc vào tự nhiên! (câu 687-688).
Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Mà xem con tạo xoay vần đến đâu (câu 1115-1116).
Hoá nhi thật có nỡ lòng,
Làm chi dày tía, vò hòng, lắm nao (câu 1129-1130).
Nghĩ đời mà ngán cho đời!
Tài tình chi lắm, cho trời đánh ghen! (câu 2153-2154).
Thế nhưng cay nghiệt là Trời tuy xa nhưng đồng thời lại thấy vướng mắc với Trời:
Biết thân chạy chẳng khỏi Trời
Cũng liền mặt phấn, cho rồi ngày xanh (câu 2163-2164).
Trời xa, nhưng không phải cách trở bởi một khoảng cách, không gian, thời gian như hai sự vật biệt lập để có thể lồng vào hai giai đoạn hay hai nơi làm xuất hiện tương quan nối kết nhân đến quả. Jean Brun đã từng gợi lên hai cảnh khác nhau về xa cách nầy: có sự xa cách tương ứng với nhận thức sự vật (séparation ontique), và có sự xa cách trong cảm thức đặc loại của hữu thể con người (séparation ontologique) [8]. Các châm ngôn có tính cách phổ biến trong các loại ngôn ngữ khác nhau cũng đã hé lộ sự phân biệt nầy: "xa mặt, cách lòng" chẳng hạn. Câu nầy nói lên sự tương hợp hai trật tự giữa "mặt" là sự vật thấy trước mắt, và "lòng" là nguồn nối kết của thế giới con người. Nhưng kỳ thực trong thực tế, không nhất thiết có sự tương hợp giữa hai cảnh vực nầy, và trái lại, nỗ lực con người càng làm cho gần "mặt" bao nhiêu thì "lòng" càng xa cách bấy nhiêu. Nguyễn Du đã mô tả thực trạng bất tương hợp nầy trong ngày hội Đạp Thanh; nơi đây có sự gần gũi làm nên đoàn lũ, nhưng người không gặp người.
Trời xa, của Nguyễn Du không nằm trong định luật nhân quả, nhưng trong cảm thức tra vấn về hữu thể con người tại thế, thuộc cõi người ta. Xa tưởng như ở trước mặt mà làm thinh, không đi vào mối tương giao mà con người có khả năng thiết lập được. Đồng thời con người tiền cảm một lối tương giao nào đó của Trời buộc mình vào, như Trời thật gần với mình, nhưng con người không có con đường nào để am tường (= Biết thân chạy chẳng khỏi Trời).
Và chính sự xuất lộ của cảm thức xa - gần nầy của chân tính đã làm xuất lộ đồng thời cảm thức về hữu hạn tính của thân phận con người tại thế, gắn liền với "khổ".
Cuộc chiến trước đây được tượng trưng qua sự chung đụng trong cuộc đời Kiều qua các cuộc gặp gỡ Đạm Tiên và với Kim Trọng, nay được chuyển qua cuộc vật lộn giữa Trời và Người, Chân tính và Hiện sinh, Tính và Tình. Như Job, hoàn cảnh gặp tai biến của Kiều vọng lên tiếng kêu oan muốn tra vấn về thực tại của chân tính, đòi buộc Trời Xanh phải đích thân phân xử.
Nhưng câu trả lời của chân tính là làm thinh như để con người có thể (vấn đề tự do) tự xoay xở.
Con đường xoay xở của Kiều là hình ảnh của lịch sử tìm mọi phương cách để "biện minh" (justification) trước sự ẩn kín của Công lý. Kiều và những ai liên hệ đến "khổ" của Kiều đều được đưa vào vận hành nầy của lịch sử con người. Song song với những nỗ lực mà Jean Brun gọi là những nỗ lực đi tìm các giải pháp (Les conquêtes de l'homme) thì cảm thức về sự xa cách hữu thể học (La séparation ontologique) đi kèm.
Cơn khát công lý xuất hiện nơi cảm thức thiếu vắng mối tương giao gần gũi Đất-Trời-Người
Cảm thức xa cách với Trời trong cơn tai biến tại nhà đi đôi với phán quyết phải từ bỏ quê cũ mà ra đi:
Đau lòng tử biệt sinh ly (câu 617)
Thôi con còn nói chi con
Sống nhờ đất khách, thác chôn quê người (câu 889-990)
Từ đây góc biển, bên trời
Nắng mưa thui thủ, quê người một thân (câu 899-990)
Bất cứ một giai đoạn nào trong cuộc lưu lạc của Kiều sau nầy đều có những câu nói về cảnh bơ vơ, lưu lạc trên quê người như:
Chung quanh những nước non người (câu 1055)
Thương thay thân phận lạc loài (câu 25).
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai? ( câu 1247-1248).
Chỉn e quê khách một mình (câu 2021)
Bơ vơ nào đã biết đâu là nhà (câu 2034)
Rằng: Nàng muôn dặm một thân (câu 2095)
Tức lòng cố quốc, tha hương
Đường kia, nỗi nọ, ngỗn ngang bồi hồi (câu 245-2246).
Và vào cuối giai đoạn phiêu lưu nầy, Kiều nhận ra toàn thể vận hành xoay xở của nàng như sau:
Chân trời, mặt bể lênh đênh,
Nắm xương biết gửi tử sinh chốn nào? (câu 2667-2667).
[1] J-W-Goethe, Faust, đoạn "trước của thành phố.
[2] Xem Nietzsche , La Naissance de la tragédie.
[8] Xem Jean Brun Les conquêtes de l'homme et la séparation ontologique, PUF, Paris, 1961.