Đỗ Tư Nghĩa giới thiệu & trích dịch.
Sinh năm 1830 tại Amherst, tiểu bang Massachusettes, nước Mỹ. Mất năm 56 tuổi (1886, trong ngôi nhà nàng đã chào đời.
Thời thơ ấu, Emily là một cô gái nhí nhảnh, hồn nhiên, yêu đời. Nhưng từ năm 26 tuổi trở về sau, bỗng nhiên nàng xa lánh cuộc đời và trở thành một người ẩn dật. Và đặc biệt, chỉ luôn mặc y phục màu trắng. Nàng chỉ tiếp xúc trực tiếp với những người thân và dăm ba bạn hữu. Nhưng nàng giao lưu với nhiều người, bằng thư tín. [Theo di chúc, sau khi nàng qua đời, những thư từ này phải được đốt hết – nhưng người chị gái của nàng vẫn còn giữ lại một số lượng thư đáng kể]. Thuở sinh thời, nàng được biết đến như là một người làm vườn, hơn là một nhà thơ. Cũng theo di chúc, quan tài của nàng không chở bằng xe, mà được khiêng đi qua những cánh đồng hoa mao lương vàng [buttercup].
Để giải thích cho việc lui về ẩn dật của Emily, người ta bảo rằng, có lần nàng yêu một người đàn ông đã có gia đình, nhưng rồi nàng tự ý rời bỏ tình yêu để quay về với chính mình. Cũng còn lý do khác, là nàng bị suy nhược thần kinh, mắc bệnh sợ khoảng trống, và chứng động kinh.
Emily không ưa những đám đông ồn ào, không thích ai biết đến thơ nàng. Thuở sinh thời, chỉ khoảng hơn chục bài thơ của Emily xuất hiện trên các tạp chí – nhưng đều do bạn bè “lén” gửi đi, giấu không cho nàng biết. Tập thơ đầu tiên của nàng chỉ được in ra 4 năm sau khi nàng đã chết.
Thơ Emily Dickinson tập trung chủ yếu vào bốn chủ đề: Tình yêu, Thiên nhiên, Cuộc đời và Sự chết.
Emily để lại khoảng trên 1800 bài thơ. Đa số thơ của nàng đều tối tăm, khó hiểu vì quá hàm súc, quá kín đáo, sâu xa. Nàng dùng nhiều hình ảnh táo bạo, độc đáo, ngôn ngữ bao giờ cũng chính xác.
Harold Bloom, nhà phê bình văn học của thế kỷ 20, đã xếp Emily Dickinson bên cạnh Walt Whitman, Wallace Stevens, Robert Frost, T. S. Eliot [1]… – những nhà thơ lớn của nước Mỹ.
Untermeyer, một nhà phê bình văn học Mỹ, đã viết : “Mãi cho đến 40 năm sau khi nàng mất, Emily Dickinson mới được công nhận như là một trong những nhà thơ Mỹ độc đáo nhất, và xét về một vài phương diện, như là nhà thơ nữ đáng chú ý nhất kể từ sau Sappho” – nhà thơ nữ lừng lẫy của Hy Lạp cổ đại.
ĐTN
1. TRÁI TIM CHỌN THẾ GIỚI CỦA NÀNG
Trái tim chọn thế giới của nàng [2]
rồi đóng cửa
Xin đừng ai đến nữa
trong thế giới của nàng.
Kìa, cỗ xe ai đỗ lại ngoài sân ?
Kìa, một đấng quân vương quỳ trên chiếu
Hỡi trái tim
sao mi cứ mãi lạnh lùng ?
Tôi đã biết
giữa vương quốc bao la
nàng đã chọn một người
rồi đóng chặt trái tim mình
như đá.
EMILY DICKINSON
1. THE SOUL SELECTS HER OWN SOCIETY
The soul selects her own society
Then shuts the door;
On her divine majority
Obtrude no more.
Unmoved, she notes the chariot’s passing
At her low gate;
Unmoved, an emperor is kneeling
Upon het mat.
I’ ve known her from ample nation
Choose one;
Then close the valves of her attention
Like stone.
EMILY DICKINSON
2. ĐỜI TÔI ĐÃ KHÉP HAI LẦN
Đời tôi đã khép hai lần
Trước khi tôi khép mắt;
Thiên thu ơi
Ta vẫn chờ xem
Còn biến cố thứ ba nào đến nữa
nơi vương quốc của ngươi.
Ôi, đã hai lần
Cõi hồn tôi chết ngất
Hai vết thương
Khôn xiết ngậm ngùi.
Ly biệt là tất cả những gì ta biết
về thiên đường
Và tất cả những gì ta cần
Về hỏa ngục. [3]
EMILY DICKINSON
2. MY LIFE CLOSED TWICE BEFORE ITS CLOSE
My life closed twice before its close,
It yet remains to see
If immortality unveil
A third event to me,
So huge, so hopeless to conceive,
As these that twice befell.
Parting is all we know of heaven,
And all we need of hell.
EMILY DICKINSON
3. HY VỌNG LÀ LOÀI CHIM
Hy vọng là loài chim [4]
đậu xuống linh hồn
hát giai điệu không lời
chẳng bao giờ tắt nghỉ
vẫn ngọt ngào trong gió thênh thang.
Ác nghiệt thay
cơn bão nào đang tay vùi dập
con chim nhỏ xinh
đã sưởi ấm bao người.
Tôi đã nghe tiếng chim
nơi cõi miền băng giá nhất
nơi đại dương xa lạ nhất
Nhưng chẳng bao giờ – dù khi túng quẫn
chim hỏi xin tôi
một mẩu vụn bánh mì.
EMILY DICKINSON
3. HOPE IS THE THING WITH FEATHERS
Hope is the thing with feathers
That perches in the soul,
And sings the tune without the words,
And never stops at all,
And sweetest in the gale is heard;
And sore must be the storm
That could abash the little bird
That kept so many warm.
I’ ve heard it in the chillest land,
And on the strangest sea;
Yet, never, in extremity,
It asked a crumb of me.
EMILY DICKINSON
4. TÔI LÀ KẺ VÔ DANH TIỂU TỐT!
BẠN LÀ AI?
Tôi là kẻ vô danh tiểu tốt !
Bạn là ai?
Cũng là kẻ vô danh tiểu tốt?
Ồ, ta sẽ thành đôi bạn tri âm
nhưng nhớ đừng cho ai biết
vì người ta sẽ trục xuất chúng mình!
Chán biết bao
phải là ông nọ bà kia [5]
được mọi người biết tiếng
Như con ễnh ương [6]
suốt ngày
phải nói tên mình
cho một bãi lầy ái mộ.
EMILY DICKINSON
4. I’ M NOBODY! WHO ARE YOU?
I’ m nobody! Who are you?
Are you nobody, too?
Then there’s a pair of us – don’ t tell !
They’d banish us, you know.
How dreary to be somebody !
How public, like a frog,
To tell your name the livelong day
To an admiring bog!
EMILY DICKINSON
Đỗ Tư Nghĩa dịch
Mùa quỳ vàng 1983. [ xem lại, 8. 12. 2011].
[1] T.S. Eliot: ( 1888- 1965): Nhà thơ và nhà phê bình văn học kiệt xuất. Đoạt giải Nobel văn học năm 1948. Sinh tại St Lous, Mỹ, nhưng sống thường trú tại London từ 1914; năm 1927 nhập quốc tịch Anh. Mất tại Anh quốc. Hiện nay, cả Mỹ và Anh quốc đều nhận là T. E. Eliot là người của nước mình. ( ĐTN).
[2] Xin bạn đọc lưu ý: Trong cả 4 bài thơ của Emily Dickinson mà tôi chọn dịch ở đây, tôi đều dịch thoát ý ( ĐTN).
[3] Khổ thơ cuối này quá kín đáo, hàm súc. Tôi chỉ dịch sát nguyên văn, nhưng thú thực, chưa thực sự hiểu Emily muốn nói gì! ( ĐTN)
[4] Nguyên tác tiếng Anh: Hope is the thing with feathers. Dịch sát thì sẽ như sau: “ Hy vọng là sự vật có lông vũ.” Cách dịch của tôi đã đánh mất một cái gì đó của nguyên tác, nhưng vì một số lý do, tôi đành phải chọn cách dịch như trên. ( ĐTN).
[5] Ý nói: những người có địa vị cao, có danh vọng trong xã hội. ( ĐTN).
[6] Hình ảnh con ễnh ương và bãi lầy thật là biểu cảm và độc đáo! ( ĐTN).