Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.185
123.216.731
 
Sơn La Ký Sự 5
Nguyễn Khôi

 

Bài 23:

NHÀ SÀN THÁI

 

 

Nhà sàn của người Thái - Sơn La - Tây Bắc “hướn hạn phủ táy” là một công trình kiến trúc tài hoa, hòa đồng với thiên nhiên, trời đất cùng vạn vật, có 2 loại:

 

- Nhà sàn khung cột: bộ khung được gá lắp từ các bộ phận rời, bắt đầu từ việc chôn cột (nhà cột chôn - nghèo) “hươn chim mạy”.

 

- Nhà sàn vì kèo “vì cột”: Kèo, cột, xà ngang đã được lắp ráp thành các đơn vị “vì kèo” dựng nối các vì bằng các xà dọc (tiến từ hườn khứ sang kẻ khứ (quá giang = khứ) có hai trụ để đỡ đòn tay (pe hản) là con cung. Đó là loại nhà “hườn kè khang” (nhà kê hạ).

 

Nhà sàn Thái bao giờ cũng làm số gian lẻ, 2 đầu hồi - “tụp cống” khum khum như mai Rùa, gắn với truyền thuyết thủa khai thiên lấp địa, thần Rùa “Pua tẩu”. Dạy người Thái làm nhà theo hình Rùa đứng.

 

“Khửn song phái/ cái song đay” - mở 2 cửa/ đi 2 cầu thang là  “tang chan” và “tang quản”. “Tang chan” ở cuối nhà bên trái dành cho phụ nữ. “Chan” là phần nhà sàn được nối dài ra ngoài trời. Đây là nơi đàn bà trong nhà ngồi nghỉ ngơi chơi lúc nhàn rỗi, thêu thùa, cầu thang phía này thường 9 bậc (9 vía).

 

Cầu thang đầu bên phải “tang quản” dùng cho nam giới; 7 bậc (7 vía).

Có 2 bếp lửa: “chik pháy” phía tang quản dành cho người già. Bếp chính phía tang chan dành cho nấu nướng, phụ nữ. Bếp lửa nhà sàn ở giữa nơi núi rừng âm u được coi như “trái tim bốc lửa” sưởi ấm nuôi dưỡng cả về vật chất, tinh thần cho cả nhà.

 

Gian “quản” có bàn thờ tổ tiên “hỏng hóng” và cột thiêng “sau hẹ”. Trên cột thiêng có treo hình Rùa bằng gỗ 3 bông lúa “sam huống khẩu” và 3 nhánh rau “thì là” “sam hóm chik” - đó là biểu tượng của tô tem giáo cùng bóng dáng thuyết thiên - địa - nhân.

Nhà sàn Thái vừa trang nhã vừa chắc chăn:

 

Hươn đi tẳng cang tèn

Hươn én tẳng cang vên

Lốm luông pặt bấu chại

Lốm hại pặt pấu pay.

(Nhà tốt dựng nơi cao ráo

Nhà đẹp dựng giữa mường

Gió to thổi không xiêu

Bão lớn không lay động).

* Sự tích cái Khau cút (hoa nhà)

 

Theo Quắm tố mướng (kề chuyện mường)

Thì: Cuộc thiên đi/ đi đường thuyền sợ rơi/ phải chuồn theo đường con don, con dím…

Người Thái từ xíp xoong păn na (Vân Nam) đi theo dọc sông Hồng (Nậm Tao - Sông Thao) ra đi vào cuối tuần trăng. Họ đi cứ đoán lũ nhìn vào mặt trăng khuyết ở cuối dãy núi, họ hẹn nhau, hễ ai đến được phương đất nào khi làm nhà thì dựng trên đầu hồi nhà (nóc) một cái dấu hình mặt trăng khuyết để nhận ra đồng tộc - và cái đó gọi là “khao cót” và gọi chệch là “khau cút” = sừng cuộn.

 

Theo tiếng Thái “khao” là trắng, cót là ôm có ý nghĩa là mối hận ly hương. Cái mô típ trang trí nghệ thuật “mặt trăng khuyết” này còn có ở cửa sổ, khăn Piêu…

 

Khau cút vẽ vân sen/ đầu kèo vẽ vân én/ mái nhà xén chân gianh bằng rui: Đó là tiêu chí nghệ thuật về nhà sàn Thái.

 

Khau cút là 2 thanh gỗ đóng chéo hình chữ X trên đòn nóc “tiêu bôn” trước hết là để chắn gió “pảy lốm” nẹp 2 mái gianh 2 đầu hồi nhà. Những nhà tầng lớp trên xưa còn thêm bông sen cách điệu ở 2 giao điểm 2 tấm gỗ và 8 hình trăng khuyết hướng  vào nhau so le trên khau cút.

 

Có nhiều cách hiểu về khau cút:

 

Đó là cặp sừng trâu cách điệu (văn minh lúa nước); Đó là những búp cây Guột (rau dớn)… nhìn thấy nó là ta nhớ bản nhớ mường.

 

Trên bậu cửa thường chạm hình đôi Thuồng luồng (tô ngựa) linh vật làm chủ trên sông suối, biểu tượng cho sức mạnh và gia đình hạnh phúc.

* Các loại khau cút:

- Khau cút mải: Là dạng đơn giản nhất chỉ là 2 thanh tre bắt chéo vào nhau, là dấu hiệu nhà của phụ nữ góa bụa (me mải).

- Khau quai (sừng trâu), khau pẻ (sừng dê), cút chim may (trăng khuyết) cút nêm (cút lá tre) là dấu hiệu của nhà bình thường.

- Khau của pụa (khau cút Vua) dấu hiệu nhà Quan lại, quý tộc gồm 2 miếng ván dài trên 1m, phần chót có đóng 2 miếng gỗ ngang, chia 5 nhánh, mỗi nhánh có gắn hình hoa thị theo số đếm của luật tục làm nhà.

- Khau cút căm (khau cút vàng) dưới có thanh gươm, là dấu hiệu của Nhà quý tộc “quan võ”.

- Khau cút hoa sen: Nhà quý tộc lớn.

 

Bố trí nội thất: Tiếp liền vách gian buồng thờ tổ tiên (hóong) là buồng ngủ của chủ nhà, phía chân thường đặt thêm bếp lửa để gia đình sum họp, sưởi ấm… chăn đệm chất đống đặt ở phía đầu ngủ.

 

Vị trí ngủ của các thành viên trong gia đình: Gian giữa “xáo hạch” và “hỏng ly” là gian khách đàn ông ngủ. Đối diện phía dưới là nơi con trai chưa vợ ngủ. Kề cột xáo hạch là vợ chông chủ nhà ngủ. Kế tiếp là vị trí Bố mẹ chủ nhà ngủ, tiếp là vợ chồng con trai ngủ, tiếp là nơi vợ chồng con gái ngủ, rồi đến con gái chưa chồng ngủ.

 

Con rể không được vào khu vực bố mẹ vợ ngủ, con dâu, con rể không vào khu bố mẹ chồng ngủ. Bố mẹ chồng không vào khu con dâu ngủ.

 

Sợi dây  “xảo lỏng luông” là ranh giới (sợi dây linh thiêng) nên người ta chỉ vắt khăn mặt, khăn Piêu lên sợi dây này.

Tuyệt đối không vắt quần áo, tối kỵ là váy áo phụ nữ.

 

Con gái             Vợ chồng         Vợ chồng         Bố mẹ   Vợ chồng    Khách                                                                                                                                                   

chưa chồng      con rể                con trai        (ông bà)        chủ nhà    đàn ông

          

 

* Các vị trí khác:

- Nơi để hạt giống (giàn 2 bếp)

- Nơi để ống nước: Dựa vào vách bên phải (thường ngồi quay mặt vào bếp)

- Nơi để khung dệt vải: Bên phải sàn xia phía trong nhà hoặc bên trái sàn xia  phía ngoài nhà.

- Nhà kho: Ở dưới gầm sàn

 

Lễ lên nhà mới: mời Lúng ta (ngoại) châm lửa nhóm củi ở bếp mới, mời mo đọc bài xua đuổi tà ma

 

 

Bài 24:

GÁI THÁI

 

 

Cảm tưởng đầu tiên khi gặp “gái Thái” là nõn nà, sạch sẽ, đẹp, hấp dẫn cả dáng lẫn da.

 

Trang phục đẹp “độc đáo” tạo dáng đi tha thướt, uyển chuyển, làm nổi bật các đường cong gợi cảm nhưng vẫn kín đáo, thắt đáy lưng ong. Tính tình dịu dàng, hiền thục, dễ gần gũi, thực thà, chất phác, nói năng vừa phải.

 

Tình cảm: chân thành, yêu tha thiết, hoạt động tình dục mạnh mẽ, đứng tuổi mà bộ ngực vẫn đầy đặn.

 

“Gái Thái tóc thơm, da trắng, thịt mềm

Đôi bầu nhật nguyệt như mộng ước

Ru hồn trai lên cõi trời tiên”

Thông minh, hoạt bát, ham học hỏi và nhanh tiếp thu cái mới.

 

Sinh hoạt cộng đồng: dám phát biểu chính kiến, hay hát và hát hay, múa (xòe) giỏi.

 

Chăm chỉ đảm đang, nuôi con khéo, dạy con ngoan. Không đánh con, ít xảy ra cãi nhau (to tiếng), không ăn cắp, không nói dối (ba vẹo).

 

Có tính bình đẳng bình quyền (không tự ti), có chí khí vươn lên (danh ca có nghệ sĩ ưu tú Vi Hoa; chính trị cấp cao có Tòng Thị Phóng - ủy viên bộ chính trị, phó chủ tịch Quốc hội…)

Nhận xét (đánh giá) về “gái Thái” của chính các chàng trai Thái qua “Tản chụ xiết xương” (tâm tình người yêu) với cái lối nói “xiết” (kiểu nói kháy, hơi cường điệu, phóng đại “quá” lên một chút) đã ca ngợi cô gái có vẻ đẹp thông qua lao động:

 

“Xai pánh nhịp lang chủm pên hún nộc dung / phung lang he pến hún luống bin xẻo/. Lả tắt kẻo pên chớp lao vi”

 

(Em khâu vó nên hình chim công /vá chài thành hình lượn con rồng) đưa nhát kéo thành Sao Tua Rua/.

 

Cô gái xinh xắn ở trên sàn khuống khiêm nhường đáp lại:

“Khuống phủ khuôn nhinh khuống nọi, khống ai khái

Khuống pai chán dú ngăm nga phả

Báu đáng nả chụ pươn má cha đău ná”

(Khuống của em, Khuống nhỏ lại xiêu vẹo ở bên sàn ngoài, cớm cành cớm nguội chẳng xứng mặt chàng yêu của người sang chơi).

 

Người Thái có câu “au mia bấng me nai” (lấy vợ thì xem bà mẹ cô ta) ý là “mẹ nào con ấy”…từ lên sáu, lên bảy, bé gái đã được mẹ dạy tập nhặt bông, cán bông, quay xa, kéo sợi, cầm kim chỉ để khi lớn là thông thạo dệt vải vá may, tự tay trồng bông, dệt vải, nhuộm màu, cắt may quần áo, làm chăn gối đệm màu…Phụ nữ Thái còn giỏi trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ dệt thổ cẩm đẹp, thêu piêu…coi đây là các nghề phụ làm ngoài giờ ra ruộng, lên nương, nuôi dạy con cái. Đó là những bàn tay tài hoa, khéo léo:

 

“Sai pánh khuổn mư sại lẹo chum bok cai

Hai mư khoa chum bơk Mường Hỏ

Năng dóng dỏ nhịp lụa pên pik bin lá”

(Em úp tay trái nở hoa đào

Ngữa tay phải thành hoa Mường Hỏ

Khép ngồi khâu lụa thành (chim) vỗ cánh bay.

 

Sự chăm chỉ của các cô gái Thái thức khuya dậy sớm trên khung cửi từ canh ba, canh tư đến tang tảng sáng mới rời khung cửi đi nương, ra ruộng.

 

“Tứn tắm húk kem bươn hai

Tứn tắm húk lai kem bươn hai póng hung”

(Dậy dệt thổ cẩm cùng trăng sáng

Dậy dệt vải hoa cùng trăng tỏ rạng đông).

 

Người phụ nữ Thái quên ăn quên ngủ làm lụng tận tụy vì chồng con, xã hội… đã tạo ra các sản phẩm thiết thực quý giá… các chàng trai Thái luôn mơ ước kiếm được cô vợ đảm đang, qua lời hát “khắp” đã lý tưởng hóa về việc nàng thêu khăn đào tặng chàng:

 

“Lả tắm phải pên póc nong xe

Pánh tắm pé pên khoáng lái lủ

Chụ tắm khẳm pên khoáy lai lương

Cốn táng phương lướt le chử hảy”.

 

(Em dệt sợi thành vóc hoa dâu

Em dệt tơ thành gấm hoa vân chéo

Dệt thổ cẩm rực rỡ hoa văn

Ước được em thêu dệt khăn đào).

 

Như vậy: Gái Thái với vẻ đẹp hình thể (vào loại nhất ở nước ta) thì cái đẹp bên trong, vẻ đẹp nội tâm quả là các cô nàng xinh đẹp để cho ta chiêm ngưỡng và yêu thương hết dạ.

8/3/2012.

 

 

Bài 25:

PÍ PẶP  (1)

 

Chàng trai Thái tỏ tình với người yêu bằng tiếng sao trúc (pí pặp) được nhà thơ Lò Vũ Vân đặc tả bằng sáu câu thơ ngắn với 36 con chữ rơi thánh thót rót vào lòng cô gái:

 

Tiếng Pí Pặp lảnh lót

Rơi xuống nhà sàn em

Nhà sàn em tỏa sáng vừng trăng

Tiếng Pí Pặp nỉ non đêm ngày

Trải thảm lên thang gỗ chín bậc

Rơi vào đáy tim em.

Lò Vũ Vân

 

_________

(1) Pí Pặp: Sáo trúc nhỏ

Pí = sáo “páu pí xáư hu quai” thổi sáo vào tai trâu (đàn gãy tai trâu)

Pí láo = sáo trúc dài

* Nhà thơ Lò Vũ Vân (19 - 8 - 1943) quê bản Noong Đa, Bắc Yên. Ở tổ 8. phường Tô Hiệu. TP Sơn La.

BÌNH: Một tứ thơ lạ, ý rất xưa mà đủ cả tình, cảnh, sự - đủ cả nhạc, họa… thật là độc đáo đến lịm người.

 

 

Bài 26:

TÊN MỘT SỐ MÓN ĂN THÁI

 


Người Thái có câu “dệt kin xấư xốp nhăng báu hụ” - làm ăn vào miệng còn không biết thì mọi lời nói chữ nghĩa cũng chỉ là “tô xư tai” (con chữ chết) mà thôi.

 

Theo Vi Liên:

1. Căm khảu (Phần về cơm):

Khảu nửng (cơm xôi), khảu lam (cơm lam), khảu tổm (bánh chưng), khảu chảo (cơm thổi), khảu canh (cháo), khẩu chí (cơm nướng)…

Khảu bái pa (cơm cá), khảu bái sáy (cơm độn trứng), khảu bái bay (cơm độn trám đen), khảu bái cưởm (với trám xanh), khẩu bái nậm ỏi (với mật), khẩu nhọm (nhuộm các màu), khảu qua mắn có (độn sắn), khảu qua khảu phảng (độn kê), khẩu qua li tổm (với ý dĩ), khảu qua phứa hom (khoai thơm)…

2. Căm chảm (các loại chấm).

* Le cưa khao (muối trắng), le ướt cưa (muối ớt).

* Các loại “chéo”: Chéo khinh hom (gừng), chéo ướt cưa (ớt tỏi), chéo báư líu (lá chanh), chéo hom chi lang (húng chó), chéo inh ki (húng) chéo hom kíp (tỏi), chéo hom pẻn (mùi tàu), chéo phắc chậu (sả), chéo thúa nau (đỗ tương), chéo pa (cá), chéo pu (cua), chéo mẹ (sâu măng), chéo non tó – chéo manh i (nhộng, ve), chéo đẻ mọn (nhộng tăm).

* Các loại mắm: Mẳm ca (cá), mẳm nước, mẳm khụa (nòng nọc), mẳm mẹ (sâu măng), mẳm co đường Pừng (nhộng cây móc), mẳm manh ti (nhộng ve), mẳm manh po (nhộng cánh cam), mẳm tắc ten (châu chấu), mẳm pu (cua), mẳm non tó (nhộng ong), mẳm manh đa (cà cuống), mẳm tô niểng (niềng niểng).

* Các loại nước chấm:

Nặm xổm đanh (măng chua), nặm xổm má xim (quả xím), nặm xổm mák (quả bứa), nặm xổm má liu (chanh)… kham bong (quả me), nặm mắm (nước mắm), nặm tôm (mắm tôm), pảnh van (mì chính).

3. Căm kin (phần về các món ăn):

* Phau (đốt) – chí (nướng)

Các món nướng (pỉnh): Pỉnh họn, pỉnh tộp (cá), pỉnh ho (gói), pỉnh mịnh (hơ), pỉnh mản (xiên), pỉnh mản xót (xiên miếng to).

* Các loại lam: Lam nhứa phặc (thịt nạc), lam nhứa hạp hạ (thịt bạc nhạc), lam phắc (rau), lam nó (măng), lam tô họk (con sóc), lam tô ổn (con dúi).

* Các loại “mốc” cá:

Gói lá vùi tro nóng: Móc tong (lá), mốc ố (ủ), mốc nhứa đảng (thịt khô), mốc cay (rêu đá), mốc pho, mốc ốt, …

* Các loại Ók gồm:

Hầm cách thủy: ók năng min, ók nhứa đảng (thịt chó), ók cay (rêu đá), ók tau (tảo), ók bon, ók ốt…

* Các loại nhọk (nghiền nhuyễn): Nhọk mák khừa (cà), nhọk mák thú (đỗ), nhọk năng (da), nhọk nhứa (thịt).

* Các loại mọk (tẩm bột hầm cách thủy):

Mọk cáy (gà), mọk pa (cá), mọk nhứa (thịt), mọk tô pụng (diều hâu), mọk tô hơn (don), mọk tô mển (dím), mọk cay (rêu đá), mọk hết (nấm), mọk mắk mư (quả chua ngọt).

* Các loại pho (đùm lá vùi nướng):

Pho hết côn (nấm rơm), pho cốp (ếch), pho hết hẹk (nấm hương), pho hết khôn cày (nấm da), pho chương tọng (lòng), pho pa (cá).

* Các loại nửng (xôi) “đồ”:

Nửng táo, nửng xá - đíp (chín tới), nửng pa (cá), nửng phắc kén (rau khúc), nửng man ca (búp sự), nửng pưới (nhừ), nửng nhứa (thịt), nửng mák buốp (mướp), nửng mák pi (hoa chuối), nửng dúak pi (nõn cây chuối rừng)…

* Các loại quả:…

* Các loại rau: Đều đem “đồ” mới ăn, phắc cát úp (bắp cải), phắc cát mong (cải xanh), mướk (bồ công anh), khỉ táu (diếp cá), noók (rau má), ngỗm (xương sông), cát đon (cải bẹ), cát choong (cải xoong), ót (rau ngót), xô-ók (dọc mùng), cút nặm (dớn), phắc ở lợt (lá lốt), phắc ven.

4. Các loại lá (lá non và ngon):

Bâư mắn co (ngọn sắn), bâư ổi, bâư ngoa, bâư đứa.

5. Các loại măng ăn ghém sống:

Nó khá, nó van, nó bới, nó thúa ngọk (đá), nó pửng, nó lau, nó man ca, nó tao, nó vai…

6. Các loại nấm: Hết bỉ, hết thu nún nặm.

7. Các loại quả thơm:

Măk khén (hạt tiêu rừng), măk he (tiêu), măk ớt (ớt).

8. Các loại vỏ:

Năng co hăm (vỏ cây hạt dổi)

Năng chưa bi mi

9. Các loại quả ăn sau bữa cơm (đét xe):

Măk teng (dưa), kiểng (cam), hảu (bứa ngọt), phong mạt (dứa), mắk muông (muỗm), hăm (hạt dổi), liu (chanh), cuổi (chuối), nghe (quýt), na (na), pục van (bưởi ngọt)…

10. Các loại bánh kẹo:…

11. Các loại chụp (nộm):

Chụp phắc chiệu (rau bướm), nó (măng)…

12. Nó xổm (măng chua)

Nó héo (măng khô chua)

Nó hang (măng khô)

13. Các loại củ quả:

Mắk ứk (bí đỏ), mắk phặc (bí xanh).

14. Các loại hoa “đồ” chín ăn được:

Bók ban (hoa ban), ít ương, thúa (đỗ), tong tay, hởng, nôm nẹ, pip, ứk, khạnh…

15. Các loại gỏi: Cỏi năng (da) cỏi pa (cá), cỏi nhứa (thịt), cỏi xổm (chua), cỏi khôm (đắng)…

16. Năm pịa, nặm bi (mật).

17. Kăm cắp (ghém):

* Các loại ghém rau thơm:

Hom kim (húng), hon xa au, hon pẻn, hon chỉ, hon kip (tỏi).

18. Căm nặm (phần để các món uống):

: Lảu xá chúp (rượu cần mút)

: Lẩu xiêu (rượu cất).

: Lẩu vạng (rượu cái).

Nặm ta (nước lã), lẩu xá nóng (rượu đóng chai), lẩu xong xiêu (cất 2 lần), nặm che (nước chè)…

Cơ cấu một bữa ăn (mâm cơm) thường phải có đủ 5 thứ (năm miếng) xếp thứ tự.

1. Căm khảu (về cơm)

2. Căm chảm (về chấm)

3. Căm kin (về món ăn)

4. Căm cắp (về món ghém)

5. Căm nặm (về món uống)

 

Khi sắp xếp mâm cơm: Đặt trước tiên là “đĩa muối ớt” coi như đã có chủ nhà  (mi chản hươn) tiếp theo là các món khác.

Do thích ăn “xôi nếp thơm” nên cả hệ thống tiếp theo sau cơm (xôi) là các món thức ăn khô (trừ rượu) mùa nào thức ấy.

Các món ăn “đồ” (không luộc) nên ăn ngọt đậm (không nhạt)…

 

Bữa cơm Thái quả thật là độc đáo, hấp dẫn, ngon mà như đủ các vị thuốc thu lượm từ rừng núi rất bổ dưỡng cho cơ thể con người./.

 

 

Nguyễn Khôi
Số lần đọc: 3115
Ngày đăng: 29.06.2012
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Sơn La Ký Sự 4 - Nguyễn Khôi
Dốc Mơ - Phạm Văn Nhàn
Nghe Kinh - Phạm Thanh Chương
Cơm Mo Cau Giữa Lòng Thành Phố - Lê Ký Thương
Sơn La Ký Sự 3 - Nguyễn Khôi
Nhân cách lớn làm nên một con người - Trần Ngọc Trác
Cha Tôi - Ngô Nhật Đăng
Ký (vô tích) sự vòng Bờ Hồ - Nam Dao
Xem Bóng Rỗi Hát Tế, Múa MâmVàng - Phạm Nga
Đại Ngàn Buồn Muôn Thuở - Minh Nguyễn
Cùng một tác giả
Xuân (thơ)