Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.182
123.221.024
 
Nước Mắt Lâm Tặc
Nguyễn Hàng Tình

 

Nếu hỏi cánh kiểm lâm Lâm Đồng rằng lâm tặc ở đâu ngang ngược, “gấu” nhất  họ sẽ trả lời ngay là ở vùng Quảng Sơn_ Ninh Thuận, nghĩa là người ở dải đồng bằng nằm dưới đèo Krông K’Pa, xứ sở mà quay đủ 180o ta chẳng thể  trông thấy rừng đâu cả. Cho đến một ngày tôi quyết định  lọt vào trong  những cái  làng “ăn rừng” khét tiếng chuyên nghiệp suốt mấy chục năm qua này…


 

Sự xuất hiện của tôi trong tích tắc cả làng Triệu Phong đến Thạch Hà, Hạnh Trí_xã Quảng Sơn, Ninh Sơn, Ninh Thuận_ đều hay tỏ. Có lẽ họ đã liên tục rỉ tai, và chạy đi báo cho nhau biết. Một không khí cảnh giác với người lạ, chừng thường trực suy nghĩ  rằng ai cũng có thể là công an, kiểm lâm… ( trong lực lượng liên ngành chống vi phạm lâm luật của chính quyền huyện) giả dạng để …đoạt lấy gỗ, truy quét nghề “ăn gỗ rừng” phi pháp của họ.

 

PHÁ  RỪNG “ CHUYÊN NGHIỆP”

 

Tuy thế, nhưng rảo qua các làng, nhìn đâu cũng thấy gỗ, từ gỗ khúc đến gỗ xẻ; chúng  được bày lăn lóc, tứ tung trước, sau và hai bên hông nhà mà không một chút mảy may sợ sệt; tất cả công khai như thể đây là một thế giới riêng, bất trị, mà luật pháp bảo vệ rừng mất tác dụng. Cảnh người ta để gỗ nguyên trên những chiếc cộ bò_ loại xe sử dụng bò để kéo_bày bán. Đó đây thêm những chiếc cộ đầy ắp gỗ tươi rói vừa đưa từ rừng về cũng ngang tàng chễm chệ trước các sân nhà. Trong khi đó, những người khác đủng đỉnh chở gỗ  trên những chiếc cộ bò đi bán cho những xưởng cưa, hay đầu nậu gỗ trong làng.  Không phải tất tần tật người dân đều “nhảy rừng”, nhưng hoạt động về gỗ lậu  trở thành thứ sinh hoạt thường nhật sôi động, phổ biến nhất  ở  cái làng này. Họ rao giá gỗ tạp ngày hôm nay là  1,2 –1,4 triệu đồng, gỗ căm-xe 4,5 triệu đồng, dổi, bằng lăng, hay cẩm lai là cứ  thêm 2-5 triệu đồng/ m3.  Làm sao không ngạc nhiên khi một vùng đất không có lấy một chỏm rừng, rừng lại ở cách đến 32 km( nhưng thuộc… huyện Đơn Dương, tỉnh…miền cao nguyên Lâm Đồng), phá rừng nổi tiếng, “chuyên nghiệp” với nghề khai thác, cưa xẻ, bán buôn gỗ lậu suốt hơn 20 năm nay mà chính quyền sở tại vẫn cho phép hệ thống xưởng cưa, xưởng mộc, chế biến gỗ... hình thành, trong khi điều đó ngay cả các tỉnh trên Tây Nguyên_ nơi rừng vẫn còn_ cũng không dám. Rồi cảnh nhỡn tiền  khi đêm về, dễ thấy những tay đầu nậu buôn bán gỗ  thoả mái “rước” gỗ từ những chiếc cộ bò ở các nẻo đường rừng đổ ra, cảnh  đưa gỗ vừa xẻ lên những chiếc xe khách, xe tải để đánh đi Phan Rang, Nha Trang, và ngược vào Sài Gòn… Hoá ra ở Lâm Đồng, lâu nay giới thầu cất nhà, thợ mộc…kháo nhau “ nếu muốn mua gỗ thì về Ninh Thuận!” là thế.

 

La cà quán xá ở Quảng Sơn người dân mách với tôi rằng, muốn  biết nguồn gỗ trong làng có dồi dào hay không, cũng như dinh dưỡng trong bữa ăn của người dân độ này có đang “khá” không, chỉ cần nhìn vào sức mua hàng  hoá ở cái chợ xã nằm trước đường quốc lộ 27 là biết_ gỗ là một thứ “hàn thử biểu” đời sống dân sinh vùng này. Và người ta cũng mách rằng, cộ bò đi gỗ vào rừng ngày hôm sau có đông hay không phản chiếu qua sự tấp nập của cái chợ cỏ ngày nào cũng họp ( gần như duy nhất ở Nam Trung Bộ) nằm không xa làng vào ngày hôm trước, với cỏ do những nông dân  nghèo từ các vùng khác cắt đem về đây bán. Cỏ tươi ngon là một thứ “nhu yếu phẩm” quan trọng cho việc đi ăn gỗ ở rừng, và thường chỉ có bò đi rừng ( tức bò làm ra tiền nhanh) mới được ăn cỏ mua, bồi dưỡng chu đáo.

 

Ba ngày “cày” tới cày lui vùng Quảng Sơn đủ để tôi hiểu được “qui trình”  tấn công rừng cao nguyên ở đây như sau: người ta đánh cộ bò băng qua những cánh đồng Ninh Sơn, nhắm thẳng lên dãy núi rừng ở hướng Đông Nam từ  mờ sáng hôm trước, và đưa gỗ về vào đêm khuya, hoặc  rạng sáng của hai ngày sau đó. Những người đi gỗ quí ( như cẩm lai, trắc, kiền kiền, căm xe…) thì phóng xe máy vào rừng, rồi dấu xe kín, sau đó một tuần sau quay về làng đánh cộ bò vào chở gỗ cưa hạ được. Trước đây mạnh cá nhân nào nấy “ăn” rừng, nay người ta “liên minh” lại, đi một lúc 15- 50 cộ bò, với lực lượng 30 – 100 người cùng 15 – 50 con bò vạm vỡ nặng cả nửa tấn. Phương cách này giúp dễ dàng bày binh  bố trận theo hướng  áp đảo, “ đủ sức” chống chọi, đối phó với lực lượng bảo vệ rừng ( và lâm luật) vốn lèo tèo và ngày càng quan liêu, nhát gan, sợ chết, nếu lỡ giáp mặt nhau. _Ý chí quẫy đạp mưu sinh của con người thật khủng khiếp! Những lâm tặc ngang tàng, khinh đời nói toạc ra với tôi là trước đây họ lầm lũi xẻ gỗ, chở gỗ…, còn nay mọi sự đều  có đội quân do thám “trận địa”( như không có kiểm lâm, công an, quân đội…) trước, rồi mới rời rừng. Chưa hết, dân  đi “ăn gỗ” đều sắm điện thoại di động, để hễ thấy dấu hiệu bất ổn là tìm đồi núi cao nhảy lên ( chỗ có sóng) để loan báo cho nhau dấu gỗ, tẩu tán bò, trốn người… Cứ thế, suốt hơn hai mươi năm chăm chỉa vào vùng rừng chuyển tiếp giữa cao nguyên với miền duyên hải thuộc huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng khiến muốn gỗ to ngày càng phải đi xa hơn, rừng mỏng ra, teo lại, nên họ phải mò lên đến tận lâm phận cheo leo ở Ka Đơn, Pró, dãy núi 1600 ( có lẽ đỉnh núi này có độ cao 1.600 m so với mặt biển). Họ nói, dù rừng đã lùi xa dần, nhưng giờ hễ xuất cộ bò khỏi làng là bằng mọi giá phải có gỗ mang về. Kẻ chuyên đi săn gỗ quí thì cứ 1-2 tuần kiếm được  4-7 triệu đồng, còn ai nhỏ gan, chỉ đủ lực  để ăn non thì cứ hai ngày một cộ gỗ trên xe đánh về cũng kiếm được triệu bạc…

 

 

...Khi lâm tặc... bị bắt. Ành Nguyễn Hàng Tình


 

“ CHẤP NHẬN”…  PHẠM PHÁP

 

Trước hiên của một ngôi nhà cuối làng Triệu Phong, xã Quảng Sơn, chị Hồng ngồi thẩn thờ nhìn vào dãy núi xa tít hướng lên Lâm Đồng. Tôi hỏi  căn nguyên của cái nhìn nặng trĩu ấy, chị bảo:  “ không biết ảnh ( người chồng_PV) có thoát được “kiểm lâm” không !”. Chị rằng, cứ mỗi lần chồng đánh bò ra đi, là dằng dặc thời gian chị ở nhà… hồi hộp, lo sợ. Chị lo cái cây từ  trên cao ngã đổ đè chồng, lo bò bị tóm( mỗi con bò dùng để kéo ở đây trị giá trên 10 triệu đồng), lo chồng bị bắt, lo chiếc  cộ sì lốp giữa rừng, lo qua núi qua đồi xe chở gỗ sa ổ voi lật nhào… Ngay cái con đường tiến thẳng vào rừng chạy ngang nhà, chị có lạ gì cảnh người ta khiêng người chết do gỗ ngã đè trên rừng về… Chị rằng, mấy người đàn ông “gắn bó” với rừng ở cái làng này mà không sức mẻ, què quặt ít nhiều trên thân thể. Không có sức khoẻ thì đừng mơ “ăn” được gỗ rừng, cho dù phạm pháp, nên hầu hết dân  nhảy rừng đều là người ở cái tuổi hừng hực nhất của đời người, từ 17 -40. Bà Tư Lê, 60 tuổi, ở làng kế cận, làng Thạch Hà,  bảo có mỗi đứa con trai bửu bối nhưng cũng đành để nó đi rừng ăn gỗ, chỉ vì “ không thì gia đình lấy gì sống!”. “ Đất đai ở đây chỉ toàn cát, lại phơi dưới nắng như  trút  lửa quanh năm như thế (Ninh Thuận là vùng đất khô hạn gay gắt nhất nước, thì Ninh Sơn khô cháy nhất Ninh Thuận), lại không có thuỷ lợi…, hỏi làm sao có thể bám nông nghiệp mà sống!”.  Tôi nhớ lại hai ngày qua, mình đã qua lại những cánh đồng bao la nhưng “trắng” công trình thuỷ lợi ấy. Sự khắc nghiệt không chỉ hiện hiện ở ngoài đồng, ngay tại nơi họ cất nhà, tất cả chỉ là cát, từ đường làng đến ngõ xóm, sân nhà; thứ gì nhìn cũng thấy gầy gò, tiều tuỵ, và nếu có thứ cây xanh gì đó ôm lấy những căn nhà ba gian hai chái cổ điển nhỏ bé, hay nhà xây cấp bốn mới cất thì đấy là cây me chua, và… xương rồng. Bà Lê bày tỏ là gia đình cũng có một ít đất canh tác có thể trồng cây mì, cây mía, nhưng nắng cháy nuốt  tiêu liên tục mấy mùa nên đành bỏ hoang luôn cho đỡ … lỗ vốn. Một số người làng chỉ ra rằng nếu nóc nhà nào đó ở đây có cuộc sống thoả mái hơn một chút, thì đó là gia đình có người ở nước ngoài, hoặc có con gái đi lấy Việt kiều, Việt cớm. Một dạo vì  khổ dắt dây, gái nào lớn lên cũng ngóng Việt kiều về rước_ tóm cho được anh Việt kiều. Gái đẹp thì có cơ hội, gái xấu thì đọng lại. Gái có chí học hành thì… tìm cách thoát khác, ở các Thành phố lớn trong Nam... Bà Lê không oán trách tiền nhân, vì  phận lương dân, từ Quảng Trị họ di cư hàng loạt vào từ năm 1972 – 1973 để tránh đạn pháo quá khốc liệt ở cái mùa hè đỏ lửa của chiến chinh trên đất nước đau thương, chọn cái chốn đất đai bạc màu, thừa nắng thiếu nước, sự sống khốc liệt… này. Biết xứ này khắc nghiệt  cũng chỉ an ủi nhau mà ở,  thì cũng tìm cách mà tồn tại, chứ sao giờ. Khổ cực cũng quen, mà khắc nghiệt rồi cũng quen thôi.  Rằng, trong hành trình di dân suốt dọc dài  lịch sử, đâu phải người dân Việt  nào cũng chọn được những vùng đất tốt tươi. Mà ai cũng ở vùng đất trù phú, thì ai sống sinh trên những dải đất cằn khô, bất lợi, khốn khổ, dù về mặt lý thuyết thì tất đất nào của tổ quốc cũng thiêng liêng.

 

***

 

Hàng ngày, nhìn thấy chiếc cộ bò chở đầy gỗ lặn lội suốt đêm từ  rừng về vừa tấp vào sân những căn nhà mọc trên cát. Có hôm, tôi đánh  bạo xông vào ngay những căn nhà ấy để “đối thoại” trực diện. Thế là bắt đầu với một lâm tặc trẻ tuổi:  … anh  có biết phá rừng là phạm pháp không ?. Lâm tặc tên Tịnh, vốn là bộ đội xuất ngũ, có một vợ hai con này  hỏi ngược lại tôi: “ … Nếu vợ con anh cần ăn, rẫy đồng không tạo ra được cây trái, của cải để bán kiếm tiền, anh phải làm gì để duy trì sự sống cho họ, nếu anh ở đây!?”. Anh rằng, “đụng” tới rừng là đang huỷ hoại sinh thái, là phạm pháp, lại chẳng thể thấy hạnh phúc bao giờ ở  nghề “ăn cắp”, luôn phải chui nhủi, bị rượt đuổi này, nhưng anh không có sự lựa chọn khác.

 

Anh Tịnh thú nhận là từ gạo đổ nồi, mắm muối, sữa cho con vừa chào đời, tiền cho đứa lớn  hơn đi học mẫu giáo, đến cái quần lót cho vợ cũng đều do …rừng Lâm Đồng ban cho. “ Ngay cả khối tiền nợ ngân hàng cho căn nhà cấp bốn mới cất, con bò kéo vừa mua để đi cày cũng... nhắm vào rừng kia để tìm cơ hội trả”. Anh  bày tỏ là  anh  rất “sợ” lực lượng bảo vệ lâm luật, họ tịch thu miếng ăn(gỗ) anh nhiều lần, nhưng anh không hề căm hờn bao giờ.  “ Họ cứ  làm nghĩa vụ của họ, là tìm bắt chúng tôi, còn chúng tôi vẫn phải tìm cách để sống, kiếm cái bỏ bụng….! Nếu tôi là họ tôi vẫn quyết liệt đi bắt bọn phá rừng!”. Tôi hỏi, vậy anh sẽ phá rừng đến bao giờ thì dừng lại? “Tôi cũng chẳng biết nữa !”, anh tỉnh rụi.  Tới đây, tôi chợt nhớ lại lời của một ông kiểm lâm trên Lâm Đồng nói về khoảnh khắc rung động trước tình đồng loại, khi những con người tả tơi đó _ dân  kiếm sống  bằng nghề  rừng ai mà chả tả tơi_quì  lạy dưới chân, hạ mình tuôn trào nước mắt  giữa rừng để xin lại con bị. Tất nhiên con bò là tài sản lớn nhất của cư dân ở đây. Mỗi khi bị bắt, lâm tặc ngửa mặt kêu trời, và bảo kiểm lâm gỗ các ông cứ thu, nhưng cho lại con bò. Mất con bò là mất cái cần câu cuối cung. Chặt hết những cần câu này là … xóa sạch lâm tặc miền Quảng Sơn. “ Có người nào giàu có mà bán sức, lặn lội rừng sâu để tìm kiếm, cưa đẽo  từng khúc gỗ lẻ đâu !”, người kiểm lâm ấy khẳng định. Tiếp xúc với nhiều  lâm tặc khác nữa, đều những lý lẽ tương tự. Tịnh nói với tôi, sự khốn nạn là những người “ ăn của rừng rưng rưng nước mắt” như  anh lại phải mang ơn những tay đầu nậu gỗ, vì chúng “ giúp” tiêu thụ gỗ bất cứ giờ khắc nào. Sự “mang ơn” đầu nậu gỗ, các xưởng cưa ngay trong cái  vùng đất không có một mảnh rừng ấy, rộng rãi mức lâm tặc có thể ứng tiền trước đi rừng, về có gỗ trả sau. Trò mèo nắm đàng cán của dân lái buôn muôn đời đã chỉ ra thực chất của quan hệ ân – nghĩa đó luôn bất cân xứng,  với phần lợi nghiên về kẻ có tiền chứ không phải kẻ bán sức, hay nói khác thực chất là làm giàu cho chúng. Lân la tìm hiểu thì đúng là chả có kẻ đầu nậu gỗ nào ở vùng này nghèo cả. Những cái nhà lầu to nhất, con cái có cơ hội học hành xa nhất, sắm được vật dụng xa hoa nhất… đều là dân buôn gỗ…

                                                

 

Gỗ cưa hạ được từ lên núi Lâm Đồng về để rước nhà ở đồng bằng. Ành Nguyễn Hàng Tình

 

TIẾNG VỌNG  TỚI…

 

Nhưng ít năm sau, lâm tặc Quảng Sơn vừa nuôi bò, và vừa sắm xe máy Tàu để ... chở gỗ lậu. Tùy theo lâm phận mà dùng phương tiện gì “tác chiến”, đối phó được với các cơ quan chức trách.  Sự đối phó lẫn nhau cứ đong đưa mãi. Chả đâu như vùng Quảng Sơn này, từng có lần lâm tặc đã tàn phá rừng lại hung hãn, lại hùn nhau ra tay chống người thi hành công vụ quyết liệt.  Hai bên “đánh” nhau như chiến trận. Người trong Cơ quan chức trách bắn đạn thật, trúng. Lâm tặc ấy chết. Thế là cả làng khiên xác anh ta đi lại trên đường, lên trụ sở Chính quyền, không chịu chôn… Mười năm qua lại vùng này, tôi chụp không biết bao nhiêu là ảnh người dân ở đây chở gỗ qua lại trụ sở UBND huyện, xã. Ảnh chụp ban đêm nhiều, mà ban ngày cũng không thiếu. Sự cùng quẫn của con người là nỗi khổ của chính họ, và đè luôn lên Chính quyền, những người phục vụ, cai trị, hoặc dẫn dắt họ.

 

 

***

 

Sẽ có tội với mai sau nếu như thấy người ta tàn phá rừng mà không lên tiếng phản đối. Nhưng cũng sẽ có tội với đồng loại phải lâm cảnh hành nghề phá rừng nếu không biết được vì sao họ phải sa lầy vào con đường đó, buộc phải đánh cược, bán lẻ sinh mạng từng ngày cho rừng sâu núi thẳm, đối mặt với luật pháp, tù tội. Những cuộc rượt đuổi, truy quét, bắt bớ những đồng loại mà ta gọi là “ lâm tặc” sẽ chỉ là nỗ lực đối phó ở “ phần ngọn”, trong khi  cái gốc để giữ  rừng lại nằm ở điều kiện sinh sống, là khát khao làm ăn  tử tế của bất cứ người dân quê nào. Sức lực có thể đổ xối xả trên rừng như thế, làm sao họ không thể làm cho cây lá xanh tươi, trái hạt phun trào trên đồng rẫy chứ. Lang thang trên những đồng rẫy khô cháy không khốc bên ngoài các làng thôn ở Quảng Sơn tôi nhận ra rằng, hình như  thứ  giải thoát đầu tiên cảnh “ăn rừng” ngập ngụi, dai dẳng ở đây chỉ có thể là Nước, nguồn nước cho cây trồng, căn cơ hơn là về một nền nông nghiệp biết biệt đãi cho những vùng nông thôn kém may mắn. Cả xứ này khát nước, cái khát và sự  chờ đợi đã tính bằng từng thập niên trôi đi, bằng thế hệ đời người.

 

Có một buổi chiều, tạt vào trụ sở  chính quyền huyện Ninh Sơn mà trà dư tửu hậu về những công dân “chuyên” vi phạm pháp luật kia của họ. Những tưởng họ sẽ phủ nhận “nghề lâm tặc” của “thần dân”, nhưng không, vị Phó Chủ  tịch UBND huyện có vẻ  khá chân thật với  dân trần tình: “ …

 

Hàng ngày nhìn thấy cảnh  bà con chở gỗ lậu  từ  rừng về đi lại công khai trên quốc lộ 27 mà xót cho rừng. Vì rừng Lâm Đồng chính là đầu nguồn của tỉnh Ninh Thuận, đầu nguồn của sông Dinh, của cánh đồng Phan Rang… Đôi lúc chúng tôi  xấu hổ và bức xúc trước trách nhiệm của chính quyền trong công tác ngăn chặn phá rừng...”. Đã không che dấu sự thật,  Bà Phó Chủ tịch Dương Thị Dung còn vạch rõ thêm: “  Có khi cây thấy gỗ mới chỉ như bắp vế, nghĩa là cây non, cũng bị cưa hạ.  Gỗ rừng già ngày càng hiếm. Xót!”.  Theo bà Dung, Chính quyền huyện cũng nhiều lần  tổ chức truy quét, đánh dẹp nhiều lắm. Nhưng sau mỗi đợt lắng xuống thì làn sóng tràn vào rừng mới lại âm ỉ, dâng trào. . Đói thì đầu  gối phải bò. Bà thẳng thắn: “ Thú thực  chúng tôi không dám khẳng định được có thể  chặn đứng được nạn săn gỗ, thâm nhập rừng phi pháp nói trên  ngay một sớm một chiều. Nếu tôi nói chặn đứng được, tức là hô khẩu hiệu, nói dối và duy ý chí, không dám đối mặt trước thực trạng đầy thách thức trước đời sống dân sinh. Nếu nói chặn đứng được, sao bao năm hiện trạng ấy vẫn còn !?”.

 

Như chờ sự thấu hiểu của một kẻ cầm bút đang ngồi đối diện,  bà từ từ  trần tình: “ Ở địa phương cho đến bây giờ  vẫn  không có hoạt động công nghiệp, cũng chẳng có những nghề thủ công truyền thống nào đáng kể, ngoại trừ  sản xuất nông nghiệp với cây con giá trị thấp, mà  hệ thống thuỷ lợi còn quá bé nhỏ, khô hạn trong năm bao giờ cũng cứ khốc liệt kéo dài.”. Thực thi pháp luật là bổn phận của bộ máy Chính quyền bà, và là lý do của cái ghế bà đang ngồi. Đọc được suy nghĩ tôi, bà tiếp: “Nhưng nói gì thì nói, chính quyền vẫn cố mà ngăn chặn phá rừng…. Phải tăng cường truy quét nạn khai thác, buôn bán gỗ hơn nữa.  Cho dù “thương dân” nhưng vẫn không thể chấp nhận để họ kiếm sống bằng cách phạm pháp…”. Bà lặp đi lặp lại rằng Chính quyền huyện Ninh Sơn đang cố  tìm cách để nông dân Quảng Sơn gắn bó với nông nghiệp, thôi nghĩ đến…rừng. Chúng tôi sẽ phát triển thủy lợi, tha thiết kêu gọi Trung ương đầu tư để có nước … cho đồng ruộng ngoài kia”. Đất xấu thế, nắng nóng thế, thì nước cũng chỉ khắc phục được một phần của việc canh nông.

 

Nhìn hết tài nguyên đất đai, thiên thời -địa lợi-nhân hòa ở đây, người bình thường cũng  thấy mọi thứ đều ngược lại, nên biết được ngay là chính quyền và thần dân của họ sẽ còn ở thế rượt đuổi nhau mãi_ Lâu đấy !”. Cứ như Chúa đã chọn dân Quảng Trị lưu cư này để rèn ý chí làm người, và trước hết để… hành. Bởi, kỹ cương pháp luật phải giữ,  nhưng quyền tồn sinh của con người khi có mặt trên mặt đất l bất biến.

      

 

***

 

Khi rời khỏi những cái làng “ăn rừng” xứ Quảng Sơn, tôi ngoái nhìn lại, vẫn thấy đấy những chiếc cộ bò lầm lũi tiến về dãy núi mờ xa trên cao nguyên típ tắp, với những ánh mắt người thèm thuồng gỗ lậu như sự lựa chọn cuối cùng, chan hồ trong sự dửng dưng với cánh đồng quê họ đang lướt qua. /.

Nguyễn Hàng Tình
Số lần đọc: 2509
Ngày đăng: 28.07.2012
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Một vài kỷ niệm sống động - Nguyễn Đăng Trúc
Sơn La Ký Sự 5 - Nguyễn Khôi
Sơn La Ký Sự 4 - Nguyễn Khôi
Dốc Mơ - Phạm Văn Nhàn
Nghe Kinh - Phạm Thanh Chương
Cơm Mo Cau Giữa Lòng Thành Phố - Lê Ký Thương
Sơn La Ký Sự 3 - Nguyễn Khôi
Nhân cách lớn làm nên một con người - Trần Ngọc Trác
Cha Tôi - Ngô Nhật Đăng
Ký (vô tích) sự vòng Bờ Hồ - Nam Dao
Cùng một tác giả