Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.165
123.223.555
 
Huyền sử 7
Nguyễn Văn Thành

 

Chương Mười

 

HẠNH PHÚC và  KHỔ ĐAU

Trong lòng Cuộc đời

 

Ước mơ hạnh phúc có mặt trong tâm hồn của tất cả chúng ta, dù mỗi người có một lối nhìn riêng biệt và độc đáo về bản sắc của hạnh phúc và con đường thực hiện. Trong lòng cuộc đời này, khổ đau cũng có mặt khắp muôn nơi, trong mọi hang cùng ngõ hẻm của nhân loại.

 

Theo giáo lý của đạo Phật, “phiền não tạo bồ đề”. Cây giải thoát chỉ nảy mầm đâm mộng trong lòng đất khổ đau. Hoa sen nở ra, cống hiến hương sắc cho đời, sau khi đã vươn mình lên, vượt khỏi lớp bùn lầy nước đọng. Tin Mừng của Đức Kitô cũng kêu mời chúng ta ngày ngày thực hiện cuộc “VƯỢT QUA” ấy. Phục sinh phải chăng là hoa trái ngọt ngào, chỉ xuất hiện ở cuối chặng đường khốn khổ và gian truân ? Con đường nầy là một tất yếu (từ Hi Lạp là ananké) thuộc thân phận và điều kiện làm người.

 

Trong khoảng mười năm gần đây, với những khám phá mới mẻ về vai trò và tầm quan trọng của xúc cảm trong đời sống con người, tâm lý học đương đại cũng đang nhấn mạnh và làm nổi bật mối liên hệ mật thiết giữa hạnh phúc và khổ đau. Nói cách khác, khổ đau không thể không có mặt trong lòng cuộc đời. Trong những cuốn sách đã được phát hành, tôi thường dùng lối nói ví von, rằng khổ đau là “rác”, là “phế liệu”, do con người làm ra. Chỗ nào có con người chung sống, hợp tác, đồng hành và chia sẻ, trong bất cứ điạ hạt nào, chỗ ấy thế nào cũng có “rác” dần dần xuất hiện, dưới nhiều hình thức khác nhau. Rác ấy sẽ biến thành khổ đau, nếu nó tạo nên tình trạng xung đột, kỳ thị, hận thù, chiến tranh giữa người với người.  Trái lại, chừng nào con người có khả năng “chuyển luân” hay là “hóa giải” rác thành vật tư và phương tiện phục vụ con người, lúc ấy HẠNH PHÚC thuộc tầm tay thực hiện của con người. Thuộc chủ quyền của chúng ta.

Nhằm quảng khai những tư tưởng nói trên, bài chia sẻ này sẽ lần lượt trình bày hai phần sau đây:

 

Trong phần đầu, tôi sẽ liệt kê một vài dấu hiệu cụ thể và khách quan nhằm phát hiện tình trạng khổ đau, đang có mặt trong chúng ta và giữa chúng ta.

 

Trong phần hai, tôi sẽ khẳng quyết thêm rằng : hạnh phúc toàn mãn và trọn vẹn không bao giờ hiện hữu trên đời này. Trái lại, đó là một tiến trình liên lỉ do tôi chọn lưạ và quyết định. “Có công mài sắt ắt ngày nên kim”. Nói khác đi, hạnh phúc là mùa màng, do chính tôi gieo vãi và gặt hái, bằng cách chấp nhận những nhu cầu của chính mình và tôn trọng nhu cầu làm người của mỗi anh chị em đang sống chung quanh chúng ta.

 

Trong lời kết luận, tôi sẽ nhấn mạnh rằng :  hạnh phúc vừa là quyền lợi của mọi ngưòi sinh ra trong Trời Đất nầy. Đồng thời, đó cũng là trách nhiệm làm người của chúng ta tất cả, đối với từng anh chị em, trong lòng xã hội, quê hương và nhân loại. Hẳn thực, bao lâu còn có một người đang bị áp bức bóc lột, tôi có trách nhiệm giải thoát người anh em ấy, bằng bàn tay và tất cả tấm lòng của tôi. Bao lâu còn có một người đi ăn xin, nằm lê lết qua đêm trên hè phố, trách nhiệm làm người của tôi là làm một điều gì cụ thể thuộc tầm tay của mình, để chia sẻ niềm " ưu tư và ước vọng " của người ấy.

 

Trên con đường tìm kiếm và thực hiện hạnh phúc, với tư cách làm người, chúng ta không thể tiến bước lẻ loi, một mình. Chúng ta đồng hành và chia sẻ. Chúng ta liên đới, đồng trách nhiệm. Tôi chỉ có thể gặt hái mùa màng hạnh phúc, chừng nào tôi biết gieo vãi hạt giống hạnh phúc trong vườn lòng của mỗi người anh chị em, hai bên cạnh tôi.

 

1. Làm sao phát hiện những dấu hiệu khổ đau nơi chính mình và nơi kẻ khác ?

Sơ đồ sau đây trình bày bốn thành tố với bốn phần vụ khác nhau của nội tâm:

 

Thắnh tố thứ nhất: Cửa Vào

Phần vụ: Tiếp thu và ghi nhận thực tại bằng con đường năm giác quan

 

Thành tố thứ hai: Thuyên Giải

Phần vụ: Tổng hợp tin tức và khám phá ý nghĩa bằng con đường Tư duy và Suy luận

 

Thành tố thứ ba: Xúc động và Tình cảm

Phẩn vụ: Trình bày nhu cầu và yêu cầu bằng con đường Xúc động và Tình cảm, như buồn , lo, sợ, giận..

 

Thành tố thứ bốn:  Cửa Ra

Phận vụ: Tạo quan hệ tiếp cúc và trao đổi với những người có mặt trong môi trường, qua con đường ngôn ngữ và tác phong.

 

Khi khổ đau xâm chiếm và tràn ngập tâm hồn, bốn loại triệu chứng khách quan sẽ từ từ xuất hiện, trong bốn lãnh vực của nội tâm.

 

Loại một nằm ở cửa vào

Thay vì ghi nhận thực tại một cách khách quan cụ thể, nghĩa là có sao nói vậy, cố gắng phản ảnh thực tại bên ngoài, một cách trung thực toàn diện, chúng ta thường có khuynh hướng xuyên tạc bóp méo sự kiện, bằng ba cách sau đây:

 

(a) vơ đũa cả nắm, nghĩa là biến hoá một sự kiện cụ thể thành một qui luật tổng quát và thường hằng;

 

(b) gạn lọc, nghĩa là chỉ ghi nhận những sự kiện thuận lợi và thích hợp cho hệ thống tin tưởng của chúng ta. Khi đã ghét ai, chúng ta chỉ thấy nơi người ấy những khía cạnh tiêu cực và bỏ quên những đặc điểm tích cực năng động;

 

(c) chủ quan hoá hay là xuyên tạc, nghĩa là chỉ lưu tâm nhấn mạnh đến ý kiến riêng tư của bản thân mình mà không tôn trọng lối nhìn của những người khác, nhất là những ai không cùng chia sẻ quan điểm và lập trường của chúng ta.

 

Loại hai nằm trong điạ hạt thuyên giải

 

Thay vì trình bày ý kiến và ý nghĩa của mình, cũng như tôn trọng, lắng nghe quan điểm của kẻ khác, chúng ta thường có xu thế phân biệt hai phe đối lập với nhau:

tao tốt – mày xấu

tao có lý – mày vô lý

tao đúng – mày sai

tao có ý ngay lành – mày có ý đồ gian ác, lưu manh

 

Lối suy nghĩ nhị nguyên ấy, với bao nhiêu lời tố cáo, phê phán, đổ lỗi, chụp mũ, gắn nhãn hiệu... là triệu chứng khách quan bên ngoài của một tâm hồn đang bị khổ đau bủa vây và làm tê liệt một cách trầm trọng, những sinh hoạt và quan hệ hằng ngày.

Loại ba nằm trong điạ hạt xúc động và tình cảm

 

Một cách đặc biệt và rõ ràng, trong điạ hạt xúc động và tình cảm, khi nào ai đau khổ thì người ấy sẽ bị bế tắc,  phong toả hay là tràn ngập, đắm đuối. Họ mất khả năng làm chủ bản thân và cuộc đời. Họ cảm thấy mình là nạn nhân của bao nhiêu người khác, trong đời sống gia đình và xã hội. Theo ngôn ngữ của Daniel Goleman, tình trạng nầy của nội tâm được so sánh như một cuộc đảo chánh, trong đó chính phủ bị lật đổ, nghĩa là lý trí không hoạt động một cách sáng suốt.[1] Bao nhiêu quyết định và chọn lựa đều mang sắc thái của dục vọng mù quáng, bốc đồng và hỗn độn.

 

Sống trong những tình huống như thế, con người – phàm là ai, cho dù ở điạ vị hoặc chức vụ nào, có trình độ học thức cao hay thấp… –  sẽ dần dần đánh mất ý thức về bản sắc hoặc căn cước đích thực cuả mình.  Họ không còn nhận biết mình là ai, có những nhu cầu cơ bản như thế nào. Cũng vậy, họ không nhận biết người anh chị em mình là ai, có những nhu cầu cơ bản như thế nào…  Rốt cuộc, chúng ta là ai trong lòng quê hương, đất nước ? Chỉ là nồi da nấu thịt ! Hay là gà một nhà bôi mặt đá nhau, từ đời này sang đời khác.

 

Loại thứ bốn nằm trong lãnh vực quan hệ tiếp xúc và trao đổi

 

Trong một đất nước hoặc xã hội hạnh phúc, không có kẻ thắng người thua. Không có chủ nhân và nô lệ. Không có phân biệt bạn và thù, trắng đen rõ rệt. Theo truyền thống văn hoá của Lạc Long Quân và Âu Cơ, chúng ta tất cả là anh chị em đồng bào, mang dòng máu Rồng Tiên trong huyết quản. Trái lại, khi quả tim chúng ta là sào huyệt của khổ đau, đam mê và dục vọng, chính chúng ta làm nên những con sông Gianh, Bến Hải, những hàng rào kẽm gai giữa người với người.

 

Nhiều khi chính chúng ta đã đào hầm chôn sống những người anh chị em cuả chúng ta, cơ hồ Trần Thủ Độ – vị công thần khai nguyên nhà Trần – đã làm cách đây hơn bảy thế kỷ, đối với tôn thất nhà Lý. Cũng vậy, để thiết lập triều đại Hồ Quý Ly đã truất phế đứa con rể của mình là vua Trần Huệ Tông, nhốt ngài vào một ngôi chùa heo hút, xa cách thủ đô Thăng Long. Thế vẫn còn chưa đủ. Ông còn sai bộ hạ đem dây đến thắt cổ vị vua cuối cùng của nhà Trần. Sở dĩ như vậy, là vì ông chủ trương “nhổ cỏ phải nhổ tận gốc”.

 

Lịch sử Việt Nam cho chúng ta thấy rõ : từ cổ chí kim, phần lớn những triều đại hay chính thể luôn luôn khởi đầu bằng những cuộc thanh trừng đổ máu. Và cuối mỗi triều đại, thường có những người sẵn sàng bán đứng quê hương, sụp lạy trước ngoại bang, để xin xỏ, cầu viện hay là “rước voi chà mả tổ”.

 

2. Làm sao xây dựng hạnh phúc cho bản thân và cuộc đời ?

 

Để hiểu rõ thế nào là hạnh phúc, chúng ta hãy lắng nghe câu chuyện dưới đây của C. Steiner:[2]

Ngày xửa ngày xưa, vào thời nguyên thủy, con người khắp nơi trên mặt đất đã sống với nhau những chuỗi ngày rất hạnh phúc và hòa bình. Chúng ta hãy đến thăm viếng họ và tìm cách học hỏi nơi họ đâu là bí quyết của một đời sống hạnh phúc. Thủa ấy, mỗi người vừa sinh ra đã có hai chiếc bị nằm sẵn ở trước ngực và sau lưng của mình. Với chiếc bị nằm sau lưng, tôi nhận lãnh tất cả mọi quà tặng do cha mẹ, họ hàng bà con xa gần mang đến. Nào là lương thực, trò chơi, kiến thức, áo quần, vật tư xây nhà cửa và dụng cụ sản xuất, lao động. Mỗi lần có người cần một vật dụng, tức khắc có một người khác sẵn sàng xuất hiện và biếu tặng món quà cần thiết cho người ấy.

 

Cũng vào thời kỳ vàng son này, khi tôi nhận thấy có người đang cần một món đồ, bất kỳ thuộc điạ hạt nào, tôi chỉ cần đưa tay vào chiếc bị ở đằng trước ngực, tức thì tôi kiếm ra được món đồ mà người kia đang cần cho bản thân và cuộc sống của mình. Ngày ngày lớn lên, tôi thấy mọi người đều làm như vậy. Và tôi đã học sống quảng đại, giống như mọi người. Cuộc sống thủa ấy thật là phong phú, sung mãn cho mọi người và cho từng người, không trừ sót một ai.

 

Thế rồi, một hôm, bỗng xuất hiện một bà phù thủy. Không ai biết bà đến từ hành tinh nào. Ngày ngày, bà cứ đi rỉ tai từng người, già trẻ lớn bé: “Con hãy khôn ngoan, lựa người mà cho. Hãy giữ lại cho mình một đôi điều cần thiết. Thời buổi khó khăn sẽ uà đến. Lúc bấy giờ con sẽ thiếu thốn mọi sự”.

 

Cũng từ đấy, con người bắt đầu lo sợ. Nhiều lần, khi thấy bạn bè bà con thiếu một vật dụng, theo thói quen, họ đưa tay vào chiếc bị ở đằng trước. Nhưng nhớ lại lời khuyên của bà phù thủy, người ấy lập tức rút tay ra, không còn muốn cho đi một cách dễ dàng, đơn sơ như trước đây.

 

Vì thái độ dè sẻn và tự vệ của mỗi người, cuộc sống làm người đã thay đổi bộ mặt. Từ bấy giờ, ai ai cũng trở nên nghi kị, lo sợ. Và cuộc sống càng ngày càng trở nên thiếu thốn, bất hạnh.

 

Nhận thấy tình hình càng ngày càng thoái hóa, một cách tai hại và trở thành bế tắc, các bô lão đã có sáng kiến họp nhau lại, khảo sát một cách tỉ mỉ nguyên nhân của vấn đề. Họ khám phá rằng đầu dây mối nhợ là sự có mặt của bà phù thủy, và họ đã cầm gậy gộc xua đuổi bà ra khỏi xóm làng.

 

Oái oăm làm sao, bà phù thủy bằng xương bằng thịt đã đi xa rồi. Nhưng lời rỉ tai của bà vẫn còn lẩn vẩn đâu đó, trong tư duy và quả tim của mỗi người. Bà phù thủy vẫn còn nằm vùng, trong mỗi chúng ta và ở giữa chúng ta.

 

Nếu mỗi ngày, mỗi người không quyết định thay đổi niềm lo sợ của mình thành thương yêu, tha thứ và tin tưởng nhau, chúng ta sẽ suốt đời làm nạn nhân tự nguyện của bà phù thủy, đang tìm mọi cách để làm ô nhiễm mối quan hệ giữa người với người. Tên tuổi của bà phù thủy ấy là thiên kiến, hận thù, chia rẽ, bạo động và chiến tranh. Nói tắt một lời, đó là tư duy nhị nguyên phát sinh ra mọi khổ đau cho con người trong lòng cuộc đời và trên từng mảnh đất của quê hương.

 

Sào huyệt hay là chiến khu của bà phù thủy là nội tâm, nhất là đời sống xúc động và tình cảm.

 

***

Để hoá giải bao nhiêu vấn đề chung quanh đời sống xúc động và tình cảm, nghĩa là:

 

- ngày ngày biến Không thành Có,

- chuyển luân Rác nuôi sống những cánh đồng,

- giữa Sa mạc làm tuôn chảy dòng sông,

- trong Chết chóc vun trồng hạt mầm Sống,

- gieo Thứ tha và xây đắp Đường Hy Vọng…

 

Chúng ta có thể sử dụng kỹ thuật tâm lý với bốn bước đi lên như sau: [3]

 

1-Xác định môi trường chung quanh, hay là nhận diện hoàn cảnh hiện hữu. Để làm công việc này, chúng ta cần sử dụng những lối phát biểu càng khách quan chừng nào, càng hay bấy nhiêu: “Tôi thấy ….”, “Tôi nghe …”. Ví dụ: “Tôi nghe bạn phàn nàn và phê phán thái độ của tôi …”

 

2- Đặt tên, hay gọi tên xúc động vừa đang chớm nở và xuất hiện trong nội tâm. Bốn xúc động đầu đàn là Lo, Sợ, Buồn và Giận. Lối phát biểu cần sử dụng trong giai đoạn này là: “Tôi cảm  …”.

 

3- Khám phá, phát hiện nhu cầu cơ bản cuả mình đang có mặt hay là ẩn nấp, nguỵ trang ở bên dưới mỗi xúc động.

 

4- Sở dĩ tôi buồn, là vì tôi đang cần được nâng đỡ, uỷ lạo.

 

5- Tôi sợ, là vì tôi cần được an toàn.

 

6- Tôi lo, là vì tôi cần có phương tiện cụ thể, hữu hiệu để đối phó với những biến cố bất trắc, bất ngờ.

 

7- Tôi giận, là vì tôi cần được tôn trọng. Những giá trị và xác tín của tôi cần được người khác nhìn nhận.

 

8- Nêu rõ lời yêu cầu tích cực, cụ thể, nói lên nguyện vọng chính đáng cuả mình. Thay vì đòi hỏi, cưỡng bức, áp đặt từ bên ngoài, hay là lạm dụng vị trí quyền lực của mình, chúng ta chỉ thỉnh cầu, nghĩa là XIN với một thái độ hài hoà, đồng hành, chia sẻ. Mỗi lần xin, chúng ta biết rằng: kẻ khác có quyền từ chối, tùy vào thực tế và thực tại hiện hữu của họ.

 

Khi có nhiệm vụ nâng đỡ ai, giúp họ hóa giải xúc động và tình cảm của mình, chúng ta cùng với họ kinh qua bốn giai đoạn vừa được trình bày. Từ từ đi tới từng bước một, trong tinh thần cởi mở và trung thực. Thêm vào đó, mỗi lần nói về MÌNH, chúng ta hãy tự xưng là TÔI. Không dùng sứ điệp ngôi thứ nhất, chúng ta sẽ có xu thế phê phán, tố cáo, đổ lỗi cho người khác đang đối diện chúng ta.

 

điều kiện diễn tả nầy, cơ hồ một dòng sông lưu nhuận, luân chuyển từ cội nguồn đi ra biển cả… đời sống tình cảm và xúc động sẽ được thoáng thoát, chuyển biến một cách hài hòa tự nhiên, không còn bị ứ đọng, ối đọng và ô nhiễm.

 

Trong một cộng đồng, khi mỗi thành viên biết diễn tả rõ ràng nhu cầu của bản thân mình, và đồng thời tôn trọng nhu cầu làm người của mọi thành viên khác,  cộng đồng ấy đang dấn bước trên con đường yêu thương và hạnh phúc, hiểu biết và tha thứ. Thiếu lòng thứ tha, bất cứ cộng đồng nào – tôn giáo, đất nước, xã hội, gia đình… – sẽ không đứng vững, sẽ không có ngày mai. Thứ tha phải bắt đầu bằng lối nhìn của mỗi người về giá trị tự tại của người anh chị em hai bên cạnh. Dù họ có những hành vi sai trái đến độ nào chăng nữa, dù khuyết điểm đang tràn lan trong tác phong của họ, họ vẫn đáng yêu và cần tôi yêu thương, để ngày ngày biết vươn lên làm người. Tôi là Đức Phật đại trí và đại bi, mang đến cho người ấy con đường giải thoát làm bằng Hiểu Biết và Tình Thương. Tôi cũng là Đức Kitô đang đồng hành với người ấy, để họ có thể SỐNG LẠI, trở thành bất tử và bất diệt.

 

***

Hạnh phúc không phải là quả sung từ trên trời cao đột nhiên rơi vào miệng của tôi. Hạnh phúc chẳng bao giờ là tận điểm, có sẵn đó rồi, hoàn toàn, viên mãn. Bao lâu còn mang thân phận và điều kiện làm người, chúng ta còn phải tạo dựng hạnh phúc cho mình và cho người khác. Hạnh phúc là một tiến trình liên tục, do tôi làm nên, với hai bàn tay, nước mắt và xương máu cụ thể, trong mỗi phút giây của cuộc đời. Hẳn thực, khi tôi làm cho kẻ khác hạnh phúc, chính tôi đang gặt hái mùa màng hạnh phúc, cho bản thân và  cuộc đời.

 

Khi phân tích những quan hệ tiếp xúc và trao đổi giữa hai người, nhà tâm lý E. Berne đã khám phá sự hiện hữu của ba bộ mặt, trong mỗi con người chúng ta :[4]

 

Bộ mặt thứ nhất là NGƯỜI CHA MẸ, có phần vụ hướng dẫn và soi sáng, nâng đỡ và ủy lạo những ai cùng chung sống trong môi trường.

 

Bộ mặt thứ hai là NGƯỜI TRẺ EM, có phần vụ học hỏi thường xuyên và sống hạnh phúc với những người đang cùng có mặt trong xã hội.

 

Bộ mặt thứ ba là NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH, có phần vụ đồng hành và chia sẻ với mọi người anh chị em đồng bào, đồng hương, đồng loại.

 

Bên cạnh ba bộ mặt tích cực và xây dựng ấy, ba bộ mặt TIÊU CỰC khác cũng đồng thời có mặt và đang đe dọa, khống chế con người và quả tim của chúng ta:

Thứ nhất là NGƯỜI CHA MẸ áp chế hay là bao che quá đáng.

Thứ hai là NGƯỜI TRẺ EM phản loạn hay là lệ thuộc, bị động.

Thứ ba là NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH quá duy lý, khô khan lạnh lùng như cái máy vô hồn, vô tâm và vô cảm.

 

Những phân tích và nhận xét của E. Berne trên đây cho chúng ta hiểu rõ, và ngày ngày đánh thức chúng ta : hai con người Ánh Sáng và Bóng Tối đang tranh giành ảnh hưởng trong chính quả tim của mỗi người. Trong tinh thần và chiều hướng ấy, hạnh phúc là CHO. Khi cho bất kỳ một cái gì, chúng ta nhận lại hạnh phúc trong cõi lòng của mình. CHO là một quyết định, một chọn lựa, cần được thực thi từng ngày, từng giờ, trong mỗi quan hệ tiếp xúc và trao đổi.

 

Làm người, chúng ta, tự bản chất, là một sinh vật rất giàu có. Chúng ta có rất nhiều điều để trao tặng cho Anh Chị Em Đồng bào, bắt đầu từ một nụ cười, một liếc nhìn đầy yêu thương, một bàn tay tiếp xúc, hỏi han, xoa dịu, một lời nói nâng đỡ an ủi, khích lệ…

 

“Ánh mắt em là cả một Bầu Trời,

Bàn tay em huyền nhiệm thấu từng mây,

Bước chân em gieo hạnh phúc mỗi ngày,

Quả tim em : Nguồn suối không cạn vơi !

 

Em trọng đại, vì em là tất cả :

 

Là Mẹ, là mảnh đất của Quê Hương,

Một khu vườn ươm lại giống Tình Thương,

Xây non sông làm tươi đẹp khóm phường.

Em là nước tưới Ngày Mai, Tuổi Trẻ,

Đem rừng xanh phủ hết Đất Tang Thương,

Mang Mặt Trời chiếu rạng vùng tăm tối,

Hạt Tình Người gieo vãi khắp mười phương”.

 

***

Để kết thúc, tôi xin chia sẻ một câu chuyện. Hôm ấy,  tôi đã trải qua một giấc mơ êm dịu. Trước mặt tôi, từ trên cao rơi xuống bốn con búp bê hoàn toàn giống nhau, trong mọi chi tiết. Mỗi con đều có mũ đỏ, áo trắng, quần xanh, đôi dép màu vàng mặt trời. Bỗng có một tiếng nói từ trên vọng xuống: “Này con, hãy phân biệt cho bằng được cái gì làm nên nét khác biệt cơ bản, giữa bốn con búp bê ở trước mặt con.”

 

Tôi có sáng kiến đi ra vườn, kiếm một cọng cỏ vừa dài, vừa dai, vừa dẻo. Rồi tôi đút cọng cỏ vào lỗ tai của con búp bê thứ nhất. Tôi nhích, nhích, và nhích… Cọng cỏ thoát ra khỏi lỗ tai phía bên kia.

 

Tôi cũng làm như thế với con búp bê thứ hai. Lần này, cọng cỏ thoát ra khỏi lỗ miệng của nó.

Với con thứ ba, cọng cỏ đi xuống quả tim, bị bế tắc và dừng lại ở đó.

 

Với con sau cùng, tôi nhích lui nhích tới cọng cỏ, một cách rất tế vi và ý nhị. Thế rồi, quả tim nó bắt đầu thổn thức, phập phồng. Tôi tiếp tục nhích thêm. Đôi mắt nó loé sáng, như hai đốm lửa. Tôi vẫn tiếp tục nhích cọng cỏ. Hai tay búp bê bắt đầu cử động. Đôi chân di chuyển về phía trước. Con búp bê đứng dậy, bước tới. Nó Làm Người.

 

Nếu tôi được phép đem cọng cỏ nhích vào tai các bạn, các bạn sẽ đáp ứng thế nào… giống như con búp bê nào đây ?

 

Chương Mười Một

 

Khi nào một cơ cấu tổ chức trở nên bệnh hoạn ?

 

Cơ cấu tổ chức, mà tôi đề cập trong suốt bài chia sẻ nầy, có thể là một gia đình bao gồm cha mẹ và con cái, cũng như bao nhiêu thành viên khác, đang sống chung dưới một mái nhà.  Hay đó là một xí nghiệp với nhiều công nhân viên, từ ban lãnh đạo đến những cán bộ lao động thuộc nhiều tầng lớp tổ chức khác nhau.

 

Nói đến một cơ cấu, chúng ta cũng có thể nêu lên làm ví dụ những trường trung học và đại học hay là những vườn trẻ, lớp mẫu giáo và vỡ lòng... trong đó có ban giám hiệu, toàn thể các giáo viên, những thành viên thuộc bộ phận quản lý và cuối cùng là các sinh viên, học sinh. Dù muốn dù không, họ đang kết dệt những quan hệ qua lại hai chiều với nhau. Tất cả vấn đề then chốt là những quan hệ ấy có tạo ra cho họ điều kiện thuận lợi, trên tiến trình « làm người và thành người » hay không. Trong trường hợp ngược lại, đó chỉ là một môi trường bị đầu độc và ô nhiễm, ngày ngày dẫn khởi những tranh chấp và hận thù, kỳ thị và chiến tranh giữa các thành viên.

 

Một cách đặc biệt, Đất Nước hay là Quê Hương, với bao nhiêu tầng lớp tổ chức và sinh hoạt... cũng là một cơ cấu, có khả năng bao bọc và che chở, cơ hồ cái bào thai trong lòng Mẹ đã nuôi nấng chúng ta, trong những ngày tháng đầu đời. Trường hợp cái bào thai bị nhiễm trùng, đứa con ở bên trong cũng gặp nhiều khó khăn trong vấn đề tăng trưởng.

 

Hiểu được những định luật tâm lý xã hội, có phần vụ tác động và chi phối tình trạng sức khoẻ của bất kỳ một cơ cấu nào, chúng ta sẽ có rất nhiều cơ may trong chiều hướng « tránh những điều cần tránh, thực hiện những gì cần thực hiện, tác động vào chính vị trí cần tác động ».

 

Nói cách khác, chúng ta BIẾT mình đang ở đâu. Khi nào nên tiếp tục đi tới, khi nào phải tức khắc dừng lại. Khi nào hãy can đảm đi lui, vì thấy mình đã lầm đường. Và chính lúc bấy giờ chúng ta phải thực thi những động tác nào, để chọn lựa lại một con đường thích ứng, quang đãng và hữu hiệu hơn trong quá khứ.

 

Nói khác đi, làm con người, với những điều kiện và thân phận hiện tại, ai ai cũng có thể sai lầm. Cái cao cả và trọng đại, trái lại, bắt nguồn từ khả năng chuyển biến cái sai lầm, thành một kinh nghiệm, một bài học khả dĩ thăng tiến bản thân và làm đẹp cuộc đời, của chúng ta cũng như của anh chị em đồng bào.

 

Trong tinh thần và lăng kính ấy, tôi sẽ lần lượt khảo sát hai câu hỏi then chốt :

Thứ nhất, một cơ cấu BỆNH HOẠN bao gồm những dấu hiệu cụ thể và khách quan nào ?

Thứ hai, nhằm lành mạnh hóa một cơ cấu tổ chức, như gia đình hay là Đất Nước, chúng ta cần tôi luyện những kỹ năng hoạt động nào ?

 

1. Phát hiện những cơ cấu bệnh hoạn

 

Để bắt đầu, chúng ta có thể so sánh một cơ cấu với một thân thể của con người. Trong một cơ thể lành mạnh và sinh động, mọi bộ phận như tim, buồng phổi, dạ dày, não bộ... đang thiết lập với nhau, những quan hệ tác động qua lại hai chiều, mặc dù từng bộ phận có một phần vụ độc đáo và riêng biệt. Để có thể sống và phát triển, mỗi bộ phận vừa nhận vừa cho, vừa diễn tả nhu cầu của mình vừa biết từ chối, dừng lại, « tri chỉ », không còn nhận thêm, khi không cần thiết.

 

Mặc dù công việc chính yếu của não bộ là ban phát những mệnh lệnh cho toàn thể tay chân và các cơ phận bên ngoài và bên trong. Tuy nhiên, để có thể lãnh đạo một cách đứng đắn, chính xác và hữu hiệu, nghĩa là thành tựu những kết quả mong muốn, não bộ không thể không lắng nghe, ghi nhận những tin tức hồi tố, do các thành phần ngoại vi gửi về. Mọi cơ phận khác, như tim phổi... cũng làm công việc « lắng nghe, tham khảo và đối thoại » tương tự như vậy, với mọi thành phần khác, trong  con người.

 

Ngoài ra, theo cách bố cục và tổ chức tự nhiên của thân thể, não bộ nằm ở phía trên. Và đôi chân có vị trí ở dưới cùng. Tuy nhiên, nếu bàn chân không thực thi công việc « lãnh đạo », thể theo vai trò, phương thức và trách nhiệm đặc biệt của mình, toàn thể xác thân của con người cũng sẽ bị tê liệt hay là bệnh hoạn.

 

Trong tinh thần và lăng kính vừa được trình bày, trong một cơ thể lành mạnh, năng động, đang diễn tả chiều hướng đi lên, phát triển, tăng trưởng và sáng tạo... mọi bộ phận từ nhỏ chí lớn, từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới, đều lãnh đạo, theo cách thế và địa hạt độc đáo của mình. Không một thành phần nào hoàn toàn năng động một trăm phần trăm. Và cũng không một cơ phận nào hoàn toàn bị động một cách tuyệt đối. Mỗi thành viên đều lãnh đạo, bằng cách « lắng nghe, tham khảo, đối thoại, chia sẻ và đóng góp phần tích cực của mình ».

 

Cũng vậy, trong một đất nước lành mạnh, có chiều đi lên và phát triển mọi mặt, vật chất cũng như tinh thần, giáo dục cũng như đạo đức, cá nhân cũng như tập thể... mọi thành viên đều biết lắng nghe nhau. Đối thoại với nhau. Mỗi người góp chung lại phần năng động của mình. Không ai chỉ ban phát mà không đón nhận. Không ai chỉ nhận và không tìm cách cho lại. Một nụ cười, một bàn tay thân mật, một lời trao đổi hỏi han, một ánh mắt chan hòa tình người... tất cả đều có thể là những món quà cao quí, có khả năng gói ghém trọn vẹn « một tấm lòng », một mối tình đồng bào, một khả năng đồng cảm và đồng hành.

 

Trong một đất nước lành mạnh như vậy, không ai lãnh đạo một cách độc chiều, nghĩa là từ trên rót xuống những mệnh lệnh, những chương trình. Lãnh đạo còn có nghĩa là lắng nghe, trân trọng những lời hồi tố của người dân, chân lấm tay bùn, ngày ngày lên đồng cạn xuống đồng sâu, để kiếm cho được một bát cơm lót lòng... Lãnh đạo, trong lối nhìn và lối nói của Nguyễn Trãi, có nghĩa là « Chăn lạnh choàng vai, đêm chẳng ngủ. Suốt đời ôm mãi nỗi lo dân ».

 

Thêm vào đó, trong một đất nước lành mạnh, ngoài tầng lớp lãnh đạo, còn có những thành viên làm công việc nâng đỡ, ủng hộ, nối dài, cổ động. Họ là những vị Bồ Tát Quan Thế Âm, đang hiến tặng và đóng góp một trăm quả tim, một trăm cánh tay, một trăm đôi chân và nhất là một trăm đôi mắt để người lãnh đạo đất nước thấy được « bao nhiêu tầng lớp nắng mưa », trong lòng cuộc đời của người dân. Nếu không đảm nhận trách vụ ấy, người ủng hộ sẽ lập tức trở thành người vuốt đuôi, nịnh bợ, tâng bốc, làm kệ lót chân cho người có chức quyền. Loại người nầy sẵn sàng hối lộ cho các nhà lãnh đạo, bằng mọi phương tiện. Tuy nhiên, ở bên dưới những tầng lớp vàng bạc, tiền của, quà cáp... chầy kíp sẽ xuất hiện những quả bom nguyên tử làm băng hoại cả một quê hương gấm vóc. 

 

Trong một đất nước lành mạnh, còn có mặt một loại thành phần thứ ba mang tên là Chứng Nhân. Nếu thực thi đúng trách nhiệm, họ sẽ là những tấm gương soi, phản chiếu cho người lãnh đạo, mọi bộ mặt lông lá của họ. Với đôi mắt của chứng nhân, người lãnh đạo thấy được những con nước ngầm ở dưới lòng đất. Với lỗ tai của người chứng nhân, người lãnh đạo nghe được tiếng kêu « vô thanh » của nhiều tầng lớp người dân đang đói, đang khát, đang bị hối lộ và bốc lột, trên từng chén cơm, chén cháo của mình. Trường hợp họ làm những chứng nhân ù lì, « không nói, không nghe, không thấy », họ đương nhiên hóa thân thành một lớp người thinh lặng đồng lõa. Trong giấc ngủ, Thánh Gióng và Thần Kim Qui có lẽ đã hiện về hỏi họ : các con đã làm được những gì với dòng máu Rồng Tiên, trong huyết quản ? Và họ đã trả lời : Chúng con chấp nhận làm người chứng nhân ù lì, « không thấy, không nghe và không nói », để có thể sống cho qua ngày tháng. Nhưng sống như vậy là sống ngất ngư. Sống cũng không ra sống. Chết cũng không chết thực sự.

 

Tầng lớp sau cùng là loại người chống đối. Trách nhiệm của họ không phải là đá đảo, đập phá hay là lật đổ. Nhưng là làm cho người lãnh đạo và mọi người dân thấy được rằng : khi có một vấn đề xảy ra trong lòng quê hương, không bao giờ CHỈ có một cách giải quyết duy nhất. Nếu chúng ta thay đổi cách nhìn và vị trí đứng nhìn, bao nhiêu cách giải quyết mới lạ sẽ từ từ xuất hiện.

 

Nói tóm lại, dựa vào những tiêu cứ sau đây,chúng ta có thể phát hiện chứng bệnh trầm kha của một đất nước. Bất kỳ đất nước nào. Ở đông hay ở tây. Ở nam hay ở bắc.

-    Thứ nhất : đất nước ấy không có một tầng lớp lãnh đạo biết tôn trọng, lắng nghe và tham khảo người dân.

-    Thứ hai : trong đất nước ấy, thành phần ủng hộ chỉ biết dạ dạ, vâng vâng hay là vuốt đuôi, nịnh thần...

-    Thứ ba : thành phần chứng nhân đã biến thân thành một loại người có tai nhưng không nghe, có mắt nhưng không thấy, có miệng nhưng không nói.

-    Sau cùng, trong một đất nước bệnh hoạn, không ai có quyền đối chất. Chỉ có một thiểu số gọi mình là đa số, và tự động khoác cho mình mọi quyền lực về sự thật của quê hương. Bao nhiêu sự thật khác đều bị kiểm duyệt và ức chế. Tôi có xu thế gọi loại quê hương ấy với danh hiệu là « nhị nguyên », chỉ bao gồm hai phe. Một bên bị chụp mũ là « ác ôn côn đồ ». Bên kia tự tôn phong mình làm thành phần « ưu tú và siêu việt ». Nhưng thực ra, cho dù chúng ta là ai, thuộc phe bên nầy hoặc phe bên kia, khi chúng ta mang ý đồ loại thải hoặc tiêu diệt người anh chị em đồng bào của mình, phải chăng một cách vô tình hay hữu ý chúng ta đang phủ nhận dòng máu Lạc Hồng trong chúng ta ?

 

Hẳn thực, trong một đất nước lành mạnh, bốn phần vụ trên đây –  lãnh đạo, ủng hộ, chứng nhân và chống đối – cũng có mặt. Tuy nhiên, không một ai chỉ đóng khung và khép kín mình trong một vai trò và trách nhiệm duy nhất, suốt cuộc đời của mình. Tùy nhu cầu và hoàn cảnh thay đổi của đất nước, khi nầy tôi có thể đảm nhiệm vai trò lãnh đạo. Khi khác tôi ở vị trí đối phương, chứng nhân hay là ủng hộ. Đất nước có thể được so sánh như một dòng sông. Chừng nào có khả năng lưu nhuận, trôi chảy, đất nước ấy đang ở trên một tiến trình phát triển và tiến bộ. Trái lại, khi bị ứ động và khép kín mình, trong những thành trì nghi nan, lo sợ, tự vệ và phản ứng... đất nước ấy đã bị ô nhiễm trầm trọng. Có lẽ hiện thời đất nước ấy đang còn hấp hối trên giường bệnh, đối với một số người. Nhưng trong lòng đại đa số người dân, đất nước ấy đã chết. Khi ra đi, không còn ai để nhớ. Khi trở về, không còn ai để thương.

 

Cũng giống hệt như vậy, trong một cơ cấu gia đình lành mạnh và triển nở, người cha có thể đóng nhiều vai trò trong cùng một lúc, một ngày. Ông soi sáng, hướng dẫn, dạy dỗ con cái. Đồng thời, ông cũng có thể chọn lựa vị trí làm người đồng cảm và đồng hành, có khả năng chia sẻ, trao đổi, đối thoại, đặt mình ngang hàng với con cái. Sau một ngày vắng mặt ở sở làm, khi về nhà, ông có thể bò bốn chân trên sàn nhà, chơi đùa, vui thú và hạnh phúc với đứa con vừa lên hai tuổi.

 

Trái lại, trong một gia đình có vấn đề, nhất là vào một giai đoạn khủng hoảng trầm trọng, người cha chỉ biết đóng kín mình trong vai trò ra lệnh, đập đánh, la nạt, la cà ở quán cà phê. Người mẹ chỉ biết nấu cơm, giặt ủi và quét nhà. Con cái chỉ biết « dựa cột mà nghe ». Đó là một cơ cấu « ba đường song song vạn kiếp » bên ngoài, nhưng đang chưởi bới và xé nát lẫn nhau ở bên trong nội tâm.

 

2. Để phát huy một cơ cấu tổ chức lành mạnh

 

Một cơ cấu tổ chức, như tôi đã trình bày trong phần trên đây, bao gồm nhiều thành tố, ở nhiều vị trí khác nhau, đang thực thi những phần vụ khác nhau. Tuy nhiên, để lập thành một cơ cấu sinh động, các thành tố kết dệt với nhau những quan hệ trao đổi qua lại hai chiều. Thành tố nầy tác động trên thành tố kia. Thành tố kia cũng có khả năng tác động trở lại trên thành tố nầy, bằng cách này hay cách khác. Đặc điểm nổi bật nhất của một cơ cấu đang phát triển là khi các thành tố họp lại với nhau, đó không phải là một tổng cộng. Nhưng là một tổng thể, tổng hợp còn mang tên là một thực thể toàn bích, toàn diện. Nói khác đi, trong cơ cấu ấy, khi một cộng với một, số thành không phải là hai. Nhưng là hai trăm, hai ngàn, hai triệu. Các thành tố sinh thành, nuôi dưỡng và thăng tiến lẫn nhau. Hẳn thực, mẹ sinh ra con. Nhưng đứa con, từ ngày sinh ra, đã có khả năng nuôi lại người mẹ, dưới nhiều thức dạng khác nhau. Con bi bô, làm cho mẹ vui. Con mỉm cười, làm cho cuộc đời của mẹ có một ý nghĩa diệu vợi. Con khóc la, làm cho lòng mẹ bồi hồi, xao xuyến... Con an bình trong giấc ngủ, mẹ là bầu trời tràn đầy trăng sao, đang bao phủ chiếc nôi của con.

 

Trong phần trên đây, tôi đã phác họa một vài đường nét thô thiển có liên hệ đến một cơ cấu sinh động, như gia đình, đất nước. Một cách đặc biệt, tôi tóm lược lại, bằng cách nhấn mạnh những điểm then chốt sau đây :

-    Mỗi cơ cấu bao gồm nhiều thành tố khác biệt nhau,

-    Những thành tố  ấy tác động qua lại và có ảnh hưởng trên nhau. Không một thành tố nào có thể khẳng định rằng : tôi không chịu ảnh hưởng của một ai. Mỗi thành tố vừa chủ động, vừa bị động ... cơ hồ hai nghệ sĩ nam và nữ đang cùng nhau thao tác một vũ khúc khi trầm khi bổng, khi vui khi buồn.

-     Mỗi thành tố thực thi những công việc hay là những phần vụ độc đáo, riêng biệt.

-     Đồng thời tất cả mọi thành tố đều cùng nhau chia sẻ một mục đích chung đang điều hướng mọi sinh hoạt của cơ cấu Tổng Thể, Toàn Diện. Chính vì lý do nầy, trên đây tôi đã gọi cơ cấu là một Bào Thai, một Bọc Trứng có khả năng cưu mang, nâng đỡ, hướng dẫn và động viên mọi thành tố cấu thành.

 

Trong khuôn khổ của chương nầy, tôi không quảng diễn thêm những điểm trên đây, với nhiều chi tiết khác, tuy dù rất quan trọng. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh hai chuẩn mực chính yếu là Thảo Luận và Đối Thoại. Dựa vào hai kỹ năng nầy, chúng ta có thể đánh giá hay là phát huy một cơ cấu tổ chức lành mạnh, năng động, như gia đình hay là đất nước.

 

Nói một cách vắn gọn, một đất nước đang dấn bước trên con đường thanh bình và thịnh vượng, chừng nào các thành viên của đất nước ấy, từ cấp lãnh đạo, trí thức cho đến những tầng lớp bình dân có khả năng và cơ hội ngồi lại học hỏi, thảo luận và đối thoại với nhau. Hai bài học hay là hai sinh hoạt nầy không thể thiếu vắng, nếu chúng ta cùng nhau thực hiện hoài bảo Dựng Nước và Giữ Nước, một cách thiết thực và hữu hiệu.

 

- Tranh cãi

 

Thông thường, khi thảo luận về một vấn đề, cùng với nhiều thành viên khác trong một nhóm, tôi đi qua bốn giai đoạn :

-     giai đoạn một : trình bày những sự kiện cụ thể và khách quan mà tôi đã quan sát và ghi nhận.

-     giai đoạn hai : dựa vào những sự kiện ấy, tôi đề xuất một giả thuyết, còn mang tên là tiền đề, trong lối dùng từ ngữ cá biệt của một số người.

-     giai đoạn thứ ba : Từ giả thuyết ấy, tôi rút ra một kết luận cuối cùng, sau khi kiểm chứng và rà soát lại những sự kiện mà tôi đã khảo sát một cách kỹ lưỡng. Kết luận nầy diễn tả quan điểm, lối nhìn đời, lập trường hay là cách nhận thức của tôi về thực tế và thực tại bao quanh tôi. Thể thức rút ra một kết luận thay đổi từ người này qua người khác, cùng chung sống trong một môi trường giống nhau. Lý do cơ bản giải thích sự khác biệt ấy, là vì hai người có hai quá khứ khác nhau, hai tầng lớp kinh nghiệm khác nhau, đang đeo đuổi hai loại lợi ích và nhu cầu khác nhau.

-     giai đoạn thứ bốn : sau cùng là phương thức và chương trình hành động, nhằm thâu đạt những thành quả mong muốn.

 

Trong thực tế hằng ngày, thay vì thảo luận một cách có hệ thống và trật tự như vậy, chúng ta thường có xu thế tranh cãi, giành phần hơn, phần đúng, phần có lý, phần sự thật về cho mình. Đồng thời, chúng ta tố cáo, phê phán, qui chụp, gắn cho đối phương của chúng ta những nhãn hiệu hồ đồ như : sai lầm, gian manh, phản bội, dối trá...

 

Thêm vào đó, ngoại trừ giai đoạn bốn, ba giai đoạn một, hai và ba đều xảy ra trong nội tâm của chúng ta. Không ai thấy, không ai nghe, không ai có thể khảo sát thể thức suy luận của chúng ta.

Ngoài ra, chính chúng ta cũng nhảy vọt một cách lung tung và lộn xộn. Rốt cùng chúng ta cũng không rõ ràng điều nào là sự kiện, điều nào là giả thuyết và điều nào là kết luận, trong tiến trình tư duy và lý luận của chúng ta.

 

Thay vào những cách làm hỗn độn, thiếu hệ thống như vậy, điều chúng ta cần làm, trong tiến trình dựng Nước và giữ Nước, là cùng nhau ngồi lại, học với nhau cách thức thảo luận có tính khoa học và kỹ thuật.

 

- Thảo luận một cách khoa học

 

Kỹ năng nầy bao gồm hai phần khác biệt và bổ túc cho nhau.

Trong phần thứ nhất : Tôi trình bày ra ngoài, một cách rõ ràng và khúc chiết, trước mặt những người cùng thảo luận, năm bước đi lên của tôi, trên tiến trình tư duy và suy luận, hay là cách giải quyết vấn đề.

-    Bước Một : Tôi nêu lên những sự kiện khách quan làm bàn đạp cho công việc và tiến trình suy tư.

-    Bước Hai : Tôi đề xuất một hay nhiều giả thuyết,  nhằm thuyên giải vấn đề hay là tìm ra ý nghĩa và hướng di tới.

-    Bước Ba : Tôi chứng minh giả thuyết, bằng cách phát hiện những liên hệ ràng buộc các sự kiện với điều tôi đề xuất.

-    Bước Bốn : Tôi rút ra một kết luận cuối cùng, khả dĩ trình bày quan điểm và thể thức nhận thức của tôi.

-    Bước năm : Tôi tiên liệu những cách tác động trên môi trường, để thành đạt một kết quả mong muốn.

 

Trong phần thứ hai : Sau khi đã phát biểu và trình bày, tôi khiêm cung và thành khẩn yêu cầu mọi tham dự viên, đóng góp những ý kiến, đưa ra những nhận xét bổ túc, kiện toàn hay là sửa sai. Trong phần nầy, tôi cũng từ từ đi lên từng bước, một cách khoan thai và có thứ tự, để mọi người có mặt có thể bộc lộ những quan điểm hay là lối nhìn độc đáo và khác biệt của mình.

-     Bước Một : ngoài những sự kiện mà tôi đã ghi nhận và trình bày, trong các bạn có ai ghi nhận thêm những sự kiện khác lạ ?

-     Bước Hai : Ai đề xuất một hay nhiều giả thuyết khác, để bổ túc hay là điều chỉnh giả thuyết của tôi ?

-     Bước Ba : Bạn nào nhận thấy cách chứng minh giả thuyết và lối kiểm chứng các sự kiện do tôi thực hiện, còn thiếu tính mạch lạc và thuyết phục ?

-     Bước Bốn : Kết luận cuối cùng mà tôi rút tỉa, có hợp lý và hợp tình hay không ?

-     Bước Năm : Thể thức hành động mà tôi đã dự kiến, có ăn khớp với vấn đề mà chúng ta muốn giải quyết, hay là đi ra ngoài đề ?

-     Bước Sáu : Trong tiến trình tư duy và lý luận, với năm bước đi lên của tôi, các bạn còn muốn thêm, muốn bớt hay là muốn sửa sai những điểm nào ?

 

- Đối Thoại

 

Trong một nhóm Đối Thoại, chúng ta cũng sử dụng kỹ năng thảo luận khoa học, như vừa được trình bày. Tuy nhiên, chúng ta cần phân biệt hai mục tiêu khác nhau và hai khuôn khổ khác nhau.

Trong nhóm thảo luận khoa học, các thành viên nhắm đến một kết luận rõ ràng và cụ thể, bao gồm những quyết định, những điểm đồng ý và một số ưu tiên cần xác định.

Nói một cách vắn gọn, tư tưởng ĐỒNG QUI là khuôn khổ hoạt động của một nhóm thảo luận khoa học. Tư tưởng nầy là một điều kiện thiết yếu, khi nhóm có nhiệm vụ giải quyết một vấn đề cụ thể.

 

Trái lại, trong nhóm Đối Thoại, thực tế và thực tại « muôn màu muôn sắc » được trân trọng, nhận diện và đối diện, một cách thanh thản và an hòa nội tâm. Nội dung được trình bày và phát biểu, không khoác tầm mức quan trọng và ưu tiên, ngang bằng chủ thể hay là con người cụ thể và xương thịt, đang diễn tả những tầng lớp sâu xa của lòng mình.

 

Nói tóm lại, chúng ta cần ghi nhận ba đặc điểm quan trọng của nhóm trong sinh hoạt Đối Thoại :

Thứ nhất, mỗi thành viên đặt lên hàng đầu công việc lắng nghe chính mình và lắng nghe Nhóm, hơn là ghi nhận, khảo sát những quan điểm, lối nhìn của từng người.

 

Thứ hai, các thành viên cùng nhau chia sẻ, trao đổi và góp chung lại những quan điểm, kinh nghiệm và cảm nghiệm, hơn là đấu tranh, biện minh, cổ động cho cá nhân của mình.

 

Thứ ba, bản sắc của từng người vẫn được trân trọng. Nhưng các thành viên đang ý thức một cách nhạy bén mình đang cùng nhau làm nên một thực thể toàn bích, toàn diện, một « Chúng Ta ». Cho nên họ trở thành trong sáng, thông suốt với nhau. Không úp mở, ém nhẹm. Nhất cử nhất động, tất cả những gì xuất hiện trong nội tâm của từng người, đều được đặt lên bàn, trước mặt mọi người. Lối nói « Cùng Với Nhau » gói ghém trọn vẹn thế nào là đường đi, hơi thở, lối nhìn và nhất là tấm lòng trăn trở của nhóm Đối Thoại.

 

Ngoài những nét đặc trưng ấy, hai loại nhóm Thảo luận khoa học và Đối Thoại cùng chia sẻ một mẫu số chung, như sau :

-     Một : Khi phát biểu, mỗi thành viên trình bày ra ngoài, một cách rõ ràng, những bước đi lên có thứ tự, trong tiến trình tư duy.

-     Hai : Ai ai cũng được gọi mời khảo sát và tìm hiểu những giả thuyết của người đang trình bày và diễn tả chính mình.

-     Ba : Mọi thành viên khảo sát, một cách thanh thản và tường tận, những quan diểm bất đồng được nêu lên trong nhóm.

-     Bốn : Mỗi người tham dự cố gắng hết mình, để nâng cao chất lượng, trong hai lãnh vực suy luận và quan hệ tiếp xúc đang diễn tiến trong nhóm.

*

Nhằm kết luận, tôi xin mượn lại câu chuyện của Đức Phật về « Năm người mù đi xem voi ».

Người thứ nhất đã sờ vành tai của voi, và mô tả con voi giống như cái quạt mo.

Người thứ hai đã sờ lưng của Voi, và mô tả con voi giống như một tấm ván.

Người thứ ba đã sờ chân của Voi, và mô tả con voi giống như một cột nhà.

Người thứ tư đã sờ cái vòi của voi, và mô tả con voi giống như một ống thổi lửa.

Người thứ năm đã sờ cái đuôi của voi, và mô tả con voi giống như một cây roi to bự.

Không một câu trả lời nào trên đây diễn tả trọn vẹn toàn diện sự thật về con voi. Tuy nhiên, mọi câu trả lời đều phản ảnh ít nhiều thực tế của con voi. Không một câu trả lời nào có thể bị đánh giá là sai lạc một cách tuyệt đối.

 

Cũng vậy, khi nói về Đất Nước và Quê Hương, mỗi người trong chúng ta đều giống như « một người mù đi xem voi » trên đây. Thế mà chúng ta cứ khư khư cho mình là Đúng hoàn toàn và kết án kẻ khác là sai một trăm phần trăm. Cho nên, trong suốt bốn nghìn năm văn hiến, chúng ta đã xếp hàng thành hai phe Sơn Tinh và Thủy Tinh, để loại trừ và hủy diệt lẫn nhau. Phải chăng ngày hôm nay là thời điểm thuận tiện hay là cơ may nghìn năm một thuở, để chúng ta thức tỉnh, cùng nhau ngồi lại, cùng nhau học hai bài học « Thảo Luận khoa học và Đối Thoại ».

 

Với hai bài học nầy, từng cá nhân xé lẻ, chúng ta vẫn tiếp tục làm người mù. Nhưng « Cùng Với Nhau », chúng ta có khả năng trở thành một Bồ Tát Quan Thế Âm, có một trăm đôi tay để làm. Một trăm đôi chân để bước đi những bước đi vạn dặm. Một trăm quả tim để yêu thương Nước Non và Anh Chị Em Đồng Bào. Lúc bấy giờ, mặt trời sẽ mọc lên lại trên Quê Hương của chúng ta. Và chúng ta sẽ thấy được những điều vô hình, nghe được những tiếng nói vô thanh. Sự Thật của Tình Nước, Tình Non, Tình Đồng Bào sẽ rạng ngời, trong con mắt nội tâm của mỗi người Việt Nam.

 

Sách tham khảo 

1. P. M. SENGE

- The Fifth Discipline  - Century Business,  London 1993.

- The Fifth Discipline, Fieldbook - Currency Book, USA 1994

- The Dance of Change - NB, London 1999.

2. NGUYỄN VĂN THÀNH 

-   Tư Duy và Hành Động  - TN, 2002.

-   Bản Đồ Tâm Lý và Tư Duy sáu màu -  TN, Lausanne 2002.

3. D. KANTOR & W. LEHR 

- Inside the Family - JB, San Francisco 1975.



[1] GOLEMAN D. – Emotional Intelligence, 2 vol. – Bantam Books, New York 1996..

[2] STEINER C.– Le conte chaud et doux des chaudoudoux – Illustré par PEF – InterEditions, Paris 1984..

[3] NGUYỄN VĂN THÀNH – Đồng Hành để Đồng Cảm – Tủ Sách Tình Người, Lausanne 2002.

[4] BERNE E. – Analyse transactionnelle et Psychothérapie – PB Payot Paris 1971.

 

 

Nguyễn Văn Thành
Số lần đọc: 1881
Ngày đăng: 20.09.2012
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Huyền sử 6 - Nguyễn Văn Thành
Núi Vọng Phu; Những Thiếu Phụ Chờ Chồng Muôn Kiếp - Nguyễn Cẩm Xuyên
Huyền sử 5 - Nguyễn Văn Thành
Huyền sử 4 - Nguyễn Văn Thành
Huyền sử 3 - Nguyễn Văn Thành
Huyền sử 2 - Nguyễn Văn Thành
Huyền sử 1 - Nguyễn Văn Thành
Nguồn Gốc Của Phở - Vương Trung Hiếu
Các Biểu Tượng Trong Tôn Giáo - Đinh Hồng Hải
Phở Việt Nam - Nhiều Tác Giả