Ông Bang zừng chân nhìn thung-lũng. Từ nơi đây trải ra xa tít là một cánh đồng rau, từng khoang to nhỏ khác nhau, có lẽ đủ loại rau, trông như một đám tuổi thơ thanh-bình.
Cánh đồng ấy rộng thênh-thang nếu có một đường thẳng cho ông Bang đi, ít ra fải mất mấy tiếng mới tới ven biên. Nếu tới rồi, nhưng ông lại băn-khoăn vì biết đâu ở chân trời kia lại lõm xuống một vùng thung-lũng khác. Ông thấy mầu vàng như lúa chin hay cỏ vàng cuối mùa hè, lượn lên lượn xuống quanh lưng đồi. Những rặng núi cao trùng-điệp đứng thẳng lên. Từ những thôn-xóm xa xa, từ những thung-lũng và đèo, sương mù tựa mây ngừng trôi, đứng iên như trong một bức tranh. Xuyên qua kẽ mây ông Bang thấy bầu trời xanh và nắng đổ xuống thành những manh chiếu lớn.
Ông Bang suy ngĩ mãi về hai chữ “fôi-fa” mà ông Liên hay zùng. Có khi rất mơ-hồ.
Ông Bang zụi mắt. Trong khỏanh-khắc nhớ đến một chuyện hồi còn bé, nên ông nhìn không rõ. Fải nói là ông đang đứng trên đỉnh đồi rau, cho nên những luống rau xa xa ở trước mặt ông ngiêng qua ngiêng lại, trồi lên xụt xuống. Gần đây là nóc nhà ông Liên một người bạn từ những ngày ở trường tiểu-học. Mùi thịt nướng từ nhà ông Liên đưa lên trong tĩnh-mịch của thứ không-jan mát mẻ sau những trận mưa êm đềm tối qua. Kia là những bụi cây cao chạy vòng lên đồi khiến cho thôn xóm trở nên hiểm-hóc. Những nóc nhà tôn.
Ông Bang nhớ rằng trong những thành lũy cây kia có một căn nhà nhỏ. Một con chó ngủ trông záng buồn fiền. Một đứa bé gái đang tráng bánh đa. Một chum nước nhỏ và một người chính là ông đang bước tới, chậm chạp cầm cán gáo zừa múc nước ở chum ra đưa lên miệng uống. Một mùa hè oi-bức. Một hành-trình ngắn-ngủi đói meo.
Ông Liên đưa ông Bang ra ga. Một chiếc ga nhỏ. Một đầu tầu đang thở fì fèo. Ông Liên bảo ông Bang rằng khi về thành-fố nhớ tới một quán nhỏ bán bánh mì ở đầu cầu. Ông Bang gật đầu nhớ ra là hồi còn bé, khi sáng tinh mơ ông ngồi bán bánh mì jữa cảnh huyên náo của một ngày vất-vả. Trong con mắt trẻ-thơ mọi người toàn là mầu xám, nhất là những sáng mùa đông.
Đầu tầu hú lên những tiếng zài, nhả khói sụt-sùi.
Nhưng kìa một toán kị-binh đang đến. Đi đầu là Napoléon, khuôn mặt i như trong tranh của David. Napoléon zừng lại trước sân ga bảo sĩ-quan cận-vệ đi hỏi có ai biết đường về Paris!. Thế rồi toán ki-binh lẫn vào sương mù. Trong đó súng nổ đì-đùng.
Ông Bang nói nhỏ với ông Liên: “Mình đang ở Wiesbaden bên sông Rhine? Ngày mai nơi đây sẽ trở thành tiểu-thuyết.” Ông Bang ngừng bổ cúi nhìn bà Hồng, vợ của ông Liên đang hái mướp trên zàn. Ông ngẫm ngĩ nhiều lần không hiểu vì sao bà Hồng, rất nhan-sắc lại jống chị ông, nay đã qua đời. Ông nhớ một đêm đi zưới trăng trên đường nhỏ, trong xóm, bên cạnh hàng cây bưởi. Ông thấy một mảnh sáng loé lên cạnh gốc cây. Ông lại gần, cúi xuống nhìn kĩ. Đó là một mảnh chai. Từ đó đêm ngày, mỗi lần đi qua chỗ ấy ông lại tìm mảnh chai, và ông nói một mình khi thấy mảnh chai: “A! Nó đây rồi!”
Ông Liên thường nói với vợ và bạn bè là ông thích hai chữ “fôi-fa”, nhất là lúc này khi ông rót nước trà nóng vào cốc của ông Bang. Ông thì thầm: “Tôi thích nhìn khói trà. Trông rất “fôi-fa”. Khuôn mặt ông sau lớp khói trông như một vách đá đang đổi mầu.”
Fải chăng bên vách đá cheo leo, ông Bang đứng đợi một người bạn. Ông nhớ tới một lần người bạn ấy nói thế này:
Fôi-fa jòng nước tần-ngần,
Sớm-trưa nhắn nhủ fiêu-bộng được không?
October 4, 2012