Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.187
123.214.416
 
Tự Truyện Osho 12 – hết
Đỗ Tư Nghĩa

 

CRETE

 

 

[Vào 16/1, Osho bay tới Hy Lạp với một visa du lịch 4 tuần và lưu lại trong một villa trên đảo Crete. Ba ngày sau đó, ông bắt đầu tổ chức những buổi nói chuyện ngoài trời trong khuông viên của villa, dưới một cây to, cành lá sum suê. Trong nhiều ngày, nhiều trong số những sannyasin của ông bắt đầu đến từ những nước Âu châu kế cận. Vị giám mục Chính Thống Hy Lạp địa phương, trong những bài giảng trước công đồng của ông, phê phán Osho; ông ta phân phát một cuốn sách nhỏ,  cáo buộc Osho về tội làm suy đồi đạo đức của giới trẻ, và đe doạ tổ chức một cuộc diễu hành tới villa để phản đối. Vào 5/3, cảnh sát đến trong khi Osho đang ngủ trưa,  bắt giữ ông và trục xuất ông. Khi bí thư pháp lý [1] của Osho yêu cầu họ cho xem trát đòi, thì cảnh sát bắt giữ cô và tiến hành phá sập những cửa lớn và cửa sổ để xâm nhập vào nhà và bắt Osho giam tù. ]

 

[TRÊN ĐƯỜNG TỚI URUGUAY, THỤY SĨ, THỤY ĐIỂN, LONDON, IRELAND, TÂY BAN NHA, SENEGAL.]

 

Từ Hy Lạp, chúng tôi di chuyển tới Geneva, chỉ để nghỉ ngơi qua đêm, và ngay khi họ biết tên tôi, họ nói, "Đừng hòng !  Chúng tôi không thể cho phép ông ta vào nước chúng tôi."

 

Tôi không được phép thậm chí ra khỏi máy bay.

 

Chúng tôi di chuyển tới Thụy Điển, nghĩ rằng (như thiên hạ đồn đại ) Thụy Điển thì cấp tiến hơn nhiều, so với bất cứ nước nào tại châu Âu hay trên thế giới; rằng Thụy Điển đã và đang cung cấp nơi tỵ nạn cho nhiều tên khủng bố, những nhà cách mạng, những chính trị gia bị trục xuất, rằng nó rất hào phóng.

 

Chúng tôi đến Thụy Điển. Chúng tôi muốn lưu lại qua đêm bởi vì những phi công đã hết thời hạn bay. Họ không còn có thể tiếp tục nữa; nếu bay tiếp, thì sẽ trở nên bất hợp pháp. Và chúng tôi vui sướng bởi vì chúng tôi chỉ xin lưu lại qua đêm, nhưng mà người đàn ông tại phi trường lại cấp những visa 7 ngày cho mọi người. Nhưng ngay lập tức cảnh sát đến và hủy bỏ những visa đó và bảo chúng tôi rời. " Người đàn ông này, chúng tôi không thể cho phép vào nước tôi."

Họ có thể cho phép những tên khủng bố, họ có thể cho phép những tên sát nhân, họ có thể cho phép bọn Mafia và họ có thể cho chúng tỵ nạn – nhưng họ không thể cho phép tôi.

 

Và tôi thì không đang xin tỵ nạn hay cư trú vĩnh viễn, chỉ xin lưu lại qua đêm.

 

Chúng tôi xoay hướng sang London, bởi vì đơn giản đó là cái quyền cơ bản của chúng tôi. Và chúng tôi làm cho sự việc hợp pháp tới hai lần – chúng tôi đã mua những tấm vé hạng nhất cho ngày hôm sau. Phi cơ phản lực của chúng tôi đã ở đó, nhưng chúng tôi vẫn mua vé trong trường hợp họ nói :  "Quý vị không có vé cho ngày mai, nên chúng tôi sẽ không cho phép quý vị lưu lại trong cái phòng đợi hạng nhất."

 

Chúng tôi đã mua những vé hạng nhất cho mọi người chỉ để có thể lưu lại trong phòng đợi, và chúng tôi bảo họ : "Chúng tôi có máy bay riêng, và chúng tôi cũng có những tấm vé." Nhưng họ áp dụng một luật địa phương của phi trường, mà không ai có thể can thiệp vào : "Đó là cái quyền tự do riêng của chúng tôi – và người đàn ông này, chúng tôi sẽ không cho phép ông ta vào trong phòng đợi."

 

Tôi tự hỏi, " Làm thế nào tôi có thể phá hủy cái nền đạo đức của họ, tôn giáo của họ, bằng cách chỉ lưu lại trong phòng đợi? Trước hết, tôi sẽ ngủ, và vào buổi sáng, chúng tôi sẽ đi khỏi đó." Nhưng không, những nước mệnh danh là văn minh này thì cực kỳ bán khai và man rợ. Họ nói, " Tất cả những gì mà chúng tôi có thể làm, là, chúng tôi có thể đưa quý vị vào trong tù để qua đêm."

 

Tại Ireland, chúng tôi chỉ đơn giản muốn lưu lại một ngày để cho các phi công nghỉ ngơi – nhưng người đàn ông tại phi trường đã cho chúng tôi 7 ngày. Ông không bận tâm chúng tôi là ai, và mục đích là gì. Chắc hẳn là ông ta đã say xỉn rồi ! Chúng tôi đến một khách sạn, và vào buổi sáng, cảnh sát đến, yêu cầu cho xem passport, và hủy bỏ 7 ngày này.

 

Chúng tôi nói, " Các ông đã cho chúng tôi 7 ngày và bây giờ các ông hủy bỏ chúng mà không đưa ra lý do nào. Không ai trong số người của chúng tôi ra khỏi khách sạn; họ chưa phạm một tội danh nào. Các ông không thể làm như thế."

 

Họ bị kẹt trong một tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Họ đã cho chúng tôi 7 ngày; bây giờ họ đã hủy bỏ chúng mà không thể đưa ra lý do tại sao. Cho nên họ nói, " Các ông có thể lưu lại bao lâu tùy ý, nhưng đừng ra khỏi khách sạn."

 

Chúng tôi đã lưu lại ở đó 15 ngày bởi vì chúng tôi cần một ít thời gian. Những người của chúng tôi đang làm việc tại Tây Ban Nha, và chính phủ Tây Ban Nha sẵn lòng cho chúng tôi cư trú vĩnh viễn. Cho nên chúng tôi chỉ cần thời gian: nếu Tây Ban Nha sẵn sàng, chúng tôi có thể di chuyển từ Ireland đến Tây Ban Nha. Chúng ôi lưu lại Ireland 15 ngày mà không có visa nào cả.

 

Và cái ngày chúng tôi rời Ireland, một bộ trưởng thông báo với những dân biểu quốc hội, rằng chúng tôi chưa bao giờ có mặt tại Ireland. Những người có văn hóa, những người được giáo dục – thế mà họ nói dối một cách trắng trợn, nói rằng tôi chưa bao giờ có mặt tại Ireland! Và ông ta biết, chính phủ ông ta biết, ông  cảnh sát trưởng biết.

 

Tôi đang nghĩ rằng, một khi tôi đã ổn định tại một nơi nào đó, thì tôi sẽ khởi sự… lần lượt, mỗi nước phải được lôi xệch vào tòa án về những lời dối trá của họ, về việc họ gọi tôi là "nguy hiểm," về việc nói "vâng" và rồi từ chối sau một tiếng đồng hồ. Tôi định sẽ phanh phui nó trước thế giới, để mọi người hiểu một điều đơn giản,  rằng không có dân chủ ở bất cứ nơi đâu.

 

 

[ Vào 14/3, Osho và đoàn tùy tùng của ông được hứa cấp visa tới Tây Ban Nha, nhưng 3 ngày sau, họ bị từ chối, dựa trên những hồ sơ được cung cấp bởi chính phủ Mỹ và chính phủ Đức. Vào 18/3, phi cơ riêng của Osho đáp xuống Madrid, và được vây quanh bởi Đội Phòng vệ Dân sự trong khi tòa lãnh sự Uruguay đóng dấu những visa nhập cảnh Uruguay trong những passport của Osho và những tùy tùng của ông. Chỗ dừng kế tiếp là tại Dacca, Senegal, để lưu lại qua đêm trong một khách sạn trước khi tiếp tục bay tới Uruguay. Vào cùng ngày, nghị viện Âu châu thảo luận một nghị quyết để ngăn cản không cho Osho vào bất cứ nước nào trong khối Thịnh vượng chung Châu Âu.]

 

Bạn sẽ ngạc nhiên : tôi đang được đưa ra thảo luận trong những nghị viện của những nước mà tôi chưa bao giờ đến, ngay cả trong những nước mà tại đó không có một sannyasin riêng lẻ nào tồn tại, như thể tôi là vấn đề thế giới lớn nhất với họ. Họ đang đối mặt với một cuộc chiếc tranh hạt nhân thứ ba, nhưng mối lo lắng của họ là về tôi!

 

Thật có ý nghĩa, là họ đã nhận thức rằng, nếu tôi được phép tiếp tục rao giảng,  thì những xã hội thối nát của họ sẽ bắt đầu sụp đổ. Và tôi dự định tiếp tục, bất kể  cái gì xảy ra; họ không thể ngăn cản tôi. Tôi sẽ tìm ra những cách của mình. Và bây giờ hơn bao giờ cả, tôi sắp mài sắc luận cứ của tôi chống lại họ và phanh phui mọi chính phủ mà đã và đang ngăn cản tôi tới được những người của riêng tôi.

 

 

URUGUAY

 

[Vào 12/4, Osho định cư trong một ngôi nhà rộng gần biển tại Punta del Este, Uruguay. Ông tiếp tục lại những cuộc nói chuyện hằng ngày của mình trong một bối cảnh thâm tình, cho một nhóm 20 – 30 người. Vào thời gian này, ông bắt đầu nói về cái "thị kiến" của ông về cái  giai đoạn kế tiếp của công trình của ông. ]

 

Cái giai đoạn mới của tôi là mở một trường học huyền bí. Bạn có thể làm việc trong thế gian, nơi mà những con đường đã có ở đó, những ngôi nhà đã có mặt ở đó, bạn không cần phải làm ra chúng. Những nhà máy đã có mặt ở đó … trong hằng ngàn năm, thế giới đã tạo ra mọi cái đó. Cho nên bạn có thể xoay xở  – 5 giờ một ngày, 5 ngày một tuần là đủ. Vào kỳ nghỉ cuối tuần,  bạn có thể thiền định, bạn có thể đi vào trong sự im lặng, hay bạn có thể đi tới một địa điểm biệt lập nào đó và chỉ thư giãn. Và trong một năm, bạn có khả năng kiếm quá nhiều tiền, để dành quá nhiều tiền, đến mức bạn có thể đến đây 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng… lưu lại bao lâu, là tùy khả năng xoay xở của bạn.

 

Rồi thì việc ở cùng tôi không dính líu gì tới công việc. Rồi thì có mặt với tôi chỉ đơn giản là niềm vui, lễ hội, thiền định, ca hát, nhảy múa. Ba tháng đó chỉ đơn thuần là một kỳ nghỉ. Trong ba tháng, bạn quên đi thế giới. Ba tháng đó thuần túy là cuộc tìm kiếm  chân lý. Và sau ba tháng, bất cứ cái gì mà bạn học được, hãy tiếp tục nó tại nhà; ở đó bạn có thời gian. 5 giờ bạn làm việc – bạn có đủ thời gian; bạn có thể dành riêng ít nhất 2 giờ cho chính bạn.

 

Do vậy, mỗi năm bạn sẽ đến, lưu lại đây lâu hay mau tùy điều kiện cụ thể của bạn, rồi đi. Bạn sẽ không là một gánh nặng cho bất cứ ai, và không cần ai thống trị bạn; không cần bất cứ kỷ luật nghiêm ngặt nào – công việc mới cần cái đó. Không cần những "người điều phối", cho nên chúng ta có thể tránh một "cái ngáng quyền lực" [a power trip][2] Nhưng cả hai công xã của chúng ta đã giúp mang chúng ta tới cái điểm nơi mà chúng ta có thể khởi đầu một trường học huyền bí.  Nếu không có hai công xã đó, thì cái này sẽ là bất khả. Đây là cách mà tôi nhìn những sự việc. Ngay cả những thất bại cũng sẽ mang bạn tới gần thành công hơn, bởi vì mỗi thất bại cho bạn thị kiến (insight) về cái gì là sai đường,  nó đi sai như thế nào. Cho nên cả hai cuộc thí nghiệm của chúng ta đều vô cùng có ý nghĩa.

 

Bây giờ chúng ta đang ở trong một "tư thế" có thể tạo ra một loại nơi chốn hoàn toàn khác, một nơi thuần túy là một lễ hội quanh năm. Người ta sẽ đến và đi. Họ sẽ nhận lấy bất cứ cái gì mà họ học được và họ sẽ thực tập nó trong thế giới, và họ sẽ lại đến để làm mới lại,  để làm tươi mát lại chính mình,  để đi xa hơn, sâu hơn. Chỉ một nhóm "tác viên nòng cốt" sẽ có mặt ở đó để chăm sóc bạn.

 

[Ban đầu, chính phủ Uruguay đã cấp một giấy phép cư trú 1 năm cho Osho, với ý định sẽ gia hạn nó tới 3 năm và sau cùng cấp cho ông quốc tịch.  Vào đầu tháng 6, tuy nhiên, chính phủ bị áp lực từ người Mỹ, không cho phép Osho định cư. Vào giữa tháng 6, chính phủ Mỹ gởi một tối hậu thư đến tổng thống Uruguay: trục xuất  Osho khỏi nước, hoặc có nguy cơ bị mất viện trợ hằng tỷ đô la Mỹ. Một cách miễn cưỡng, ông ta tuân phục.

 

Vào 19/6, 1986, Osho bay từ Uruguay tới Jamaica, nơi mà ông có một visa hai tuần, nhưng sáng hôm sau cảnh sát ra lệnh buộc ông phải rời vào chiều tối hôm đó. Vào 20/6, ông bay tới Lisbon, Bồ đào nha,  nơi mà ông âm thầm lưu lại trong một villa thuê, trong vài tuần. Cảnh sát bao vây villa của ông, và ngày  30/7,  ông bay tới Bombay. ]

 

Tổng thống của Uruguay nói : " Thật không may là tôi phải làm điều đó. Tôi đang làm điều đó trái với lương tâm của riêng tôi."

Những người Mỹ thì thậm chí không chịu để cho tôi rời Uruguay một cách bình thường. Họ muốn có một lệnh trục xuất.  Phi cơ của tôi đang chờ tại phi trường … Tôi nói, " Không có vấn đề gì. Tôi có thể rời đất nước này. Tôi sẽ không đặt nước ông vào trong một nguy cơ như thế."

 

Ông nói, " Tổng thống Mỹ cương quyết rằng ông phải bị trục xuất; ông phải rời Uruguay trong diện bị trục xuất. Tôi bị cưỡng bách phải phạm những tội danh : trước hết, bảo ông rời đất nước mà không có lý do nào; ông đã không làm gì cả. Thứ hai, trục xuất ông. Nhưng tôi hoàn toàn bất lực. Tuy nhiên, tôi muốn một điều: (rằng) trên passport của ông sẽ không có những con dấu của việc trục xuất từ Uruguay. Chúng tôi có một phi trường nhỏ – do vậy, hãy di chuyển máy bay của ông tới phi trường đó, và vào buổi chiều tối hãy rời bỏ mà không thông báo cho chúng tôi, để chúng tôi có thể nói, 'Ông ta đi mà không thông báo cho chúng tôi. Không có thời gian để trục xuất ông ta.' "

 

Nhưng ông ta đã nhầm. Khi phi cơ của chúng tôi di chuyển tới cái phi trường nhỏ, một đại điện người Mỹ đã có mặt ở đó với tất cả những con dấu và một viên chức mà công việc của ông ta là trục xuất tôi… Tôi bị trì hoãn ở đó, bởi vì họ phải điền vào tất cả những biểu mẫu, và khi tôi rời đất nước, tôi nói, : " Không có vấn đề gì.  Thật ra,  passport của tôi đã trở thành một văn kiện lịch sử! Tôi đã bị trục xuất từ quá nhiều nước mà không có lý do nào cả."

 

Khi tôi rời Uruguay, vị tổng thống của Uruguay được mời đến Mỹ ngay lập tức, và Ronald Reagan cho ông ta 36 triệu đô la Mỹ như là "một cử chỉ của tình hữu nghị." Cái đó là một phần thưởng bởi vì tôi bị ném ra ngoài trong vòng 36 tiếng đồng hồ: đúng chính xác 36 triệu đô la Mỹ, một triệu đô la mỗi giờ. Đúng ra,  tôi nên khởi sự đòi những chính phủ này trả phần trăm tiền huê hồng! Quý vị  đang kiếm được hằng tỷ đô la Mỹ nhờ tôi – quý vị nên trả cho tôi ít nhất là 2% mới phải.

 

1987: " PUNE 2 "

 

[Sau khi trải qua 5 tháng tại Bombay và tái tục thời biểu cho các cuộc nói chuyện của ông trong nhà của một trong số những đệ tử của mình, vào 30/12/1986, Osho trở lại công xã tại Pune, mà đã được duy trì bởi những sannyasin Ấn Độ trong thời gian 5 năm ông vắng mặt. Khi lần đầu tiên ông đến, những quan chức chính phủ địa phương và một tổ chức cầm đầu bởi nhà Chính thống giáo Hindu, Vilas Tupe, dàn dựng một số những hành động thù địch chống lại Osho và công xã. Sau một vài tháng, tuy nhiên – với sự ủng hộ của Dhole Patil, vị Thị trưởng của Pune, và với sự giúp đỡ của những người bạn trong chính phủ và cơ quan tư pháp Ấn – công xã được phép hoạt động ít nhiều bình thường,  tương đối có ít những vụ can thiệp và sách nhiễu lộ liễu. ]

 

Chỉ mới hôm qua, tôi nhận được một lá thư khác từ thị trưởng của Pune:

 

“Với lòng yêu mến và niềm hân hoan sâu xa nhất, tôi mong ước được phát biểu rằng, Osho, hiện đang cư trú tại 17, Koregaon Park, Pune, trong khu vực bầu cử của tôi (my home constituency), không nghi ngờ gì nữa, là một người chứng ngộ. Những quan điểm đầy thẩm quyền của ông về tôn giáo, là hết sức cần thiết trong thời buổi hỗn loạn này. Ông là một trong những nhà huyền môn (mystic) uyên thâm, vĩ đại nhất, và là một đạo sư tâm linh của thời đại chúng ta. Phẩm hạnh của ông và cách cư xử đầy yêu thương của ông không thể và chưa bao giờ tạo ra bất cứ vấn đề pháp lý nào, ông cũng chưa bị phát hiện là có tội trong bất cứ điều khoản nào của luật hình sự. Thật vậy,  những lời dạy của ông góp phần tạo ra một bầu khí rất hòa bình và thanh thản trong hoàn cảnh hiện tại, khi mà nhìn chung, đất nước đang trải qua một tình trạng rất hỗn loạn.”

 

[Vào cuối năm 1987,  ngày nào cũng có hằng ngàn sannyasin và khách viếng thăm kéo đến công xã. Osho tiếp tục chịu đựng những giai đoạn bệnh hoạn, bị hành hạ bởi những cơn đau trong xương và khớp; thị lực có vấn đề,  nhạy cảm với ánh sáng;  ăn không ngon; và bệnh nhiễm trùng tai tái phát.  Thường khi, suốt nhiều ngày và nhiều tuần liên tục, ông không thể xuất hiện cho những cuộc nói chuyện hằng ngày của mình.  Và trong những bài nói của mình, ông thường hay nói đến sự kiện rằng ông sẽ không thể tồn tại vĩnh viễn về mặt thể xác, và thúc giục thính giả của ông đưa thiền định lên thành ưu tiên hàng đầu. Vào tháng 3, ông bắt đầu "bài–tập ngừng" khi ông bước vào và rời thiền phòng, nơi mà ông chỉ đạo hội chúng nhảy múa với âm nhạc cuồng loạn và rồi đột nhiên ngừng lại một vài khoảnh khắc trước khi tiếp tục nhảy múa.]

 

 

Tôi đang cố đưa bạn trở về nhà. Bạn đã đi quá xa, lang thang chạy theo những cái phù du, lang thang chạy theo những giấc mơ. Và tôi muốn bạn trở lại nhà – bởi vì cái mà có thể cho bạn sự hài lòng, cái mà có thể cho bạn sự mãn nguyện, thì không phải ở ngoài đó, nó ở đây; nó không có mặt tại bất cứ thời gian nào, mà nó có mặt ngay khoảnh khắc này. Và cảm giác về một sự ngừng lại – một sự ngừng hoàn toàn – không là gì ngoài một kinh nghiệm về cái bây giờ, ở đây.

 

Tôi chỉ có thể cho bạn nếm một chút mùi vị,  và một khi bạn nếm được,  thì bạn sẽ tìm kiếm nó. Rồi thì không có cách nào ngăn cản bạn. Cái nền tảng nhất là nếm một chút.

 

Bạn đã nghe những lời nói, những lời đẹp đẽ, nhưng chúng chưa thúc đẩy bạn vào trong một cuộc tìm kiếm say mê. Tôi muốn tặng cho bạn không phải là những lời nói,  mà là một sự hài lòng (content) nào đó. Và cái đó chỉ có thể được bằng cách cho bạn nếm thử một chút.

 

Và thời gian đã chín muồi. Đối với quá nhiều trong số những sannyasin của tôi, thì những bông hoa đầu tiên của mùa xuân đã bắt đầu hiển lộ. Ngày càng có nhiều thêm những bông hoa đang nở.  Và bạn phải rất kiên nhẫn một cách lặng lẽ – với một hoài vọng sâu xa, nhưng không có yêu sách nào. Bởi vì tôi không thể ở đây vĩnh viễn. Và tôi đã đợi đủ lâu rồi; bây giờ là thời điểm mà tôi nên bắt đầu cho bạn nếm thử.  Những lời lẽ, tôi đã cho bạn quá nhiều – đó là sự chuẩn bị. Những hạt giống mà tôi đã gieo thì quá nhiều, và bây giờ mùa xuân đã rất gần kề, bạn phải dũng cảm, và toàn bộ, và nồng nhiệt với tôi – trong sự im lặng của tôi, trong niềm vui của tôi.

Đã đến lúc cái "nhị nguyên" [duality][3] giữa bạn và tôi được cất bỏ.

 

Những ai thông minh, nên bỏ nó đi ngay lập tức. Những ai ít thông minh hơn một chút, sẽ phải mất một chút thời gian. Tôi có thêm một chút thời gian để nán lại trên bờ của bạn … nhưng nó không thể kéo dài quá lâu.

 

Tôi không thể luôn luôn ở cùng bạn. Tôi rất muốn, nhưng sự hiện hữu không cho phép điều đó. Sự hiện hữu chỉ cho  phép chừng đó,  và điều đó tốt; nếu không, bạn sẽ bắt đầu xem (sự có mặt của) tôi là chuyện hiển nhiên.

 

Một ngày nào đó, tôi sẽ không có mặt ở giữa các bạn. Thật tốt, là thỉnh thoảng tôi vắng mặt, để cho bạn có thể bắt đầu học được rằng, cái xảy ra trong sự vắng mặt của tôi là thực tại của bạn. Khi tôi ở cùng bạn, bạn trở nên bị tràn ngập bởi  sự có mặt của tôi. Bạn quên đi chính mình.

Và bạn không được (phép) quên chính mình! Bạn phải nhớ đến chính bạn, bởi vì chỉ như vậy, bạn mới có thể chuyển hóa chính mình.

 

Bạn sẽ cảm thấy "nhớ" ( miss) sự có mặt của tôi – đó là điều rất tự nhiên; do vậy, tôi không kết tội cái tình cảm "nhớ nhung" đó. Nhưng bạn đang tìm kiếm cái gì đó "siêu việt"  – vượt quá cái bình thường, cái tự nhiên – cái gì đó siêu việt. Bạn phải  học (cách  tìm ra) con đường, và con đường đó phải được du hành một mình.

 

Tôi không thể đi cùng bạn. Tôi có thể chỉ cho bạn lối đi, tôi có thể chỉ cho bạn mặt trăng. Nhưng những ngón tay của tôi không phải là mặt trăng, tôi không thể tiếp tục chỉ cho bạn mặt trăng. Không sớm thì muộn, bạn phải quên đi những ngón tay của tôi và chính bạn phải nhìn vào mặt trăng. Con đường ấy, bạn phải đi một mình.

 

Một cách tự nhiên, khi tôi không đến hằng ngày, sáng và chiều tối, để ở cùng với bạn, thì bạn sẽ bắt đầu cảm thấy một loại suy sụp nào đó. Thật ra,  nó không phải là một suy sụp; nó chỉ đơn giản là, cái thực tại của bạn đang trồi lên bề mặt.  Trước đây nó đã không có cơ hội để trồi lên.  Tôi đã ở cùng bạn quá nhiều,  đến nỗi, bạn đã chìm vào trong bóng tối, vào trong cái hậu cảnh [4] [background].  Tôi đã trở nên thực với bạn hơn chính bạn.

Khi tôi không đến, trong sự vắng mặt của tôi, thực tại của bạn sẽ được phơi bày ra với bạn. Điều đó tốt, bởi vì, trừ phi bạn biết bạn là cái gì, bạn đang ở đâu, thì cuộc hành hương của bạn không thể bắt đầu. Cho nên, những ngày đó có tầm quan trọng rất lớn.

 

Hãy nhớ: bất kể cái gì mà bạn tìm thấy bên trong chính bạn, bất kể nó có thể là "tào lao" ra sao, nó là thực tại của bạn. Nó có thể được thanh tẩy,  nó có thể được cất bỏ; bạn có thể di chuyển rời khỏi nó. Nhưng trước khi có thể làm bất cứ cái gì để xử lý nó, bạn phải biết nó. Cái đó là điều trước tiên và có ý nghĩa nhất.

 

Để giúp bạn tăng trưởng,  phương pháp của tôi, về cơ bản, là làm cho bạn độc lập khỏi tôi. Bất cứ loại lệ thuộc nào đều là một sự nô lệ, và sự nô lệ tâm linh là sự nô lệ tồi tệ nhất trong tất cả. [5]

 

Tôi đã và đang dốc hết mọi nỗ lực để làm cho bạn nhận biết tính cá thể của bạn, tự do của bạn, năng lực tăng trưởng tuyệt đối của bạn (your absolute capacity to grow) mà không có sự trợ giúp nào từ bất cứ ai. Sự tăng trưởng của bạn là cái gì đó nội tại trong bản thể bạn. Nó không đến từ bên ngoài; nó không phải là một sự áp đặt, nó là một "phơi mở" (unfolding) từ bên trong.

 

Tất cả những kỹ thuật thiền định mà tôi đã cho bạn đều không lệ thuộc vào tôi – sự có mặt hay vắng mặt của tôi sẽ không tạo ra sự khác biệt nào – chúng tùy thuộc vào bạn. Không phải sự có mặt của tôi, mà là sự có mặt của bạn, là cái được cần đến để cho chúng vận hành tốt.

 

Không phải sự có mặt của tôi ở đây, mà là việc bạn có mặt ở đây, việc bạn có mặt trong hiện tại, việc bạn tỉnh táo và nhận biết, cái đó sẽ trợ giúp.

 

BỊ ĐẦU ĐỘC TẠI NƯỚC MỸ CỦA RONALD REAGAN

 

 [Sau một thời kỳ 7 tuần – suốt thời gian đó những bác sĩ không thể chữa cho Osho khỏi bệnh nhiễm trùng tai, và bệnh tình đang trở nên nghiêm trọng – Osho xuất hiện vào 6/11/1987, để loan báo rằng:  những bác sĩ của ông tin rằng ông bị đầu độc bằng thallium trong thời gian ông bị giam tù tại Mỹ.]

 

Y sĩ riêng của tôi, bác sĩ Amrito, ngay lập tức thông báo cho những sannyasin-bác sĩ khắp thế giới, và yêu cầu họ liên hệ với những chuyên gia giỏi nhất về độc dược, bởi vì theo sự phân tích của riêng ông, là trừ khi tôi đã bị đầu độc ở đó, thì không thể nào giải thích tại sao cơ thể tôi đã mất hết mọi đề kháng. Và khi ý tưởng này trở nên mạnh mẽ trong trí ông, từng bước một, ông bắt đầu đi sâu vào vấn đề này, và ông phát hiện ra tất cả những triệu chứng mà có thể xảy ra nếu một loại độc dược nào đó đã được cho tôi uống.

 

Kể từ 12 ngày này, trong nhà tù Mỹ, mọi giấc ngủ đã biến mất. Nhiều cái bắt đầu xảy ra trong cơ thể mà trước đó không xảy ra: sự thèm ăn hoàn toàn biến mất, thực phẩm dường như hoàn toàn không có mùi vị, một cảm giác cuồn cuộn [nôn nao] trong bao tử, nôn mửa, buồn nôn … không cảm thấy khát, nhưng có một cảm thức như thể mọi sự đã bị nhổ rễ. Cái gì đó trong hệ thần kinh cũng có vẻ như bị chấn thương.  Đôi khi,  có một cảm giác rần rần chạy khắp cơ thể, rất mạnh mẽ – nhất là trong cả hai bàn tay tôi – và mi mắt giật giật.

 

Ngày tôi bước vào tù, tôi cân nặng 150 pound (68 kg) ; hôm nay tôi chỉ còn 130 pound (59 kg). Và cách đây đúng 3 tháng, cái xương trong bàn tay phải của tôi bắt đầu nhức dữ dội. Tất cả đều là những triệu chứng của những chất độc nào đó. Bác sĩ Amrito ngay lập tức thông báo cho tất cả những sannyasin-bác sĩ của tôi, để họ tiếp cận tất cả những chuyên gia giỏi nhất về độc dược trên thế giới. Và một trong những bác sĩ, bác sĩ Dhyan Yogi, ngay lập tức lấy mẫu máu, mẫu nước tiểu, mẫu tóc của tôi, và đi sang nước Anh, sang nước Đức, tới những chuyên gia giỏi nhất. Những chuyên gia châu Âu gợi ý rằng, sau 2 năm, không có độc dược nào có thể được phát hiện trong cơ thể, nhưng tất cả mọi triệu chứng cho thấy một chất độc nào đó đã được sử dụng.

 

Những chuyên gia châu Âu tại Anh và Đức đã gợi ý đó là thallium, một chất độc thuộc hệ "kim loại nặng".[6] Nó biến mất khỏi cơ thể trong vòng 8 tuần lễ, nhưng để lại những hậu quả của nó và hủy diệt sức đề kháng của cơ thể chống lại những bệnh tật. Và tất cả những triệu chứng mà tôi đã kể với bạn, là một phần của việc bị đầu độc bằng thallium.

 

Bảy tuần này bạn đã không nhận biết … bạn chỉ đơn giản nghĩ rằng tôi bệnh. Bác sĩ Premda, nhà phẫu thuật mắt của tôi, đã cấp tốc đến từ Đức với những loại thuốc tốt nhất, nhưng không có gì giúp chống lại những chất độc trừ ra những buổi thiền định của tôi – thứ thuốc duy nhất mà có thể vượt lên mọi thứ thuộc về vật chất. Trong bảy tuần này, tôi đã nằm trong bóng tối gần như suốt ngày và đêm, im lặng chứng kiến cơ thể và giữ cho ý thức của tôi không bị phủ bóng tối bởi bất cứ cái gì. Tôi đang vùng vẫy đấu tranh với  cái chết, nó là một cuộc chiến giữa cái chết và tình yêu của các bạn. Và các bạn nên ca hát mừng vui,  vì tình yêu của các bạn đã chiến thắng.

 

Có lẽ sẽ rất đau đớn cho tôi nếu phải xa lìa các bạn trong tình trạng đẹp đẽ này, khi các bạn đã bắt đầu tăng trưởng đi lên. Tôi muốn người của tôi tự chuyển hóa chính mình, và thông qua họ, tôi muốn mang sự văn minh và nhân tính đích thực đến cho hành tinh đẹp đẽ này.

 

Chỉ có duy nhất một tôn giáo, và đó là tôn giáo của tình yêu. Chỉ có một Thượng đế, và đó là Thượng đế của lễ hội, của sự sống, của hoan ca.  Toàn bộ trái đất này là một và nhân loại là một. Chúng ta là những thành phần của nhau.

 

Tôi không có than phiền nào chống lại những ai mà đã đầu độc tôi. Tôi có thể tha thứ cho họ một cách dễ dàng. Họ chắc chắn không biết cái mà họ đang tiếp tục làm.

 

Người ta nói rằng lịch sử lặp lại chính mình. Không phải lịch sử lặp lại chính mình; đó chính là sự vô ý thức của con người, sự mù quáng của con người mới lặp lại chính mình. Cái ngày mà con người sẽ có ý thức, tỉnh táo, và nhận biết, thì sẽ không có bất cứ sự lặp lại nào nữa. Socrates sẽ không bị đầu độc, Jesus sẽ không bị đóng đinh, Al – Hillaj Mansoor sẽ không bị ám sát và bị giết mổ.[7] Và đây là những bông hoa đẹp nhất  của chúng ta, họ là những đỉnh cao nhất. Họ là vận mệnh của chúng ta, họ là tương lai của chúng ta. Họ là cái tiềm năng nội tại của chúng ta mà đã trở thành hiện thực.

 

Tôi chắc rằng, bạn sẽ không có bất cứ thoáng giận dữ nào trong trái tim bạn, hay bất cứ sự thù hận nào đối với bất cứ ai, mà chỉ có sự hiểu biết và sự tha thứ đầy yêu thương. Đó là sự cầu nguyện đích thực duy nhất. Và chỉ có loại cầu nguyện này mới có thể nâng nhân loại lên một tầng ý thức cao hơn.

 

Tôi có một xác tín nội tại tuyệt đối: Họ đã có thể đầu độc cơ thể tôi, hệ thần kinh tôi, nhưng họ không thể hủy diệt ý thức của tôi, họ không thể hủy diệt bản thể của tôi. Và thật tốt là họ đã cho tôi một cơ hội để thấy chính tôi vượt lên thân xác mình, vượt lên  tâm trí mình.

 

Bảy tuần lễ này đã là một cuộc thử lửa. Bạn không biết, bạn luôn luôn, mỗi khoảnh khắc của bảy tuần lễ này, đã là một trợ giúp vô cùng lớn cho tôi. Không có tình yêu của bạn, có lẽ tôi đã không thể vượt qua chất độc, bởi vì nếu không có tình yêu của bạn, tôi sẽ thậm chí không cần phải tranh đấu. Tôi đã thành tựu viên mãn và tuyệt đối toại nguyện; tôi đã về đến nhà. Nhưng tôi thấy bạn đang còn vấp ngã, quờ quạng, và tôi sẽ là rất vô tâm và không từ bi, nếu rời bỏ bạn trong tình huống này. Trong mỗi cuộc đời của các bạn, tôi muốn thấy một bình minh, những con chim đang hót và những bông hoa đang nở. Ngoài cái đó ra, tôi không có bất cứ lý do nào khác để có mặt ở đây.

 

Hãy nhớ: tôi có mặt ở đây là vì bạn. Cái ký ức đó sẽ giúp bạn không đi lạc đường.  Cái ký ức đó sẽ giúp bạn nhận biết cái thế giới thiếu văn minh mà trong đó chúng ta đang sống, trong cái ngôi nhà điên này mà chúng ta gọi là nhân loại. Nó sẽ tiếp tục nhắc nhở bạn, rằng chúng ta phải khai sinh ra một con người mới và một nhân loại mới.

 

Đây là một thách thức vô cùng lớn. Những ai mà có đảm lược và trí thông minh, và một ước vọng và hoài bão muốn chạm tới những ngôi sao xa nhất … chỉ có những con người ít ỏi này mới có thể hiểu tôi, mới từng có thể trở thành những bạn đồng hành của tôi. Tôi không có bất cứ đệ tử nào cả – tôi chỉ có những người yêu và những người bạn và những bạn đồng hành. [8]

 

Tôi muốn tất cả các bạn có thể đạt tới cái diễm phúc tương tự, sự phúc lạc tương tự, và cơn xuất thần tương tự mà đã trở thành chính nhịp đập của trái tim tôi. Nó cũng là nhịp đập trái tim của toàn vũ trụ.

 

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC THẾ GIỚI

DÀNH CHO TÍNH SÁNG TẠO

 

 [Vào 17/1/1988, Osho nói về một " thị kiến"  cho cái công xã,  nhằm tạo ra một nơi gặp gỡ, mà ở đó mà người ta có thể khám phá cả khoa học bên ngoài về vật chất lẫn khoa học thiền định bên trong. Nó là một đề xuất mà trong quá khứ ông vẫn thường xuyên nói về,  nhưng bây giờ ông cải thiện nó càng nhiều hơn.]

 

Tôi muốn cái ashram này dần phát triển thành một Viện Hàn lâm Khoa học Thế giới dành cho sự sáng tạo. Đây có lẽ là cái tổng hợp lớn nhất đã từng có. Cuộc tìm kiếm những chân lý tôn giáo của bạn không hề ngăn trở cuộc tìm kiếm thực tại khách quan, bởi vì những lãnh vực này tuyệt đối tách rời nhau; chúng không chồng chéo lên nhau.

 

Bạn có thể vừa là một nhà khoa học, vừa là một thiền giả. Thật ra,  bạn càng đi sâu vào thiền định, bạn càng phát hiện rằng, thêm nhiều sự sáng tỏ, nhiều thông minh, nhiều năng lực phát minh sẽ nở hoa bên trong bạn, mà có thể sáng tạo ra một khoa học hoàn toàn mới.

 

Khoa học cũ được tạo ra như là một phản ứng chống lại tôn giáo. Khoa học mới, mà tôi đang nói về, không phải là một phản ứng chống lại cái gì cả, mà là một năng lượng trào dâng, sự thông minh, tính sáng tạo. Chính trị đã làm hư hỏng khoa học bởi vì mối quan tâm của riêng nó chỉ là chiến tranh. Những tôn giáo đã không thể chấp nhận khoa học, bởi vì tất cả chúng đều mê tín, và khoa học dự định phá hủy mọi thần linh của chúng, và tất cả những mê tín của chúng. Khoa học đã trải qua 300 năm trong một tình huống rất khó khăn, một mặt nó phải chiến đấu chống lại tôn giáo, và mặt khác, nó đã một cách vô ý thức trở thành một kẻ nô lệ cho nhà chính trị.

 

Tôi muốn nơi này phát triển, và tôi đang làm những thu xếp cho một viện hàn lâm khoa học và nghệ thuật thế giới, hoàn toàn hiến dâng cho những mục tiêu khẳng định sự sống.

 

Cái khoa học mà có thể tạo ra Hiroshima và Nagasaki và hủy diệt hằng ngàn người, chim chóc, cây cối – không có lý do nào, chỉ bởi vì những nhà chính trị muốn xem thử là năng lượng nguyên tử có phát huy hiệu năng hay không – cũng chính nó có thể tạo ra nhiều thực phẩm hơn, nhiều sự sống hơn, sức khỏe tốt hơn, nhiều thông minh hơn, trong tất cả mọi lãnh vực của cuộc sống. Nhưng nó nên được lấy ra khỏi bàn tay của những nhà chính trị và nó không nên bận tâm về những tôn giáo.

 

Những người đoạt giải Nobel, những nhà khoa học kiệt xuất, những nghệ sĩ của những chiều kích khác nhau, sẽ cấu thành viện hàn lâm, và họ sẽ làm những nỗ lực để thay đổi toàn bộ cái khuynh hướng có tính hủy diệt của khoa học.

 

Những sannyasin của chúng ta – trong số họ có nhiều người là nhà khoa học, nghệ sĩ, y bác sĩ – sẽ giúp hàn lâm viện. Chúng ta sẽ cấp những học bổng, và người từ khắp thế giới có thể đến và nghiên cứu một con đường khoa học mới, một con đường nghệ thuật mới mà khẳng định sự sống, mà tạo ra nhiều tình yêu hơn trong nhân loại, và chuẩn bị cho cuộc cách mạng tối hậu.

 

Cuộc cách mạng tối hậu là (tiến tới) một chính phủ quốc tế duy nhất – bởi vì chừng nào mà thế giới chưa có một chính phủ độc nhất, bạn không thể chận đứng chiến tranh.  Từ xưa tới nay, mỗi  dân tộc phải có quân đội của riêng nó, những phòng vệ của riêng nó, những vũ khí của riêng nó, và có một cuộc cạnh tranh về việc ai có sức mạnh hủy diệt nhiều hơn. Nhưng một khi có một chính phủ quốc tế duy nhất, thì không cần có quân đội, không lực, hải quân; tất cả những cái này có thể được chuyển hóa thành những dịch vụ hiến dâng cho sự sống, cho toàn thể nhân loại. [9]

 

Và Hàn lâm viện Khoa học Thế giới sẽ là bước đầu tiên, bởi vì nếu chúng ta có thể đưa những nhà khoa học khắp thế giới dần dần ra khỏi cái vòng kìm kẹp của những nhà chính trị, thì mọi quyền lực của những nhà chính trị sẽ bị kết liễu. Họ không hùng mạnh; nhà khoa học là sức mạnh đằng sau họ. Và nhà khoa học đang ở trong khó khăn, bởi vì không có học viện nào trên thế giới mà sẽ cung cấp cho nhà khoa học đủ phương tiện mà anh ta cần để làm việc.

 

Cái thời khi mà Galileo có thể làm một phòng thí nghiệm nhỏ trong nhà của riêng mình,  và những nhà khoa học có thể làm việc một cách độc lập mà không có sự hỗ trợ nào từ bên ngoài, cái thời đó đã qua lâu rồi. Bây giờ khoa học đã trở nên quá phức tạp, và đã phát triển quá nhiều ngành – và mỗi ngành chính nó đã trở thành một khoa học – đến nỗi, trừ khi anh ta được hỗ trợ bởi chính phủ hay một tổ chức rất có thế lực, có tiền, có trí thông minh, có những nhà nghiên cứu tận tụy, thì nhà khoa học không thể làm việc.

 

Dường như sự hiện hữu đang sắp xếp cho vấn đề tiền bạc mà chúng ta sẽ cần để tạo ra cái viện hàn lâm. Một nhân vật khác rất quan trọng tại Nhật Bản, người nắm giữ nhiều tổ chức cho những dịch vụ nhân đạo, sắp đến để xem liệu có thể mang tiền bạc từ những tổ chức đó để tạo ra cái viện quốc tế này hay không. Và nó sẽ có sự hỗ trợ từ khắp thế giới, từ mọi nhà khoa học không có ngoại lệ, bởi vì hiện nay mọi người đang thấy rằng họ đang phục vụ sự chết, chứ không phải sự sống.

 

Chúng ta có thể có thư viện lớn nhất dành cho nghiên cứu khoa học, và chúng ta có thể có những sannyasin làm việc, nghiên cứu. Cái tổng hợp sẽ là, mọi người đang làm việc trong viện cũng sẽ thiền định, bởi vì trừ khi thiền định đi sâu vào trong bạn, thì những nguồn suối tình yêu của bạn sẽ vẫn còn yên ngủ. Sự phúc lạc của bạn, niềm vui của bạn, sẽ vẫn còn chưa nở hoa.

 

Con người không phục vụ  khoa học, khoa học là để phục vụ con người.

 

Nhưng những nhà khoa học đang ở trong khó khăn. Họ không thể làm việc một cách cá nhân; họ phải làm việc dưới một chính phủ. Mối quan tâm của chính phủ là chiến tranh, và không có tôn giáo nào sẽ ủng hộ họ, bởi vì những phát kiến của họ tiếp tục hủy diệt những mê tín của tôn giáo.

 

Có một khoảng  chân không [vacuum][10] khổng lồ mà tôi muốn lấp đầy bằng cách tạo ra một viện hàn lâm thế giới hoàn toàn dâng hiến cho sự sống, tình yêu, tiếng cười – hoàn toàn dâng hiến cho việc tạo ra một nhân loại tốt hơn, một bầu không khí tốt hơn, trong sạch và mạnh khỏe hơn, và phục hồi môi trường sinh thái đã bị khuấy động.

 

Chúng ta đang tìm kiếm những nguồn tài chánh để mua toàn bộ Koregaon Park. Và có một điều tốt về Ấn Độ: vật giá thì rẻ hơn, và người ta có thể đến từ mọi nước, có mặt ở đây 3 – 4 tháng, và rồi về nước; trong 8 tháng ở trong nước,  họ có thể kiếm đủ tiền và trở lại. Họ không cần phải làm việc ở đây. Ở đây là cái thất cho việc thiền định của họ. Và tôi muốn tất cả mọi chiều kích – những nhạc sĩ tài ba nhất để dạy bạn âm nhạc, những họa sĩ ưu tú nhất dạy bạn hội họa, những nhà thơ giỏi kiệt xuất nhất dạy bạn kinh nghiệm về thi ca và sự biểu hiện của nó.

 

Tôi là một người mơ mộng vô phương cứu chữa.

 

Nhưng tôi có thể nói với bạn rằng, bất kể tôi mơ cái gì trong đời tôi, tôi đã xoay xở nó thành công, mà không làm gì cả. Chỉ là một đề xuất ra cho sự hiện hữu …

 

YAHHOO! BÔNG HỒNG HUYỀN  BÍ

 

[ Vào 19/8/1988, Osho khởi đầu một loạt những buổi nói chuyện, mà sẽ là lọat cuối cùng, dành riêng cho việc trả lời những câu hỏi. Trong suốt những buổi nói chuyện này, ông bắt đầu phát triển một loại thiền định "buông bỏ" [let-go],[11] mà ông đích thân hướng dẫn. Ông cũng giới thiệu cái mà ông gọi là một "lời chào bằng mật chú" [mantra salute][12] – dựa trên một câu chuyện đùa mà ông đã kể ở một trong những buổi nói chuyện của mình ; đó là việc giơ cả hai  cánh tay vào không khí và hô to "Yaa – hoo!"

 

Vào 30/4, Osho loan báo rằng, ông đã phát triển một tiến trình mới, mà ông gọi là "liệu pháp thiền định." Sau những thí nghiệm đầu tiên, tiến trình này được cải thiện :  nó diễn ra 3 giờ một ngày qua một giai đoạn 3 tuần –  một tuần của tiếng cười, một tuần của nước mắt,  và một tuần của việc chứng kiến im lặng. Không có sự tương tác nào giữa những tham dự viên và không có nhà trị liệu nào, mà chỉ có một "kẻ trợ giúp" [13],  đã được huấn luyện trong việc hướng dẫn tiến trình. Nó được gọi là "Bông Hồng Huyền Bí."]

 

Không có lọai thiền định nào hiến tặng cho bạn nhiều bằng "thủ thuật" nhỏ bé này. Đây là kinh nghiệm của tôi về nhiều buổi thiền định, rằng cái phải được làm, là phá vỡ 2 " tầng" [layer][14] trong bạn. Tiếng cười của bạn bị đè nén; bạn đã được bảo, " Đừng cười to, nó là một vấn đề nghiêm túc." Bạn không được phép cười to trong nhà thờ, hay trong một giờ học ở trường đại học…

 

Do vậy, cái "tầng" đầu tiên là tiếng cười, nhưng một khi tiếng cười đã kết thúc, bỗng nhiên bạn thấy mình bị ngập lụt bởi những giọt nước mắt, thống khổ. Nhưng cái đó, nữa, cũng sẽ là một hiện tượng "trút gánh" to lớn. Nhiều cuộc đời đau đớn và khổ sở sẽ biến đi. Nếu bạn có thể loại trừ được hai "tầng" này, thì bạn đã tìm thấy chính mình.

 

Tôi đã phát minh ra nhiều loại thiền định, nhưng có lẽ cái này là cái cốt yếu và nền tảng nhất.

 

[Trong những tuần sau đó,  Osho thêm vào hai liệu pháp thiền định, đó là thiền  "Vô-trí",[15] và thiền "Tái-sinh [born again]." [16] Thiền Vô-trí bắt đầu với việc "nói lắp bắp" [gibberish],[17] và sau đó là sự quan sát im lặng.  Thiền Tái-sinh" cho phép tham dự viên tự do chơi đùa như thể họ là trẻ con. Ông cũng gợi ý rằng, những nhà liệu pháp nào thành thạo trong những loại thiền định và thôi miên có hướng dẫn, nên làm sống lại một kỹ thuật Tây tạng cổ xưa –  một kỹ thuật chữa trị thân-tâm, mà ông gọi là " Tự nhắc nhở chính bạn về ngôn ngữ bị lãng quên, bằng cách nói chuyện với cơ thể."]

 

NHỮNG BÀI NÓI VỀ ZEN

 

[Sau khi hoàn tất loạt bài về Bông Hồng Huyền Bí, Osho bắt đầu nói về những câu chuyện về Zen và haiku. Như là thành phần của những buổi nói chuyện về Zen, ông trả lời những câu hỏi từ biên tập viên của ông, về ý nghĩa của những câu chuyện và những bài haiku, và thường hay bình luận về những vụ việc hiện hành trên thế giới, và những mối quan tâm có tính xã hội. Nhưng ông không bao giờ, một lần nào nữa, trả lời những câu hỏi về những mối quan hệ giữa những con người, và những vấn đề cá nhân khác. Những buổi nói chuyện của mình, ông thường dành riêng cho cây cỏ bao quanh thiền phòng, về những con chim, những đám mây, hay những hạt mưa, hay những yếu tố khác của thiên nhiên. ]

 

Một trong những điều cơ bản nhất mà tất cả các bạn cần phải nhớ, là một tôn giáo chỉ sống động khi nào không có học thuyết [18] được tổ chức, không có những hệ thống tin tưởng, không giáo điều, không thần học. Khi chỉ có sự im lặng này, và cỏ cây đang thưởng thức vũ điệu trong cơn gió nhẹ, thì trong trái tim bạn, một cái gì đó tăng trưởng. Nó là của riêng bạn, nó không đến từ bất cứ kinh điển nào; không ai có thể trao nó cho bạn bởi vì nó không phải là kiến thức.

 

Đó là sự khác biệt lớn nhất giữa tất cả mọi tôn giáo ở một phía, và Zen, ở phía bên kia. Mọi tôn giáo trừ Zen ra, đều chết cứng. Chúng đã trở thành những thần học, những hệ thống triết học, những học thuyết, hóa thạch, nhưng chúng đã quên mất ngôn ngữ của cây cỏ. Chúng đã quên mất sự im lặng mà trong đó ngay cả cây cỏ cũng có thể được nghe và được hiểu. Chúng đã quên mất niềm vui – niềm vui đó phải hồn nhiên và tự phát – khởi lên từ trái tim của mọi sinh linh.

 

Cái khoảnh khắc mà kinh nghiệm trở thành một lời giải thích, một sự diễn đạt, thì nó không còn thở nữa; nó chết – và khắp thế giới, người ta đang khiêng những học thuyết chết.

 

Tôi gọi Zen là tôn giáo duy nhất đang sống, bởi vì nó không phải là một tôn giáo, nó chỉ là tính tôn giáo. Nó không có giáo điều, nó không lệ thuộc vào bất cứ kẻ sáng lập nào. Nó không có quá khứ; thật ra,  nó không có gì để dạy bạn. Nó là điều kỳ lạ nhất mà đã từng xảy ra trong toàn bộ lịch sử của nhân loại – kỳ lạ nhất bởi vì nó tận hưởng trong sự trống rỗng, nó nở hoa trong hư vô [nothingness].[19] Nó được thành tựu viên mãn trong sự hồn nhiên, ngây thơ, không phải trong "sự biết." Nó không phân biệt giữa cái "trần tục"  và cái thiêng liêng. Đối với Zen, tất cả những gì hiện hữu đều thiêng liêng.

 

 [Những buổi thiền định có hướng dẫn ở cuối những bài nói về Zen trở nên dài hơn, và Osho thêm vào một giai đoạn "nói lắp bắp”.  Kế đó, là tọa thiền im lặng, rồi đến  "buông bỏ" (thư giãn cơ thể và té xuống sàn), rồi trở lại tư thế ngồi để bước vào sự im lặng sâu hơn, và sau cùng, lễ hội, khi Osho rời thiền phòng. Osho hướng dẫn hội chúng qua những giai đoạn im lặng, và mỗi giai đoạn được loan báo bằng tiếng đập trống.]

 

Hãy im lặng. Hãy nhăm mắt, hãy cảm nhận rằng cơ thể bạn đang hoàn toàn đông cứng.

 

Bây giờ hãy nhìn vào bên trong, thu góp tất cả ý thức của bạn – hầu như một mũi tên, bay về phía trung tâm.

Tại trung tâm bạn là vị Phật. Ở ngoại vi, bạn có thể là bất cứ ai đó, Tom, Dick, Harry; ở chu vi, tất cả các bạn đều khác nhau, nhưng tại trung tâm, cái bản tính cốt yếu của bạn là bản tính của một vị Phật, con người của Đạo.

 

Mỗi lúc càng sâu hơn – bởi vì bạn càng đi sâu, kinh nghiệm của bạn về thực tại vĩnh cửu càng nhiều hơn. Những bông hoa sẽ bắt đầu mưa xuống bạn, toàn bộ vũ trụ sẽ mừng vui vì sự im lặng của bạn.

 

Hãy chỉ là một nhân chứng, từ trung tâm, và bạn đã về tới nhà.

Để làm rõ…

(Tiếng đập trống)

 

Hãy thư giãn. Hãy đơn giản nhớ rằng bạn chỉ là một nhân chứng. Cơ thể không phải là bạn, tâm trí không phải là bạn. Bạn chỉ là một tấm gương. Và khi bạn ổn định vào trong một sự chứng kiến (hồn nhiên) như tấm gương, thì toàn bộ vũ trụ mặc lấy một hình thức vô cùng đẹp. Mọi sự trở nên thiêng liêng, có thần tính (divine.) Buổi chiều tối này thì tự nó đã đẹp rồi,  nhưng tiếng gầm sư tử của Joshu đã làm cho nó trở nên đẹp tuyệt vời.

Chính trong khoảnh khắc này bạn là một vị Phật.

 

Khi bạn trở lại (cuộc sống bình thường),  hãy mang vị Phật theo với bạn. Bạn phải sống như một vị Phật,  đưa vị Phật vào trong cuộc sống thường nhật của bạn. Tôi chống lại việc từ bỏ thế gian – tôi ủng hộ việc sáng tạo lại thế gian. Càng có thêm nhiều vị Phật, thế gian sẽ có thêm những bầu trời mới, những chiều kích mới, những cánh cửa mới mở ra … những huyền nhiệm mới, những phép lạ mới.

 

Hãy thu góp càng nhiều hương thơm và bông hoa như bạn có thể.

(Tiếng đập trống).

 

Hãy trở lại, nhưng hãy trở lại như là một vị Phật – bình an, duyên dáng [graceful].[20] Hãy ngồi trong vài khoảnh khắc chỉ để hồi tưởng lại kinh nghiệm của bạn về cái không gian mà bạn đã viếng thăm và cái huy hoàng [the splendor] mà bạn đã trải nghiệm.

 

Mọi ngày bạn phải đi mỗi lúc một sâu hơn. Do vậy, hãy luôn nhớ bạn đã đi bao xa: Ngày mai bạn phải đi xa hơn một chút. Có thể phải mất 2, hoặc 5, hoặc 20, hoặc 30 năm – nhưng bạn phải trở thành một vị Phật. Đối với riêng tôi, ngay bây giờ bạn là một vị Phật, bạn chỉ phải có lòng dũng cảm. Trong 30 năm đó, bạn sẽ không trở thành một vị Phật – bạn đã là một vị Phật rồi. 30 năm đó chỉ là để vứt bỏ sự nghi ngờ,  nghi ngờ rằng, làm thế nào bạn lại có thể là một vị Phật được? Cho dù tất cả những vị Phật cố thuyết phục bạn, thì ở dưới sâu (vẫn) là sự nghi ngờ: " Trời đất, tôi? Và là một vị Phật ư?" Nhưng một ngày nào đó, bạn sẽ bị thuyết phục bởi kinh nghiệm của chính bạn. Không có sự "chuyển hóa" [21] thực thụ nào mà không có kinh nghiệm của riêng bạn.

 

KẾT CỤC CỦA " BHAGWAN"

 

[Vào tháng 12/1988,  Osho lại đổ bệnh trầm trọng, đòi hỏi sự túc trực của y sĩ riêng 24 giờ một ngày. Khi ông trở lại thiền phòng sau 3 tuần vắng mặt, ông đưa ra một thông báo gây sửng sốt. Một nữ tiên tri [22] Nhật Bản đã gởi một thông điệp,  rằng cô ta tin rằng Phật Gautama đang dùng Osho như là một "kênh chuyển tải".  Ông xác nhận  rằng điều này là đúng và loan báo rằng ông đang bỏ cái tên Bhagwan. Ông cũng cởi bỏ cặp kính râm mà ông đã mang trong dăm bảy tháng bởi vì ánh sáng video đã quấy rầy đôi mắt ông, và trao nó cho một trong số những đệ tử của ông. Cái tên mới của ông đi qua dăm bảy "biến thể" [variation][23] qua vài ngày kế tiếp, và một cái tên khác xuất hiện để trả lời cho một câu hỏi từ một phóng viên UPI.]

 

Phật Gautama đã trú ẩn [24] trong tôi. Tôi là chủ nhà, Ngài là vị khách. Không có vấn đề về bất cứ sự cải đạo (sang đạo Phật) nào. Tôi là một vị Phật, trong tư cách của riêng mình,[25] và đó là lý do tại sao Ngài đã muốn dùng tôi như là cái "kênh chuyển tải" [26] cho công trình còn lại của Ngài. Ngài đã từng chờ đợi, một đám mây lang thang trong 25 thế kỷ, để tìm một "kênh"  thích hợp.

 

Tôi không phải là một "Phật tử." Và Phật Gautama cũng không có ý định tạo ra những Phật tử, hoặc tạo ra một tôn giáo có tổ chức.  Thậm chí, 25 thế kỷ về trước, Ngài chưa bao giờ tạo ra một tôn giáo có tổ chức. Cái khoảnh khắc mà chân lý được tổ chức, nó trở thành một sự dối trá. Một tôn giáo có tổ chức không là gì khác hơn một thứ chính trị được che giấu, một sự bóc lột tàn tệ bởi giới tăng lữ. Họ có thể là những shankara, imam, rabbi, hay giáo hoàng – nó không tạo ra sự khác biệt nào.

 

Phật Gautama không để lại đằng sau Ngài bất cứ kẻ thừa kế nào. Những lời cuối cùng của Ngài là, " Đừng làm tượng ta, đừng sưu tập những lời nói của ta. Ta không muốn trở thành một biểu tượng phải được thờ phụng. Hoài bão sâu xa nhất của ta, là các ngươi sẽ không là những kẻ bắt chước. Các ngươi  không cần phải là những Phật tử, bởi vì cái tiềm năng của chính ngươi là trở thành một vị Phật."

 

Tôi muốn nói: Vì lý do nêu trên, tôi không dạy đạo Phật, hay bất cứ cái "ism" [chủ thuyết][27] nào.  Tôi dạy bạn trở thành chính vị Phật. Những người mà ở cùng tôi, không là thành phần của một tôn giáo có tổ chức nào. Họ là những kẻ tìm kiếm độc lập, cá nhân. Mối quan hệ của tôi với họ là mối quan hệ của một bạn đồng hành.

 

Nhân thể, tôi phải nhắc bạn nhớ đến lời tiên tri của Phật Gautama cách đây 25 thế kỷ: " Khi ta trở lại một lần nữa, ta sẽ không thể được tái sinh xuyên qua tử cung của một người phụ nữ. Ta sẽ phải lưu trú trong một người có "tâm thức" [consciousness][28] tương tự và chiều cao tương tự và bầu trời mở rộng tương tự. Ta sẽ được gọi là  'người bạn'."

 

Một tự do lớn lao được hàm ẩn trong cái từ đó. Ngài không muốn là guru của bất cứ ai, Ngài chỉ đơn giản muốn là một người bạn. Ngài có cái gì đó để chia sẻ, không có điều kiện nào gắn kết với sự chia sẻ đó.

 

Điều này cũng sẽ giúp bạn, bởi vì một số ít sannyasin bị bối rối về việc làm thế nào họ phân biệt được cổ Phật Gautama và tôi. Lời tiên tri của Phật Gautama sẽ giúp để làm sáng tỏ cho sự bối rối, lẫn lộn này.

 

Mặc dù Ngài đã trú ngụ trong tôi, tôi sẽ không được gọi là Phật Gautama. Tôi thích được gọi theo lời tiên tri của Ngài: Phật Maitreya (Di Lặc).  Maitreya có nghĩa là "người bạn." Cái đó sẽ giữ cho sự phân biệt được rõ ràng.  Sẽ không có sự lẫn lộn nào.

 

[Vào đêm thứ 5 của cuộc " viếng thăm bất thường" [visitation],[29] Osho đến thiền phòng với một loan báo khác. Phật Gautama đã bỏ đi, bởi vì những bất tương thích nào đó trong phong cách sống của vị khách và chủ nhà.]

 

Bốn ngày này đã vô cùng khó khăn đối với tôi. Tôi đã nghĩ rằng, Phật Gautama sẽ hiểu biết về sự đổi thay của thời đại,  nhưng mà không thể được. Tôi đã cố gắng hết sức, nhưng mà Ngài quá khuôn định  [disciplined][30] trong cái cách của riêng Ngài – cách đây 25 thế kỷ – Ngài đã trở thành một "cục xương cứng" [hard bone].[31]

Những điều bé nhỏ lại trở thành khó khăn.

 

Ngài có thói quen chỉ ngủ quay phía bên phải. Ngài không dùng một cái gối; Ngài thường dùng bàn tay mình để làm gối. Cái gối, đối với Ngài, là một xa xỉ phẩm.

 

Tôi nói với Ngài, " Cái gối đáng thương không phải là một thứ xa xỉ, và đặt bàn tay Ngài suốt đêm dưới đầu là hoàn toàn một sự tra tấn. Và, phải chăng Ngài nghĩ rằng, nằm quay mặt về bên phải là đúng, và bên trái là sai?

 

Riêng phần tôi,  đây là cái nền tảng căn bản của tôi, rằng tôi tổng hợp cả hai phía."

 

Ngài chỉ ăn một lần mỗi ngày, và (dù) không nói một lời, Ngài muốn rằng tôi cũng nên làm như vậy. Ngài có thói quen khất thực. Ngài hỏi tôi, " Cái bình bát của ta đâu?"

 

Chiều tối này, vào đúng 6 giờ, khi tôi đang dùng cái bồn tắm của mình, Ngài trở nên rất khó chịu – Bồn tắm?

 

Tắm 2 lần một ngày, cũng là một sự xa xỉ.

 

Tôi nói, " Ngài đã thành tựu lời tiên tri của Ngài rằng Ngài sẽ trở lại. Bốn ngày là đủ – Tôi chào tạm biệt Ngài! Và bây giờ Ngài không cần phải lang thang vòng quanh trái đất nữa; Ngài chỉ đơn giản biến mất vào trong bầu trời xanh tối hậu.

 

" Trong 4 ngày, Ngài đã thấy, tôi đang làm công việc mà Ngài muốn làm, và tôi đang làm nó theo nhu cầu của thời đại.  Tôi không sẵn sàng – trong bất cứ cách nào – tuân theo mệnh lệnh. Tôi là một cá nhân tự do. Vì tự do và tình yêu của tôi, tôi đã tiếp  Ngài như một vị khách, nhưng xin đừng cố trở nên một chủ nhà."

 

Bốn ngày này tôi đã bị nhức đầu. Trong 30 năm, tôi đã không bị nhức đầu, tôi đã hoàn toàn quên thế nào là nhức đầu. Mọi sự đều bất khả. Ngài đã quá quen với cái cách của mình, và cái cách đó ngày nay không còn thích hợp  nữa.

 

Do vậy, bây giờ tôi đưa ra một phát biểu [có tính] lịch sử lớn hơn nhiều,  rằng tôi chỉ là chính mình.

 

Bạn có thể tiếp tục gọi tôi là Phật, nhưng nó không có dính dáng gì tới Phật Gautama hay Phật Di Lặc. Tôi là một vị Phật trong cái tư cách riêng của mình. Từ "Phật" chỉ đơn giản có nghĩa là "kẻ tỉnh thức" [the Awakened One]. [32] Bây giờ tôi tuyên bố rằng, tên của tôi nên là Shree Rajneesh Phật Zorba.

 

[Shree Rajneesh Phật Zorba chẳng bao lâu bỏ tất cả những cái tên của ông, và nói rằng, ông chỉ đơn giản vẫn là vô danh. Tuy nhiên, những sannyasin của ông đều bối rối vì không có cái tên nào để gọi ông. Họ gợi ý muốn gọi ông là  "Osho" – từ này đã xuất hiện trong những câu chuyện Thiền, như là một từ để biểu lộ sự kính trọng và vinh danh. Osho đồng ý và thêm vào từ đó cái nghĩa của riêng ông, liên hệ nó với cái từ “oceani” của William James. Sau này, ông nói rằng, nó không phải là tên ông chút nào, mà chỉ là một "âm thanh có tính trị liệu" [healing sound]. [33]

 

CƯƠNG LĨNH THIỀN: THOÁT KHỎI CHÍNH MÌNH.

 

[Trong tuần lễ theo sau "cuộc viếng thăm" của Phật Gautama, Osho có vẻ như được tiếp thêm sức mạnh và năng lượng từ những nguồn dự trữ mới. Những buổi nói chuyện của ông trở nên lâu hơn – trong một hai dịp, ông nói gần 4 tiếng đồng hồ không nghỉ – và giọng nói của ông rõ ràng là bốc lửa hơn và đầy khí lực hơn. Trong những loạt nói chuyện khác nhau, ông liên hệ Zen với F. Nietzsche và Walt Whitman, so sánh nó với Kytô giáo, và đề nghị nó cho Gorbachev như là một con đường để làm dễ dàng sự chuyển tiếp từ cọng sản sang tư bản. Nhưng vào tháng 1/1989, hai ngày sau khi bắt đầu một loạt bài nói chuyện với nhan đề  " Cương Lĩnh Thiền", Osho bị đổ bệnh trở lại, và không xuất hiện trong thiền phòng cho tới đầu tháng 4. " Cương Lĩnh Thiền" sẽ chứng tỏ là loạt nói chuyện sau cùng của ông.]

 

Cương Lĩnh Thiền là tuyệt đối cần thiết, bởi vì tất cả những tôn giáo cũ đang rã ra từng mảnh. Và trước khi chúng tan rã,  và nhân loại hoàn toàn trở nên điên khùng, Zen phải được quảng bá rộng khắp trái đất. Trước khi căn nhà cũ sụp xuống, bạn phải tạo ra một căn nhà mới.

 

Và lần này, đừng phạm phải sai lầm tương tự. Bạn đã và đang sống trong một ngôi nhà vốn không có thực; do vậy,  bạn đang chịu đựng mưa gió, lạnh lẽo,  nắng gắt,  bởi vì ngôi nhà đó chỉ là một tưởng tượng. Lần này hãy thực sự bước vào trong ngôi nhà nguyên thủy [original][34] của bạn, không phải vào trong một ngôi đền nhân tạo, một tôn giáo nhân tạo nào. Hãy đi vào trong sự hiện hữu của riêng bạn. Tại sao lại là một bản sao, một cách liên tục như thế?

 

Lần này thì rất quý giá. Bạn được sinh ra trong một khoảnh khắc rất may mắn, khi mà ngôi nhà cũ đã mất tính hiệu lực [validity][35] của nó, sức chịu đựng thử thách của nó, khi mà cái cũ đơn giản đang treo lủng lẳng xung quanh bạn bởi vì bạn không đủ dũng cảm để ra khỏi nhà tù. Nếu không thế, thì những cánh cửa đang rộng mở – thật ra,  chưa bao giờ có cánh cửa nào, bởi vì ngôi nhà mà bạn đang sống là hoàn toàn tưởng tượng. Những vị thần của bạn là tưởng tượng, những giáo sĩ của bạn là tưởng tượng, những thánh kinh của bạn đều là tưởng tượng.

 

Lần này hãy đừng phạm phải sai lầm tương tự. Lần này nhân loại phải làm một bước nhảy lượng tử từ những lừa dối cũ kỹ, rã nát, đến chân lý tươi mới, tươi mới một cách vĩnh cửu.

Đây là cương lĩnh của Zen.

 

 

[Những lời cuối cùng của Osho được nói trước công chúng diễn ra ở cuối buổi thiền định cho buổi chiều tối ngày 10/4/1989:]

 

Khoảnh khắc này bạn là những người diễm phúc nhất trên trái đất. Việc nhớ rằng chính bạn là một vị Phật, là kinh nghiệm quý giá nhất, bởi vì nó là vĩnh cửu của bạn, nó là bất tử tính của bạn.

 

Nó không phải là bạn, nó chính là sự hiện hữu của bạn. Bạn là một với những ngôi sao và cỏ cây và bầu trời và đại dương. Bạn không còn bị tách rời.

 

Lời nói cuối cùng của Phật là sammasati.

 

Hãy nhớ rằng bạn là một vị Phật – sammasati.

 

 

"NHÓM NÒNG CỐT [36]

 

[Vào tháng 6/4, Osho thành lập cái mà ông gọi là "Nhóm Nòng Cốt", gồm 21 đệ tử, họ sẽ trông coi việc quản trị thực tế của công xã. Ông không thảo luận nó trong hội chúng, nhưng về sau, ông làm rõ trong những "đường lối" [37] mà ông hoạch định cho nhóm đó,  rằng, mục đích của họ không phải là cung cấp cái chiều hướng tâm linh, mà chỉ là trông coi những khía cạnh thực tiễn, để cho công trình của ông có thể tiến hành. Nếu những thành viên nào của Nhóm Nòng Cốt bị chết, hoặc quyết định rời bỏ vì lý do nào đó, họ sẽ được thay thế bởi quyết định nhất trí của những thành viên còn lại, và tất cả mọi quyết định của nhóm đều sẽ phải được biểu quyết để đi tới sự nhất trí chung.]

 

Bạn không thể tránh một truyền thống; nó nằm ngoài sự kiểm soát. Một khi bạn qua đời, bạn không thể ngăn cản cái mà hậu thế sẽ làm. [38] Thay vì để nó rơi vào tay kẻ ngu dốt, tốt hơn, bạn nên đưa ra đường lối đúng.

 

CHUẨN BỊ CHO CHUYẾN KHỞI HÀNH

 

10/4/1989: Osho bảo thư ký của ông rằng, khi ông hoàn tất bài nói chuyện, thì năng lượng của ông sẽ hoàn toàn thay đổi. Ông giải thích rằng, người ta bước vào thế gian thông qua 9 tháng trong tử cung, thì cũng tương tự, 9 tháng trước khi chết, năng lượng một lần nữa bước vào trong một giai đoạn "ấp ủ" [incubatory][39] của sự chết. Bài nói vào chiều tối này, hóa ra là sự khởi đầu của một loạt bài mới có nhan đề " Sự Giác ngộ của Đức Phật."[40]

 

19/5: Trong một cuộc họp mặt khoáng đại tại thiền phòng, hội chúng được thông báo rằng, Osho sẽ không nói trước công chúng một lần nào  nữa.

 

23/5: Hội chúng được thông báo, rằng Osho sẽ đến thiền phòng [41] trong những buổi chiều tối. Khi ông đến, nhạc sẽ được tấu lên, để cho mọi người có thể "lễ hội" cùng với ông, và tiếp đó, sẽ là một giai đoạn của thiền định im lặng, sau đó, Osho sẽ rời. Một video của một trong số những bài nói của ông sẽ được trình chiếu sau khi ông rời thiền phòng.

 

Tháng 6 – 7

 

Trường Đại học Đa khoa Osho [42] được thành lập, với những "phân khoa" khác nhau để trông coi những " khóa hội thảo " [43] và những chương trình khác nhau đề ra bởi công xã. Những cái này bao gồm Trung tâm Chuyển hóa, Trường Huyền bí, Trường Nghệ thuật Sáng tạo [44] và Trường Nghệ thuật Quân sự.

 

Hội chúng được yêu cầu mặc áo thụng trắng cho những buổi họp mặt lúc chiều tối, và sự thay đổi này được áp dụng trong suốt thời gian diễn ra một festival truyền thống của Ấn Độ – từ lâu đã được cử hành bởi công xã – vào tuần trăng tròn của tháng 7, nhằm tôn vinh những vị đạo sư  chứng ngộ.

 

25/8: Osho gợi ý, rằng nên sắp xếp sao cho áo thụng màu mận tía được mặc trong suốt những sinh hoạt ban ngày bên trong công xã.

 

31/8: Một phòng ngủ mới cho Osho được hoàn tất tại nơi mà trước đây là Thính đường Trang Tử,  tiếp giáp với thất của ông. Ông đã và đang trực tiếp tham dự vào việc thiết kế căn phòng mới này,   được lát đá cẩm thạch và thắp sáng bởi những đèn chùm lớn, với những cửa sổ từ sàn tới trần nhà, nhìn ra khu vườn um tùm vây quanh.

 

14/9: Osho dời về lại phòng ngủ trước đây của ông, và căn phòng mới thì được dùng cho Bông hồng Huyền bí và những liệu pháp thiền "vô trí". Một con đường đi bộ[45] mới, được vây kín bằng kiếng,  có điều hòa không khí – trước đây nó được xây để cho Osho đi dạo trong vườn – sẽ được dùng cho việc thực hành thiền vipassana, thiền tọa, và những nhóm thiền im lặng khác.

 

17 /10: Osho ra huấn thị về việc cái gì sẽ xảy ra khi ông rời bỏ thân thể. Ông cũng yêu cầu thành lập một nhóm để dịch những cuốn sách bằng tiếng Hindi của ông sang tiếng Anh, và ra huấn thị thêm về việc Nhóm Nòng Cốt sẽ hoạt động ra sao.

 

24/12: Tờ The Sunday Mail, UK, đăng một bài báo, nói rằng Vatican chịu trách nhiệm một phần về việc Osho bị trục xuất khỏi nước Mỹ.

 

17/1/1990: Y sĩ của Osho loan báo rằng, từ nay về sau, Osho sẽ không thể ngồi trong thiền phòng trong suốt buổi thiền định lúc chiều tối nữa, nhưng sẽ xuất hiện một cách ngắn ngủi để chào hội chúng và rời ngay sau đó. Khi Osho xuất hiện trong thiền phòng, hiển nhiên là ông rất mỏng manh ,  đứng không vững.

 

19/1/1990: Osho rời bỏ thân thể vào lúc 5 giờ chiều, từ chối việc chữa trị bất thường – được gợi ý bởi bác sĩ của ông – với những lời: " Sự hiện hữu quyết định cái thời điểm của nó", và bình an nhắm hai mắt lại,  ra đi. Bác sĩ của ông báo tin buồn vào lúc 7 giờ tối,  khi mọi người tụ tập trong thiền phòng cho cuộc gặp gỡ thường lệ vào buổi tối.  Sau một khoảng cách thời gian ngắn ngủi để cho phép những người bạn thông báo với những ai không có mặt trong thiền phòng,  nhưng muốn đến viếng,  thi hài của Osho được đưa vào thiền phòng để hành lễ trong 10 phút, rồi được tang chúng rước tới địa điểm hỏa táng gần đó,  nơi mà lễ "tiễn biệt" dành cho ông tiếp tục suốt đêm.

 

Hai ngày sau, tro của Osho được mang đến Thính đường Trang Tử – căn phòng mà đã được tân trang như là một "phòng ngủ" mới – nơi mà ông đã có những buổi nói chuyện và gặp gỡ với những sannyasin và những kẻ tìm kiếm trong nhiều năm. Tro được đặt, theo di huấn của Osho, "dưới giường" – một phiến [46] cẩm thạch ở trung tâm một phía của căn phòng mà quả thực đã được thiết kế như là một cái "bục giường" [bed platform][47] –  và được bao phủ bằng một tấm thẻ nhôm, trên đó được khắc những lời mà vài tháng trước đó ông đã đọc để ghi lại:

 

OSHO

CHƯA BAO GIỜ SINH RA

CHƯA BAO GIỜ CHẾT ĐI

CHỈ VIẾNG THĂM HÀNH TINH NÀY GIỮA

1931 – 1990

 

 

EPILOGUE : Từ 1990 CHO ĐẾN NAY.

 

[Công xã Quốc tế Osho tại Pune tiếp tục phồn thịnh và đã phát triển thành một khu nghỉ mát sang trọng [48] cho thiền định và tự-phát-hiện [self-discovery],[49] theo cái "dự án" mà Osho đã đề ra trong những tháng trước khi ông qua đời. Ông đã đích thân tham dự nhiều trong việc thiết kế của những "cơ sở nới rộng" – bao gồm những tòa nhà có hình kim tự tháp cho những buổi thiền định và những "nhóm nghiên cứu", một spa, khu liên hợp [50] thể thao và giải trí, và một thiền phòng mới hình kim tự tháp, mà được dự tính là sẽ phải được hoàn tất trước tháng 1/2001.]

 

Lòng tin cậy của tôi vào sự hiện hữu là tuyệt đối. Nếu có bất cứ sự thật (chân lý) nào trong cái mà tôi đang nói, nó sẽ trường tồn. Những người mà vẫn còn quan tâm đến công trình của tôi sẽ đơn giản đang mang ngọn đuốc, nhưng họ sẽ không áp đặt lên bất cứ ai.

 

Tôi sẽ vẫn còn là một nguồn cảm hứng đối với người của tôi. Và đó là cái mà phần lớn sannyasin sẽ cảm nhận.

 

Tôi muốn họ tăng trưởng một cách độc lập, [trên đôi chân của của riêng họ] – những phẩm chất giống như tình yêu, xung quanh nó không có giáo hội nào được tạo ra, giống như sự "nhận biết", vốn không là độc quyền của ai cả; giống như lễ hội, vui chơi, và vẫn còn giữ mãi đôi mắt trẻ thơ, tươi mới …

Tôi muốn người của tôi biết chính họ, không theo ai khác.

Và con đường là ở bên trong. [51]

 

HẾT

 

 

 

NỘI DUNG:

 

PHẦN I: CHỈ LÀ MỘT HỮU THỂ NGƯỜI BÌNH THƯỜNG:

LỊCH SỬ ĐẰNG SAU TRUYỀN THUYẾT.

 

I.Những thoáng nhìn về một thời thơ ấu vàng son.

1931 – 1939: Kuchwada, Madhya Pradesh, Ấn Độ.

II.  Tâm hồn nổi loạn .

1939– 1951: Gadarwana, Madhya Pradesh, Ấn Độ.

III.  Tìm kiếm cái bất tử.

IV.  Chứng ngộ:  cắt đứt với quá khứ.

V.    Mài sắc thanh gươm.

* 1953 – 1956 : Sinh viên Đại học.

* 1957  – 1966: Giáo Sư Đại học.

VI.   Trên đường.

VII.  Diễn đạt cái bất khả diễn đạt: những khoảng im lặng giữa những lời nói.

 

 

PHẦN II: NHỮNG PHẢN CHIẾU TRONG MỘT TẤM GƯƠNG SOI TRỐNG RỖNG: NHIỀU KHUÔN MẶT CỦA MỘT KẺ CHƯA BAO GIỜ TỒN  TẠI.

 

VIII. Đạo sư sex.

IX.   " Giáo chủ thời thượng."

X.   Kẻ bịp bợm.

XI. Vị Bhagwan tự phong.

XII. Đạo sư (guru) của người giàu.

XIII. Kẻ thích đùa.

XIV. Đạo sư Rolls – Royce.

* 197 8: Pune, Ấn Độ.

* 1981 – 1985: Oregon.

XV. Người  đạo sư.

 

PHẦN III: DI SẢN

 

XVI. Tôn giáo phi tôn giáo.

XVII. Thiền định cho thế kỷ 21.

1972: Trại Thiền, Mt. Abu, Rajasthan, Ấn Độ.

XVIII. Tâm lý học thứ 3: Tâm lý học của chư Phật.

XIX. Phật Zorba: hữu thể người toàn bộ.

 

 

 

APPENDIX:  [ Phụ Lục]

 

 

NHỮNG NÉT LỚN VỀ CUỘC ĐỜI &

SỰ  NGHIỆP   CỦA  OSHO.

 

*11 Tháng 12. 1931.

* 1932 – 1939: Kuchuwada.

* 1938 – 1951: Gadarwara.

* 21 tháng 3. 1953: Chứng ngộ.

* 1951 – 1956: Sinh viên đại học.

* 1957 – 1970 : Giáo sư đại học & diễn giả.

* 1970 – 1974: Bombay.

* 1974  – 1981: " Pune I".

* 1981 – 1985: Đại nông trại Bùn Lầy.

* 1985 – 1986: Chuyến du hành vòng quanh thế giới.

*  1987: "Pune II".

 

EPILOGUE: TỪ 1990  ĐẾN HIỆN TẠI.

 

Tự Truyện Osho được ấn hành vào dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 60 của người dịch.

Tạm gọi là một món quà dành tặng người thân và bạn hữu.

 

Nhìn lại quãng đời qua, mấy ai không có chút tiếc nhớ những ngày xanh

đã mất?

 

Mấy ai không ngậm ngùi trước cuộc bể dâu?

 

Nhưng thôi. Có nói gì đi nữa, cõi người ta, muôn đời e  vẫn vậy.

 

Cho nên, vẫn tự nhủ thầm, cứ an vui mà sống – khi mình còn hơi thở.

 

Và, cũng có khi lòng bỗng thấy vui, vì chợt nhớ ra, mình vẫn đang còn

sống trên đời.

 

Dalat. 10. 11. 2006.

Mùa quỳ vàng

 

 



[1] Legal secretary.

[2] A power trip.

[3] Duality.

  [4] Background.

[5] “ Bất cứ loại lệ thuộc nào đều là một sự nô lệ, và sự nô lệ tâm linh là sự nô lệ tồi tệ nhất trong tất cả.” [ Osho]   Rất đáng suy ngẫm!

[6] Heavy metals.

[7] Butchered.

    [8] “ Tôi không có bất cứ đệ tử nào cả – tôi chỉ có những người yêu, những người bạn và những kẻ đồng hành.”

[ Osho]     Cần lưu ý câu này.

   [9] “Một chính phủ quốc tế duy nhất, thì không cần có quân đội, không lực, hải quân; tất cả những cái này có thể được chuyển hóa thành những dịch vụ hiến dâng cho sự sống, cho toàn thể nhân loại.” [ Osho]  Bao giờ nhân loại mới có ‘ một chính phủ quốc tế’ ?  Phải chăng, đó là một điều ‘ không tưởng’ ?

[10] Vacuum.

[11] Let-go.

[12] Mantra salute.

[13] Facilitator.

[14] Layer.

[15] No-mind.

[16] Born again.

[17] Gibberish.

[18] Doctrine.

[19] Nothingness. Tánh không.

[20] Graceful.

[21] Conversion.

[22] Seeress.

[23] Variation.

[24] Take shelter.

[25] In my own right.

[26] Vehicle.

[27] Chủ nghĩa.

[28] Consciousness.

[29] Visitation.

[30] Disciplined.

[31] Hard bone.

[32] The Awakened One.

[33] Healing sound.

[34] Original.

   [35] Validity.

[36] THE INNER CIRCLE,

[37] Guideline.

[38] “ Một khi bạn qua đời, bạn không thể ngăn cản cái mà hậu thế sẽ làm.” [ Osho]   Đúng như Osho đã dự đoán: sau khi ông qua đời, nhiều “ bạn đồng hành” [ đệ tử] của ông đã phản bội “ giáo huấn” của ông.

[39] Incubatory.

[40] Awakening of the Buddha.

[41] Meditation hall.

[42] Multiversity.

[43] Workshops.

[44] School of Creative Arts.

[45] Walkway.

[46] Slab.

[47] Bed platform.

[48] Luxury resort.

[49] Self-discovery.

[50] Complex.

[51] And the way is in.

 

Đỗ Tư Nghĩa
Số lần đọc: 2487
Ngày đăng: 09.10.2012
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Tự Truyện Osho 11 - Đỗ Tư Nghĩa
Tự Truyện Osho 10 - Đỗ Tư Nghĩa
Thái Tuấn Nghệ Sĩ (1918-2007) - Nguyễn Xuân Sơn
Tự Truyện Osho 9 - Đỗ Tư Nghĩa
Tự Truyện Osho 8 - Đỗ Tư Nghĩa
Tự Truyện Osho 7 - Đỗ Tư Nghĩa
Tự Truyện Osho 6 - Đỗ Tư Nghĩa
Tự Truyện Osho 5 - Đỗ Tư Nghĩa
Tự Truyện Osho 4 - Đỗ Tư Nghĩa
Tự Truyện Osho 3 - Đỗ Tư Nghĩa
Cùng một tác giả
Tự Thú 1 (chân dung)
Tự Thú 2 (chân dung)
Tự Thú 3 (chân dung)