Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.078
123.202.111
 
Âu Thị Phục An Và Những Sợi Tơ Vàng
Đặng Kim Côn

 

Nếu đã có không ít người yêu văn chương trước 75 vui mừng khi bất chợt gặp lại Âu Thị Phục An trong một vài trang web với những truyện ngắn, vừa nhú lên như những búp măng đầy hứa hẹn của một thời (như Thăm Viếng, Sói Đồng Hoang, Một Ngày Không Định Trước…), thì, cũng không ít độc giả đã giật mình với sự xuất hiện những vần thơ đầy tính mới mẻ, mới mẻ như những dấu chân mở đường của một cơn tỉnh thức, sau những tháng năm (cũng như độc giả)

mộng du quanh quẩn trong thiên đường vô ngôn, đã như bị bóng đè không dậy nổi…

 

Tôi nghĩ là tôi đã nói không quá, bởi, nếu như độc giả có dịp lướt qua những trang Da Màu, Tiền Vệ, Văn Chương Việt, LitViet, Sáng Tạo… sẽ thấy có những ngòi bút phê bình quen thuộc đã không ngại ngần đặt Âu Thi Phục An lên một vị trí trang trọng trên chiếc chiếu hoa “VĂN MIỀN NAM THỜI CHIẾN”

 

Trong 117 truyện ngắn, truyện ngắn này (Văn Miền Nam - Thư Ấn Quán sưu tập), Thăm Viếng (ÂTPA) đã theo đuổi tôi mãi sau khi tôi gấp sách lại. Không phải vì đây là truyện ngắn xuất hiện đầu tiên trong tuyển tập, cũng không vì người viết mới 21 tuổi khi truyện đăng tháng 2 năm 1975. Nó theo đuổi tôi bởi vì nó rất mới lạ trong suy nghĩ của tôi. Nó mới ở chỗ, cô có suy nghĩ một cách độc lập đến cái hạnh… cái định nghĩa của hạnh phúc (Nguyễn Thi Hải Hà)

 

Tôi kinh ngạc một cách thích thú khi biết tác giả Âu thị Phục An mới trên 20 tuổi mà đã viết được một cách tinh tế những ngại ngùng bối rối, những xót xa âm thầm… (Trần Bình Dân).

 

Độc giả sẽ không lấy làm lạ, tại sao MỞ một tập thơ, lại thấy nói toàn văn! Tôi nói ngay, không lạ đâu, ý tôi, nhà thơ ÂTPA của chúng ta hôm nay, ngày xưa là thế đấy! Con tằm đó đã không chết vì những nhát búa đóng lên 1975, mà “đã đi qua hơn ba mươi năm bầm dập để kiếm sống...” ( ÂTPA, bài phỏng vấn của Hai Trầu, trong “14 Tác Giả, mỗi người mỗi vẻ”), để cho chữ nghĩa đóng kén nằm im, như ghi nhận của Lương Thư Trung (Hai Trầu) “Như chị vừa nói : vầng trăng tôi bị đời ăn đi trong một đoạn đời rất lâu mà sau đó, từ cuối năm 2007, tôi đã làm thơ lại”, có nghĩa là chị đã tìm lại được mình giữa muôn trùng bất trắc của dòng đời (LTT). Và, những chiếc kén đó, đã và đang cho chúng ta những sợi tơ vàng.

 

Chúng ta đang bước vào RỤNG XUỐNG TRĂM NĂM, thi phẩm thứ 2 của ÂTPA, sau NGUYỆT THỰC, cái “vầng trăng tôi bị đời ăn” đó đã (không thể dùng chữ gì khác hơn) thành công, ít nhiều để lại những âm vang (nếu không muốn nói là chấn động) trong giới yêu thơ, ở hải ngoại: “…cũng như nhiều ngòi bút chân thực khác trên thế giới trong các xã hội chuồng trại, chính là vùng đất ươm mầm cho tiếng nói của một nhà thơ ngoại hạng (CHÂN PHƯƠNG: KHÁT VỌNG  ĐƯỢC LÀM NGƯỜI QUA THƠ ÂU THỊ PHỤC AN) hay “…Ít lâu sau cô ra tập thơ đầu tay, được nồng nhiệt đón nhận từ giới yêu thơ. Nhiều nhà phê bình thơ có uy tín trong và ngoài nước đã đọc và đánh giá rất công bằng về tài năng của ATPA” (ĐỖ XUÂN TÊ: Âu Thị Phục An, Khuôn mặt thơ tôi yêu), cũng như ở trong nước: “Thơ Âu Thị Phục An, nhiều lúc có nét sáng lóa và huyền bí như vậy, tạo dựng một khuynh hướng thi ca có nét sống mãnh liệt, đầy dương tính, pha trộn ý thức hóa sinh đầy rẫy hơi thở tiềm phục. Mở ngõ tử sinh cho gió bốn phương tràn ngập, mang âm sắc thinh lặng ngàn xưa lang thang về cõi sống (NGÔ NGUYÊN NGHIỄM: Người Đồng Hành Quanh Tôi, tập 3), và “…Thế giới thơ của Phục An đa chiều, rộng nghĩa. Chị đã phá bỏ những luật lệ trong thơ cổ điển (như nhiều nhà thơ đi trước đã từng làm) để tìm kiếm cái đẹp, dẫu cho cái đẹp ấy hàm chứa bao nỗi nhục nhằn của một kiếp người. Tuy nhiên, khi đến với thế giới thơ Phục An, nếu chỉ lướt qua, một lần thì dễ bị những ẩn ngữ kia đánh lừa, bởi bề ngoài ngôn ngữ mang đầy chất phồn thực, lớp lớp những khoái cảm của tính dục là “những khắc khoải, thao thức về thân phận, khát vọng làm người của một con người” như chị đã từng tâm sự. (NGUYỄN LỆ UYÊN: Trang Sách Và Những Giấc Mơ Bay, tập 2).

 

Tôi hy vọng độc giả sẽ đón nhận RỤNG XUỐNG TRĂM NĂM như một cuộc tái hợp mong đợi, vì gần như hầu hết những bài thơ được in trong tập này đều đã được các các trang mạng điện tử, các tạp chí văn học uy tín và khó tính tuyển chọn đăng trong nhiều năm qua, và được độc giả yêu thích.

 

Tôi bắt gặp cái nét lãng đãng, phiêu bồng, mơ màng của thơ ÂTPA ngay từ những câu đầu tiên của tập thơ, để không thể không thắc mắc một cách thích thú “Tác giả đang ở cõi nào” mà những viên sỏi cuội trên đường kia lại là con đường lạ, ném đâu chả được lại lựa phải nơi chẳng có nơi nào (phù du) mà ném, và có phải chăng viên sỏi xấu xa kia  dưới mắt nhà thơ bao dung, đã hóa ra nụ hoa thơ mộng?

Hôm qua nhặt sỏi bên đường lạ

Ném xuống phù du một nụ hoa

 (Đường Mơ)

Cả đến cái giọng hờn trách trong một bài thơ buồn, cũng vẫn cái hơi thơ “tiếu ngạo” ấy:

rơi đâu từ lá thu vàng úa

thảng thốt  địa đàng chợt vắng tanh

(Có Khi)

Và những cố tình rất duyên dáng (mà cũng lãng đãng như có như không), mà tôi tin, bạn sẽ mỉm nhẹ nụ cười, khó khăn gì cái câu “Mưa Ngâu Tháng Bảy” quen thuộc, mà sao phải là Tháng Tám:

Khi nào mùa thu tan theo mưa

Đừng vẫy tay chào

Cho ta níu lại

Từng hạt ngâu Tháng Tám.

(Chút Thu Mưa)

 

Nhà thơ nói thế, không có nghĩa là không biết độc giả sẽ không hiểu như thế, cho nên Mưa Ngâu Tháng Tám thì cũng không khác gì Trung Thu Tháng Chín, cứ thả cho nhà thơ bềnh bồng, càng bềnh bồng chúng ta càng có cơ hội thưởng thức được những vần thơ ý nhị, bất ngờ như những giọt mực rớt đại xuống trang giấy:

Hột mưa lăn đại xuống cơn đau thầm

(Cõng)

mặt trời Sài gòn hôm nay ì ạch nỗi buồn.

(Sao em buồn quá)

tia sáng diệu kỳ

bơi nhiệt tình trong nước ối

(Đêm Rằm Ra Đời)

Chúng ngồi thiền lặng như gốc cây

Chúng mơ về cái gì ai biết

(Tất Cả Đều Bỏ Đi)

 

Bên cạnh những gốc cây lơ mơ, “mơ về cái gì ai biết” đó, lại cũng có những hình tượng sống động, vừa như cam chịu cũng vừa như phá phách (một cách đau đớn mà phá phách):

thưa anh ngọn cỏ em mềm/ e đau trái mộng để dành đã lâu 

(Trầm Khúc)

 

Để thấy nhức buốt như khi đứng trước bức họa Skrik (The Scream: Tiếng Thét) của danh họa người Na Uy Edvard Munch:

 

bước tới và bước tới

vọc suối nguồn lạnh căm

tay ta vời bóng tối

khuya rớt giọt máu bầm

(Khuya Rớt)

Em phơi xuân đồi ngà ngọc

Nước trôi dầm dập bờ hông

 

Thở hương hoa hồng thơm lụa

Ngửi em trinh tiết vàng thu

(Cơn Điên Của Sợi Tóc Bạc)

 

đừng đặt tay lên ngực em

đêm nay gió sẽ về qua cửa sổ

Em muốn rồi đó (Bắt Đầu)

tay vọc miền vực thẳm

anh, chạm vào hư hao.

(Biển Đêm)

ngửa thả lướt trên cuồng đêm trượt vào đời anh

hút vào bao la đêm đêm lũ sóng dập dập vào hang động mềm mượt rong rêu xanh um

ép sát vô thường cực bắc cực nam hút sát

anh hôn em em hôn anh níu trái mộng đỏ lòm trực giác

(Trái Mộng Đong Đưa)

 

Như đùa cợt với thân phận mình, có lẽ người đọc dễ nhận thấy, khi bắt gặp những điệp ngữ chập chùng nhảy múa, một cách cố tình, giống như là bí vần, kẹt chữ, mà tôi khó (hoặc không) tìm thấy ở một nhà thơ nào:

khi không trăng gió ngừng trăng gió

kiếp trước kiếp nào ai biết đâu

luân hồi luân chuyển mờ con mắt

có khi ẩn ẩn hồn tố nữ

nhập nhập vờn vờn một đóa tranh

(Có Khi)

Mưa mưa trăng trăng vờn qua phố

(Mưa Trăng)

đỉnh cao, cao đỉnh núi

(Biển Đ êm)

 

Nhưng, như tôi đã nói, những cợt đùa kia phải chăng cũng để “ẩn ẩn” những “Tiếng Thét” xuống ngày tháng mình? Bởi tôi thấy, bàng bạc từng trang nghêu ngao, là những xót xa rất thực, “rất đời thường” và trần gian đến nao lòng:

 

tô thị vời vợi ngóng

những gót chân hoang đàng (Khuya Rớt)

Tóc ai đêm rồi đã bạc

Đêm rồi ngơ ngác tìm xuân (Cơn Điên Của Sợi Tóc Bạc)

Không hẹn hò mà sao mưa bay

Có quen đâu mà tay níu tay (Tìm Chút Nhau)

 

Một vài nơi, tôi bắt gặp chữ Cali, như một tiếng thở dài, một Cali của trăm năm rụng xuống, mất dấu, một Cali mà tác giả muốn khắc khoải cho những ngậm ngùi bên kia bờ, cũng như những đợi mong mòn mõi bên nay bờ, Cali cho tất cả những 36 năm viễn xứ, những lưu lạc năm châu… Nơi đó, “sông núi chờ nhau…” một thứ tình lớn, lớn như những gì đã mất mà “NGƯỜI (đã) không về”. NGƯỜI không về, nên từ đó nhà thơ đã tự lạc loài trên chính quê hương mình “… từ đó, tôi luôn là kẻ ngoài lề, và tôi thích như vậy.

 

Cũng như thời cuộc vậy, chúng ta đều muốn sống hạnh phúc và yên bình cho đến hết một kiếp người, nhưng chúng ta đều đang hụt hẫng và hoang mang bơi trong một vũng lầy... (PA trả lời P/v của Phan Nhiên Hạo)”, hay:

 

- Điều gì là sao Bắc Đẩu khi thơ lạc lối?

- Thường thì tôi thích lạc lối. (PA trả lời P/v của Lưu Diệu Vân).

 

Thích lạc lối, hay kẻ ngoài lề, thì điều đó cũng chưa phải là nấc thang đưa ÂTPA đến gần độc giả, có lần, khi nghe tôi nói đùa “Tôi ganh tỵ với PA đấy nhé”, chị cười rất đỗi thật thà: “Có lẽ do cây bút nữ ít quá, mà lại nữ liều mạng như ÂTPA”

 

Rất mong, độc giả hiểu tôi chỉ là độc giả đầu tiên, và vẫn còn nhiều bí ẩn kỳ thú mà độc giả sẽ giúp khám phá hương sắc của từng đóa hoa trong vườn thơ Rụng Xuống Trăm Năm…

 

California Tháng 10- 2012.

Đặng Kim Côn
Số lần đọc: 2204
Ngày đăng: 21.10.2012
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Huỳnh Kim Bửu và Tiếng hạc bay trên dòng sông Côn. - Trương Văn Dân
Đỗ Thành Đồng Với Túi Ba Gang Đầy Thơ Và Máu - Hoàng Thụy Anh
Họng Đêm Và Những Câu Thơ Bung Gai Giữa Ngày Không Nắng - Hoàng Thụy Anh
Bàn tay nhỏ dưới mưa - Cuốn tiểu thuyết luận đề của Trương Văn Dân - Dương Kim Thoa
Có một chợ trăng của nữ nhi cửu vạn - Lâm Xuân Vi
Comment Cho Thơ Huỳnh Thúy Kiều - Bùi Công Thuấn
Đời Mong Manh Lắm, hãy yêu nhau - Trần Kim Đức
Nhà văn Duyên Anh - Nguyễn Vy Khanh
Mỹ Nhân Tự Cổ Như Danh Tướng / Bất Hứa Nhân Gian Kiến Bạch Đầu - Nguyễn Cẩm Xuyên
Thân Phận Người Nữ Trong Các Tác Phẩm Của Trần Minh Nguyệt - Đặng Quý Địch
Cùng một tác giả
Một Phút (tạp văn)
Sông Núi Trở Màu (truyện ngắn)
Trăng Lý Bạch (truyện ngắn)
Thế Kỷ Nào (truyện ngắn)
Vượt Ngục (truyện ngắn)
Vỡ Tổ (truyện ngắn)
Kinh Kha (truyện ngắn)
Thiền Tăng Và Tôi (truyện ngắn)
Đã Tạnh Mưa Chưa? (truyện ngắn)
Vĩnh Cửu (tạp văn)
Tình Xưa (truyện ngắn)
Mộng Du Chiều (truyện ngắn)
Qua Sông (truyện ngắn)
Chiếc Răng Giả (truyện ngắn)
Quên. (truyện ngắn)