I.
Được tin người yêu chưa cưới “bỏ cuộc” ra thành làm chiêu đãi viên, Long biếng ăn, mất ngủ, thơ thẩn như cái xác không hồn. Cả tuần qua, dường như Long phải cố hết sức mới hoàn thành nhiệm vụ của một hiệu thính minh ngữ.
Sau đôi lần Thủ trưởng gọi Long đến nhắc nhở, phê bình mà vẫn không tẩy được nỗi buồn như đã thấm sâu vào “lục phủ ngũ tạng” của Long. Đến lượt Đoàn thanh niên “ra tay”, những chàng trai, cô gái thay phiên nhau “dần” Long suốt buổi tối. Có lẽ do anh chị em phê phán đạt lý nhưng không thấu tình, Long “nhợn nuốt không trôi” nên “nôn” ra tại chỗ :
“...Trong xã hội, nếu mọi người đều buồn hoặc đều vui là xã hội không bình thường, đó là điều đáng sợ !... Buồn vui là cách biểu hiện tâm trạng từng lúc của con người : Đám tang thì đừng bắt khổ chủ cười, đám cưới thì đừng biểu cô dâu, chú rễ khóc ? Tôi có chuyện buồn thì tôi buồn, chẳng lẽ buồn là cái tội ?... Xin cho tôi cái quyền thật thà ít nhất đối với bản thân mình !.. Cả tuần qua tôi cố hoàn thành nhiệm vụ của mình trong đau khổ chưa vừa hay sao ? Tôi biết, “chỉ có kẻ rách áo mới thương người áo rách”. Không gì hơn, tôi chỉ mong người áo lành đừngmoi móc làm cho áo người rách thêm te tua. Tôi chân thành biết ơn những ai có lời khuyên chân tình đối với tôi và tôi phủ định tất cả những lời đắng cay thiếu tình người. Xin hãy để tôn yên thì tinh thần tôi mới ổn !..”
Bị Long “chận họng” mọi người nhìn nhau, âm thầm quay về với chủ nghĩa Makeno (mặc kệ nó).
Mấy tháng sau, chọn điểm và cắm được đội tuyên truyền xung phong khu vào nội thành, cơ quan triệu tôi về hội nghị. Tôi mừng khi thấy Long đã là Long của ngày nào – xông xáo, vui vẻ, hồn nhiên. Phải chăng niềm vui trong lao động giúp Long sớm hàn gắn vết thương lòng. Có điều “như chim bị ná” Long luôn tránh né “cây cong”.
Đầu năm 1967, bên quân sự cần một hiệu thính nam bổ khuyết cho đơn vị bộ đội tác chiến. Long nài nĩ xin được qua đó. Trong chiến tranh người ta chỉ khuyên chớ đâu có quyền can người nhiệt tâm ra phía trước, cơ quan chuẩn thuận cho Long đi.
Trước khi lên đường, như thấy mình có lỗi, Long đến bắt tay từ giả từng người rồi mới khăn gói lên đường. Tôi tự nguyện tiễn Long một đoạn đến bờ kinh Năm Hang. Bất chấp tiết lạnh tàn đông, Long bọc hành lý bơi sang kinh, lầm lì ra đi khuất dần trong sương sớm. Bất giác tôi cảm nhận mình như Thái tử Đan tiễn Khinh Kha qua sông Dịch sang đất Tần.
Tôi phải bám sát các đội Tuyên truyền Xung phong quanh Thành phố Mỹ Tho, còn Long theo chiến đoàn rày đây mai đó. Tuy chung chiến trường nhưng khác địa bàn hoạt động, chúng tôi không một lần gặp nhau.
Trận tập kích chiến lược Mậu Thân (1968), lực lượng Tuyên truyền Xung phong của chúng tôi cùng với bộ đội quầng nhau với địch suốt bốn ngày đêm trong Thành phố Mỹ Tho. Khi nhận lịnh rút ra ven thị. Bộ chỉ huy tiền phương cho biết : “Sau trận mưa pháo, máy điện đài hư, Long lấy súng địch cùng bộ đội theo đường Trưng Trắc đánh thẳng ra bờ sông Cái, khi đến vườn hoa Lạc Hồng địch phản kích dữ dội, Long tử thương, bỏ xác tại trận”.
Hung tin ấy đến với chúng tôi quá trễ. Lúc ấy viện binh Mỹ từ căn cứ Đồng Tâm đến đông như kiến cỏ, trực thăng quầng đảo trong Thành phố như chuồn chuồn, tàu sắt Mỹ đậu châu đầu vào bờ đen nghẹt tại bến Chương Dương (cạnh vườn hoa Lạc Hồng) chúng tôi chỉ còn biết quay mặt về hướng ấy mà tiếc thương người vắn số !...
Cuộc chiến ngày càng trở nên phức tạp và ác liệt, những người bạn chí thân của chúng tôi “thi” nhau ngã xuống. Buồn đau mới chồng chất lên buồn đau cũ, riết rồi không hơi sức đâu mà buồn đau, con người trở nên lì lợm. Không biết xuất phát từ đâu, câu nói bình thường về cái chết: “Sống ở thác về” – nhưng về đâu thì chẳng ai lý giải. Một câu nói khác lại ra đời “Trần gian là cõi tạm” rồi lý giải cho vấn đề nầy : Trong chúng ta, mỗi người ít nhất cũng đã vài chục năm sống ở cõi tạm rồi, khi nào có “trác” đòi về cõi chính thì chẳng có lý do gì kỳ kèo ? Tuy đó là những lời lẽ hoang đường. song trong bối cảnh thực tại, nó như những liều thuốc an thần hay giảm đau.
Hất hàm về hướng cô gái ngồi lơ đễnh nhìn ra khoảng không, tôi hỏi Tư Mới, trưởng trạm giao liên M.55 :
– Bóng quá vậy ! Khách Y4 (1) hả?
– Y2 đấy chớ... đồng hương với ông đó, nhìn và hỏi thăm tin nhà đi. Cô ả tên Hiệp, đi dự Đại hội “Anh hùng chiến sĩ thi đua” Miền Nam.
– Sẽ ... bây giờ bận việc – Tôi đáp và nói thêm : Tư Mới nè, với tư cách trưởng trạm ông mớm ý trước xem ả có sẵn lòng không - chiều tối tôi quay lai chỗ ông.
-----------------------------------------------------------------------------------------
(1) Bí số : Đông Nam Bộ Y1, Trung Nam Bộ Y2, Tây Nam Bộ Y3, Khu Sài Gòn _ Gai Định Y4
Cố gắng hoàn tất công việc nội chiều hôm đó, tôi nuốt vội bữa cơm chiều rồi xăn xái đến chỗ Tư Mới như đã hẹn.
Là chỗ bạn bè quen biết nhau nhiều năm, tôi và Tư Mới biết cả “ruột gan” của nhau - Giữa mù Đồng Khởi 1960, tôi được điều về công tác ở khu Trung Nam Bộ (Y2). Khi đi tôi gởi lại quê nhà Cha già đầu đã bạc. Đến nay (1970) đã mười năm tôi không một lần về thăm và chẳng được tin tức gì về cha tôi cả. Tư Mới biết tôi khát tin Cha, bao lần mách cho tôi những người đồng hương khi họ qua trạm M.55 nầy. Trong số những người tôi đã hỏi không một ai nói được điều tôi cần biết !... Lần nầy đến thì cứ đến, hy vọng càng mỏnh manh. Bỡi lẽ : Hiệp còn trẻ, dáng vẻ ngường thành thị thì khó có thể biết ông già (Cha tôi) ở rừng ngập mặn ven biển nơi “khỉ ho cò gáy” được.
Trờ vào chòi, tôi nhận ra ngay Tư Mới và Hiệp đang ngồi trên chiếc đệm bàng trải dưới đất uống trà, ăn đậu phộng rang. Họ chưa kịp nói gì, tôi lẹ miệng :
– Chào đại ca và cô Hiệp !...
– Hiệp trố mắt nhìn tôi, ngạc nhiên hỏi :
– Xin lỗi.. Anh là ... , sao biết tôi ?
– Tôi Sáu Tùng ... cô không biết tôi là phải vì chưa một lần đối mặt. Còn tôi biết cô hồi trưa do thằng cha Tư “thèo lẽo” nầy nè ! Tôi vừa nói vừa vỗ vai Tư Mới.
Hiệp vội bụm miệng. Nhìn đôi mắt him hiếp, tôi biết cô đang ém tiếng cười. Với giọng trong trẻo, cử chỉ hồn nhiên, Hiệp nói :
– Ra là anh... Nảy giờ anh Tư nói xấu anh em nghe biết mệt luôn.
– Thật vậy sao ? Anh Tư nói đúng đấy ! Vì tôi có tốt bao giờ !
– Anh gọi Tư “thèo lẽo” không sợ anh ấy giận sao ?
– Nếu giận thì cú đầu trừ đi ! Tôi vừa nói vừa “hiến” cái đầu trước mặt Tư Mới.
Tư Mới không cú đầu trừ mà ghị tôi xuống ngồi cạnh cùng đối diện với Hiệp và nói.
– Hắn là Sáu Tùng Thủ Lĩnh Tuyên truyền Xung phong Khu, đồng hương với em đó. Hắn nhớ cha khóc riết ròm rĩnh ... Em làm ơn làm phước biết gì về cha hắn, nói giải khổ cho hắn đi.
– Anh Tư vui tính và tài thật !... - Hiệp khen đùa.
– Vui tính thì có thể, còn tài về phương diện nào ? – Tư Mới hỏi.
– Dẫn chuỵện, mở đề - gài độ...
– Tôi thọ giáo Sáu Tùng đây thôi ! Tư Mới nói và vò đầu tôi.
*
* *
Đúng như dự đoán, Hiệp không đáp ứng được mong muốn của tôi. Ngược lại cô còn “khảo” tôi về người yêu chưa cưới của mình.
Tôi sửng sốt khi nghe Hiệp nói người yêu chưa cưới của cô công tác điện đài ở Khu Trung Nam Bộ, tên là Bạch Long (còn gọi là Long Trắng). Sự mất bình thường của tôi dù chỉ xuất hiện trong tít tắc, vẫn không qua được đôi mắt tinh đời của Hiệp. Cô hỏi ngay :
– Sao vậy anh Sáu ?
– Ờ !... không... không sao đâu, “gang” Mỹ nó quậy đó thôi.
– Nghĩa là sao em chưa hiểu ?
– Có gì đâu, vết thương còn miểng trong người, thời tiết thay đổi, thỉnh thoảng nó nhói một chút vậy thôi.
Vết thương trong người tôi thì có thật, còn sự hoành hành của nó hiện tại thì không. Tại sao tôi phải phịa như vậy với người con gái đáng thương ? Đó chẳng qua là cớ “hoãn binh” để tìm giải pháp tình thế tối ưu, xử lý hàng lô câu hỏi thi nhau hình thành trong đầu tôi. Chẳng hạn như có nên cho Hiệp biết Long đã chết ? Long có bao nhiêu người yêu ? Người nào “bỏ cuộc” ra thành làm chiêu đãi viên ? Người nào ở đây ? Chẳng lẽ Hiệp tốt giả, xấu thật? Nếu Hiệp xấu sao được đi dự “Đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua” Miền (Miền Nam) ? Sao cô ta dễ dàng lọt vào đường dây giao liên đến tận đây?.v.v...
Bao sự mến mộ, quý trọng của tôi đối với Hiệp giờ đây chỉ còn là sự ngờ vực.
Nếu chọn giải pháp phớt lờ - coi như mình không biết gì về Long thì dễ quá ! nhưng giải pháp ấy sẽ tịt ngòi, không còn lý do nào tìm hiểu xem Hiệp là người tốt hay xấu, phớt lờ cho qua chẳng khác “thả cọp về rừng”, dưỡng hổ ắt phải di họa ? Ngược lại, nếu Hiệp là người tốt mà phớt lờ thì tàn nhẫn quá ! Vậy thì giải pháp tối ưu vẫn là “giải phẩu”, tuy nhất thời gây đau đớn nhưng trị được căn. Tôi còn đang lẩn quẩn trong mớ “bồng bông” ấy, Hiếp thúc :
– Vậy là anh Sáu biết anh Long em ? Nói cho em nghe đi ! Anh ấy hiện giờ đang ở đâu ?
– Cho dầu có biết tôi cũng chưa thể nói – Tôi ra vẻ nghiêm.
– Sao vậy anh ? Hiệp lo lắng.
– Vì tôi chưa xác định cô là người thế nào ?
– Thế nào đối với anh Long hay đối với cách mạng ?
– Cứ cho là cả hai đi.
Có lẽ Hiệp đoán biết được ý tôi, cô không xót ruột muốn biết tin Long nữa mà nhìn thẳng vào tôi nói :
– Cám ơn về sự thẳng thắn của anh, Nhưng tôi phải nói và làm gì để các anh tin tôi là người tốt và thật sự là người yêu chưa cưới của anh Long.
– Việc ấy cô biết hơn tôi.
Ngồi cúi mặt, mệt mõi, chán chường, Hiệp lẩm bẩm với giọng trầm buồn :
– Tôi thật không ngờ cuộc thăm hỏi trở thành cuộc thẫm vấn !... Đang vui vẻ, cỡi mở sớm trở thành nặng nề, căng thẳng !...
Với vẻ không hài lòng, Tư Mới xen vào :
– Khách quan mà nói : Việc đẩy đưa qua lại giữa hai người tôi thấy có cái gì đó chưa thẳng thắn, quá đáng và cố chấp ?! Đề nghị xả căng đi.
Ý kiến đánh giá, nhận xét của cô Hiệp và Tư Mới quả là xác đáng và tôi cũng nhận ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng nầy là do tôi tất cả. Để cho cuộc đàm luận bất đắc dĩ nhưng rất hữu ích cho việc riêng chung nầy khỏi bế tắt, tôi thẳng thắn xả căng :
– Theo thư Mẹ của Long, người yêu của Long (thư không nói tên) bỏ cách mạng ra thành làm chiêu đãi viên, tiếp xúc với những hạng người bất hảo ... tôi có đọc thư ấy và chứng kiến sự đau khổ của Long.
Nghe qua, cả hai ngạc nhiên, sửng sốt trông họ như những “người từ trên trời rơi xuống”.
Sau giây phút bàng hoàng, một nụ cười tiếp sau cái thở phào nhẹ nhõm. Hiệp đơn giản vấn đề với ba chữ chẳng rõ ngô khoai :
– Ra là vậy !
– Vậy là sao ? Có đúng không ? Tôi vặn hỏ.
– Hiện tượng đúng, bản chất sai - Hiệp khẳng định.
– Em giải thích thế nào về chuyện ấy ?
– Chuyện của em dài dòng lắm, liệu các anh có thức nổi để nghe và có tin những gì em sắp nói không ?
– Dầu có mệt cũng phải thức, còn việc tin hay không tùy thuộc vào sự hợp lý và tính thuyết phục của từng sự việc cụ thể.
Đã hơn hai muơi giờ, mọi người lần lượt tắt đèn vào mùng ngủ, lần theo ánh sáng, lũ muỗi và đám thiêu thân đổ xô đến chỗ chúng tôi như vãi trấu. Anh Tư Mới gở đèn treo xa hơn để kéo đám thiêu thân ra, còn lũ muỗi thì đành vậy. Dưới ánh sáng lờ mờ, anh dùng quạt mo phe phẩy xua muỗi, khi cho mình lúc cho Hiệp. Tôi có cảm giác như anh đang khích lệ Hiệp tự chuyện :
“Đầu năm 1965, anh Long và em cùng sinh hoạt trong một Chi Đoàn. Bọn em yêu nhau có trình báo với Chi bộ, Chi Đoàn và gia đình hai bên. Chúng em chưa thể làm lễ cưới vì phải gương mẫu trong phong trào thực hiện ba khoan : khoan yêu, nếu đã yêu khoan cưới, nếu đã cưới khoan có con. Đều là Đoàn viên, chúng em đã sa vào cái khoan thứ nhất, nếu tiếp tục rơi vào những cái khoan sau thì đâu còn xứng đáng.
Không phải mình vi phạm rồi tự biện đâu, theo em nghĩ : Đề ra cái khoan thứ nhất không ổn, bỡi lẽ Yêu là bẫm sinh vốn có của con người. Trừ người bịnh hoạn, phàm nam nữ lớn lên, khi bước vào tuổi trăng tròn đã thấy trong lòng rạo rực yêu, nếu không được yêu đáp lại, người ta cũng có quyền yêu đơn phương nữa kìa ! Yêu đâu phải là cái tội ? Người ta yêu để bụng thì chẳng sao, còn tụi em “thưa thật” thì bị hành xác. Bức bách quá, tụi em mới bỏ cái yêu vào bụng rồi hứa cho qua truông “chúng em không yêu nhau nữa” thế là yên, người ta không muốn nói thật thì mình nói dối cho đỡ cái thân !...
Giữa năm 1965, trong chuyến đi công tác, nhìn giò nhìn cẳng sao đó, ông Mai Tú Mính, cán bộ Thông Tấn khu Trung Nam Bộ hỏi Xã xin anh Long về khu đào tạo cán bộ điện đài. Tụi em chia tay nhau từ đó, đến nay không một lần gặp mặt.
Vài tháng sau khi anh Long lên khu, xét tiêu chuẩn ngoại hình, Tỉnh bí mật rút em về Tỉnh xây dựng lực lượng công tác thành. Thế là em phải ra công khai. Khổ nỗi, em là Đoàn viên ưu tú, đã từng xưng danh tánh trước mọi người làm sao có thể ra công khai được !... Tổ chức gọi em đến bảo : Muốn ra công khai được an toàn phải làm hàng loạt động tác giả để lừa địch và lừa cả người thân của mình. Thế rồi, Bí thư Đảng bộ Xã và một người nữa ở Tỉnh làm “đạo diễn” cho em thủ vai “diễn viên” trắc nết và bội phản. Phải nói vai diễn rất khó cả hình thức và nội dung, phải đạt đến mức “thật hư, hư thật” – Có nghĩa là thật mà không thật, hư mà không hư.
Vì đại cuộc em bạo dạn “bước lên sân khấu”. Cảnh một em tạo cớ cãi lộn với Mẹ ruột mình rồi giận hờn bỏ nhà ra đi. cảnh hai : sau ba tháng học tập công tác thành, em đến hiệu may, thẩm mỹ viện tạo mốt, tạo dáng thời đại rồi lộn về quê lộng lẫy như một bà hoàng. Cảnh ba : Bí thư Đảng ủy Xã chỉ đạo cho Xã Đoàn kiểm điểm em. Vốn không biết ất giáp gì, họ tưởng em hư hỏng thật, từ Ban chấp hành cho đến Đoàn viên thay phiên nhau phê phán em không tiếc lời.. Làm đúng theo “đạo diễn”, ai nói gì thì nói, em ngồi thừ ra đó, thỉnh thoảng lấy gương, son phấn ra soi, dặm, chải chuốt, o bế lại dung nhan. Em trêu ngươi như thế thử hỏi ai còn thương được. cuộc họp kết thúc với 100% phiếu thuận khai trừ em ra khỏi Đoàn và đuổi trong vòng một tuần phải ra khỏi Xã. Đó là cái cách đi về vị trí công tác mới của em.
Vở diễn thành công hơn em tưởng, dư luận không tốt về em lan nhanh, nay cả Mẹ ruột em cũng không thể nói tốt cho con mình, năm tháng bà xấu hổ với xóm làng, khổ đau vì đứa con hư hỏng. Và có lẽ với thất vọng vì con dâu tương lai, Mẹ Long viết thư cho anh ấy. Qua anh Sáu nói đại khái về bức thư ấy, em cũng đoán được phần nào nội dung của nó – bà ấy cũng không thể nói tốt về em. Vậy là bà nói đúng về hiện tượng, sai về bản chất. Đành rằng, có gan làm phải có gan chịu nhưng mỗi khi nghĩ đến nỗi khổ của Mẹ mình, sức chịu đựng của em dao động đến đỉnh điểm.
Đó là tất cả những gì em muốn nói với hai anh, còn việc tin hay không tùy ở người nghe.”
Nói đến đó Hiệp ngưng giọng, cúi đầu cố nuốt nỗi khổ vào trong. Hiệp buồn chớ không khóc, có lẽ cũng chẳng còn nước mắt !...
Không chỉ riêng tôi, bất kỳ ai trông thấy Hiệp lúc nầy chắc chắn phải chạnh lòng thương ! Tôi biết, Hiệp rất sợ va chạm vết thương vừa kéo da non trong người mình nhưng vì thương, vì muốn biết tin Long nên phải bươi móc nó ra để mặc cả với tôi. Bất giác tôi cảm thấy như mình vừa gây ra một tội lỗi ghê gớm, bóp chết những mầm sống đang hồi sinh từ thân cô gái vì nghĩa cả, lắm khổ đau. Phải chỉ thế, theo giao kết, rồi đây tôi phải nói sự thật về Long để đáp lại. Chờ xem sức chịu đựng của cô gái nhận thêm “đòn” nghiệt ngã !..
Sau bước tự trấn an, Hiệp nhìn tôi hí hửng nói như người vừa thoát nạn :
– Đến lượt anh rồi đó. – Nói về anh Long cho em nghe đi.
– Anh sẽ nói về Long sau khi nghe em nói thêm đôi điều về thành tích của em trong những năm công công tác thành (1966 – 1970).
Moi từ giỏ xách ra gói giấy dầu nằm gọn trong bọc ni lon, sợi thun khoan cột túm miệng, Hiệp nói :
– Giấy đi đường em đã đưa cho anh Tư, còn gói nầy “chúng sẽ” thay lời em. Hai anh cứ mở ra xem, em nấu thêm ấm nước, pha trà mới “chống càn”.
“Chúng” là bản báo công của Hiệp và giấy giới thiệu Hiệp với Ban tổ chức “Đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua Miền Nam” được Tỉnh duyệt và ký.
Rõ ra Hiệp là nữ biệt động thành, chiến công của Hiệp viết tóm tắt theo kiểu gạch đầu hàng đến sáu trang giấy đánh máy. Điều thú vị, qui mô từng trận đánh lớn dần theo tỉ lệ thuận với thời gian và tuổi đời của Hiệp. Sắc đẹp cộng với sự lanh lợi, khôn khéo trở thành lợi thế cho Hiệp chui sâu đánh hiễm. Tôi không thể kê hết chiến công của Hiệp vào những trang viết nầy, chỉ vắn tắt hai trận mà tôi thích nhất :
* Hiệp thuyết phục được người quét dọn, đưa quả mìn giờ vào gối đầu (đặt dưới gầm giường) tên Tỉnh Phó nội an đang say rượu nằm ngủ trong phòng. Mìn nổ, thi thể hắn chỉ còn là những mảnh vụn.
* Sau khi xác định mục tiêu, Hiệp gói giấy cho vào giỏ xách quả ĐH10 (mìn định hướng 10 kg) định giờ. Xách giỏ vào nhà hàng, Hiệp dùng lợi thế sắc đẹp, lả lơi đưa đẩy “gợi cảm” với 7 tên trong Bộ chỉ huy hành quân Trung đoàn 10, Sư đoàn 7 Ngụy đang ăn uống, ó ré chung bàn. Sau động tác gọi vói như đã quen thân với chủ nhà hàng, Hiệp để giỏ xách xây mặt mìn về hướng 7 gã, miệng lẫm bẫm : “Bà nầy bộ hồi hôm “hoạt” dữ lắm nên giờ nầy vẫn chưa thức”. Thế rồi Hiệp nhìn chầm vào tên sĩ quan gần nhất, liếc mắt đưa tình nói trỗng (nói không chủ ngữ) : Dòm chừng dùm, mấy thằng choai choai vào xách, phải đền cho em”. Vừa nói Hiệp vừa đi thẳng vào trong rồi lỏn ra cửa sau chưa đầy trăm thước mìn nổ. Người được phân công theo dõi kết quả cho biết : sáu tên tử vong tại chỗ, một tên bị thương xoàng. Tên sống sót nầy biết mặt Hiệp, chúng thông báo cho nhau ra sức lùng sụt. Hiệp bị lộ mặt, tổ chức buộc Hiệp phải giải nghệ biệt động thành giữa năm 1970. Hiệp được bầu chọn là chiến sĩ thi đua của Tỉnh và được giới thiệu đi dự “Đại hội anh hùng, chiến chiến sĩ thi đua Miền Nam”.
Hiệp trở lại cũng là lúc chúng tôi vừa đọc cho nhau nghe xong bản báo công của cô. Thế là mọi nghi ngờ về Hiệp trong tôi được giải tỏa.
Kinh nghiệm ở đời, thà đánh một cái còn dễ chịu hơn đeo đuổi ngắt véo. Sợ đối diện với Hiệp không đủ can đảm nói sự thật về Long, trong khi cô còn đang lúi húi pha trà, tôi gọi nói ngay :
– Hiệp ơi !... Chỉ có chết em mới gặp được Long !...
– Anh nói thế là nghĩa là sao ? Hiệp sửng sốt níu lấy tay tôi hỏi dồn.
– Long đã hy sinh hồi Tết Mậu Thân 1968.
– Biết em đau lòng, nhưng anh không thể nói khác – Ông Tám Chánh (Mai Tú Mính) viết thư báo tử gởi cho gia đình Long vài tháng sau khi nó chết.
Như cây tươi bị lửa táp, Hiệp gục đầu, bụm miệng ém tiếng khóc. Tôi gở lấy bàn tay Hiệp úm vào lòng hai bàn tay tôi khẻ nói : Khóc nữa đi em ... cho vơi bớt nỗi đau!... Hãy vét những giọt nước mắt còn lại cho Thằng Long”.
Dường như không đủ sức chứng kiến cảnh đau lòng nầy, Tư Mới ra ngoài xả căng giây lát rồi trở vào lấy ca pha cho Hiệp nước đường + me.
Sau hơn mười phút ngồi bất động, Hiệp đứng dậy đi nhanh ra ngoài rửa mặt rồi trở vào ngay. Chẳng nói chẳng rằng, Hiệp ngồi phệt xuống đệm, lấy ca nước đường me chiếc ra đầy một ly nhỏ, ngữa mặt trút sạch vào miệng, đẩy ca nước gần lại chúng tôi nói như ra lịnh :
– Uống đi, em đủ rồi. Anh Sáu nói tiếp về anh Long cho em nghe.
– Anh biết em “ngứa” đâu mà “ gãy” ?
– Gãy đúng chỗ người ta ngứa mới tài chớ.
Tôi kể cho Hiệp nghe hầu như tất cả những gì tôi nêu ở phần I.
Sau khi nghe tôi kể, Hiệp nói trong giọng mệt mõi :
– Khi em chấp nhận tự bôi lem mình cũng là lúc em có linh cảm sẽ mất Long. Một tia hy vọng nhỏ là chúng em sẽ hàn gắn lại khi “trắng đen” đã rõ. Giờ đây anh Long không còn nữa, tia hy vọng nhỏ ấy cũng mất theo! Thôi thì đành chấp nhận số phận ít may nhiều rủi !...
– Võng anh đó, em lại nằm cho thư giãn chút đi – Tư Mới bảo Hiệp.
Nằm chưa nóng lưng, Hiệp xổm dậy vói lại :
– Hai anh không phải lo cho em. Tạo hóa dành riêng ch em trái tim và bộ thần kinh chịu lực khá lắm. Hiện giờ nếu cách mạng cần em làm việc gì đó dù nặng nhọc hay nguy hiễm đến bản thân thì em cũng có thể, chớ còn tiếp tục đi dự Đại hội thi đua thì em không thể...
– Nghĩa là sao ? anh Tư Mới hỏi.
– Hai anh thử nghĩ : Em đang mang tâm sư buồn, đến Đại hội thi đua chịu sao nổi tiếng hoan hô, tiếng vỗ tay... cho dầu những tiếng ấy dành riêng cho mình !...
– Bộ em tính bỏ cuộc ? Tư Mới ngạc nhiên hỏi tiếp.
– Cuộc Đại hội thi đua thì bỏ, cuộc cách mạng thì không.
– Không đi dự Đại hội thi đua, em đi đâu ?- Tùng hỏi.
– Về “vá lại vết rách gia đình” và nhận sự phân công của địa phương.
– Em làm như vậy có quá đáng không Hiệp ? Tùng đặt vấn đề.
– Em cũng hỏng biết nữa. Em chỉ nghĩ : Đại hội thi đua là Đại hội vui, em chường cái mặt buồn đến đó sẽ làm cho Đại hội kém vui chớ có lợi gì cho ai ? Em nhứt quyết vậy rồi. Anh Tư giúp thủ tục cho em “đàng sau quay” nghe anh Tư.
Tự thấy mình có lỗi trong vụ nầy, Tùng nói trong tâm trạng ray rứt :
– Cũng tại tôi mà ra cớ sự !... Tôi đã gây khổ thêm cho Hiệp thì tôi không có quyền ép Hiệp làm bất kỳ việc gì trái ý.
– Không, em không buồn giận gì anh đâu ! Dầu sao em cũng biết ơn anh.
– Về việc gì ?
– Tin cuối cùng về anh Long. Anh báo tin về anh Long nhất thời gây cho em nhiều đau đớn - sớm muộn gì em cũng phải một lần hứng chịu. Nhờ anh cho biết anh Long đã chết em mới dám gạt ra khỏi đời mình mối tình đã vô vọng từ lâu.
– Còn việc anh nghĩ xấu về một người tốt, em cũng không buồn giận nữa sao ?
– Hiệp đơn giản vấn đề : Anh nghi oan cho một người rồi cũng chính anh giải oan cho người ấy, vậy là huề.
Theo em nghĩ : Anh hay bất kỳ ai hiểu lầm về em đều là nạn nhân của em cả, bỡi : thời gian qua em cố làm cho mọi người hiểu sai về mình- cho dầu việc làm nầy của em vì đại cuộc. Từ lâu em tự nhủ “tôi làm ta chịu chớ trách ai”.
III.
Năm hôm sau, tôi trở lại trạm M.55 hỏi thăm về Hiệp được anh em ở đây cho biết : anh Tư Mới cạn lời khuyên mà Hiệp vẫn khư khư giữ ý. Cuối cùng trạm làm giấy “hồi hương” cho cô ấy.
Có phải vì quá đau buồn mà Hiệp không thể tiếp tục đi dự Đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua ? Không hẳn thế, như Hiệp đã nói : “Em đang trong tâm trạng buồn, đến Đại hội chịu sao nổi tiếng hoan hô, tiếng vỗ tay” “Đại hội thi đua là Đại hội vui, em chường cái mặt buồn đến đó sẽ làm cho Đại hội kém vui”. Hiệp tự thấy mình đến đó chẳng có lợi gì cho bản thân còn làm ảnh hường đến niềm vui của đại hội. Tốt hơn hết Hiệp quay về “vá lại vết rách gia đình”. Hiệp không đi dự Đại hội chẳng khác gì người nấu bếp “nấu mà không ăn” thì chẳng có gì đáng trách