Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.185
123.216.755
 
Nguyên Cẩn trên cung bậc hân hoan sáng tạo
Tâm Nhiên

 

 

 

 

Giữa phong trần cuộc lữ, nhà thơ Nguyên Cẩn vừa đi vừa ngắm nhìn, lắng nghe và dĩ nhiên là viết, viết và viết liên tục không ngừng. Bút lực dồi dào vững chắc, bền bỉ sâu sắc, lặng đi vào giữa lòng đời, khơi dậy niềm yêu thương, đánh thức lương tri nhân loại một cách tự nhiên truyền cảm lạ thường, thể hiện qua các tác phẩm thơ văn trữ tình đã xuất bản : Gởi lại đôi dòng, Bụi phấn một đời, Cuối đường mây trắng, Gánh tình qua sông, Nhìn sâu trong mắt, Ngồi đợi gió sang canh, Sầu rụng thành hoa, Cà phê không đường, Bóng chữ trước đèn và hàng trăm bài viết còn nằm rải rác trong các bản thảo.

 

Tiến sĩ Kinh tế học nhưng cũng nghiên cứu Phật học đến độ thâm sâu, thấu thị, Nguyên Cẩn biết ứng dụng một cách sinh động vào cuộc sống thường nhật hằng ngày. Vô cùng say đắm nàng thơ đồng thời đam mê sáng tạo và sáng tạo miên man, hân hoan sáng tạo chỉ để hiến dâng cho mười phương mây trắng, kính tặng mặt đất thân yêu trên dặm dài lang thang lữ thứ.

 

Từ bao giờ đến bây giờ, dòng nhân sinh trường mộng vẫn âm thầm chảy trôi giữa đôi bờ sống chết, có không, mộng thực... tưởng chừng như nhận chìm nhân thế trong những cuộc dâu bể mịt mù, điêu linh khủng khiếp, khiến cho Bùi Giáng, một thi sĩ thượng thừa cũng phải kêu lên thảng thốt, sững sờ :

Khổ đau về chẳng hẹn giờ

Hoang liêu phố rộng bước hờ hững đi

Sầu ôi chẳng nói được gì

Chỉ còn máu lệ trên mi mắt trào

Dẫu vẫn biết vô thường đang diễn bày ngay trên từng bước đi của ngày tháng với những bất an rình rập, những vu oan giá họa, những oan khiên nghiệt ngã, những khủng bố dã man… không ngừng bức bách bởi từng trận gió hư vô khô khốc lộng hành, bởi độc thần tín ngưỡng, theo kiểu nô lệ mê tín và bởi sự độc tài, độc quyền một cách vô nhân đạo, vô lương tâm, do chính con người chúng ta gây ra trên khắp mọi miền trên thế giới, nhưng tất cả mọi cuồng phong bão tố kinh hồn, mọi tai ương thảm họa khủng khiếp kia cũng không thể nào dập tắt được ngọn lửa thiêng trong trái tim người, không thể nào hủy diệt được ý chí sáng tạo của con người, nhất là của những đạo sĩ, thiền sư, nghệ sĩ, thi nhân mà trái lại, chính ở ngay cơn lốc bể dâu nọ đã khích động họ lên đường, vượt qua những đoạn trường thử thách của bọn ma quỷ tham sân si. Trong số những nghệ sĩ thi nhân đích thực đó, có Nguyên Cẩn, một nhà thơ, một lữ khách phong trần, dấn bước trong cô đơn lặng lẽ một mình như cưu mang một nỗi niềm chi mà đi khắp ta bà rong ruỗi :

Cuối sông cuối bãi cuối trời

Cuối cùng của những bời bời rối răm

Tình người bọt nước mù tăm

Rừng U Minh vẫn trăm năm u hoài

Biển xa sóng vỗ dạc dài

Tuổi thơ mặn chát trong ngoài ước mơ

Cuộc lữ rong rêu theo gót mộng phiêu lưu tận cuối đất cùng trời, giáp mặt với cõi người ta, từ phồn hoa phố thị đến những làng thôn hoang dã tiêu điều. Phiêu bồng hết mọi vùng biển rộng sông dài, rồi ngao du lên cao nguyên, những xứ miền núi cao, bạt ngàn rừng sâu rú thẳm, mây trắng và sương mù trùng trùng điệp điệp, vừa đi vừa lắng nghe bao nỗi đời rơi xuống xót xa :

Ngả lưng trên đồi nghe chim hót

Chén buồn nghiêng ánh giọt chiều rơi

Tìm quên trong cõi đời vô vọng

Vò rượu tình cay đã cạn rồi

Ngả lưng trên cao nhìn xuống thấp

Người người tất bật địu ngày đi

Gian nan nặng gánh vai gầy trĩu

Cõng suốt trăm năm để lại gì ?

Thi sĩ ngậm ngùi ôm nỗi buồn cô đơn lên núi như Cao Bá Quát, Tản Đà ngày xưa uống rượu tiêu sầu. Rượu tình rượu nghĩa, rượu ngọt bùi lẫn cay đắng đều dốc cạn một lần cho tiêu tan hết những niềm đau thân phận kiếp người. Ơi một kiếp phù du, huyễn hóa chớ có gì quan trọng lắm đâu ? “Trăm năm còn có gì đâu ? Chẳng qua một đám cỏ khâu xanh rì.”  Phải không Nguyễn Gia Thiều ? Chiều hoang vu, đứng trên đồi cao khói sương bảng lảng, nhìn xuống cõi đời bé nhỏ, lô nhô lúc nhúc những sinh linh đang lặn hụp trong u minh tăm tối, đang quằn quại đấu tranh giành giật tiền tài, vật chất, chìm đắm trong đám bùn lầy danh lợi, nhầy nhụa tanh hôi dưới kia mà nhà thơ trầm tư, chạnh lòng trắc ẩn thốt lên những lời thơ như nhắc nhở chân thành :

Người ơi ! Hãy giữ lòng trinh bạch

Cho cõi thơ thanh quý một đời

Tình vẫn ngời thơm manh áo rách

Máu còn thắm sạch trái tim côi

Người ơi ! Hãy giữ lòng ngây dại

Cho ý thơ bay vút tận trời

Cho nụ cười vui luôn ở lại

Dẫu ngàn cay đắng đọng sau môi

Người ơi ! Hãy giữ lời như ngọc

Tạc đá hồn thơ dẫu đoạn trường

Cho kẻ tìm thơ không phải khóc

Lệ buồn “vô mệnh thị văn chương”

Thi nhân trải lòng ra mà tâm sự như thế, thể hiện một phong thái bao dung rộng lượng, muốn cùng chia sẻ với mọi người mọi kẻ khắp chốn nơi nơi, nhất là với những nhà thơ, văn nghệ sĩ, những tâm hồn bẩm sinh nhạy cảm. Hãy biết tự trọng, giữ gìn sự thanh bạch, cao quý, đói cho sạch, rách cho thơm. Dù có bị áp bức đọa đày, điêu linh khổ lụy, thì cũng không bao giờ run sợ, hèn hạ làm kẻ nô lệ, bẻ cong ngòi bút, uốn lưỡi đi tuyên truyền, ca ngợi những thế lực vô minh. Hãy cứ để tự nhiên cho trái tim ngây thơ rung động, nhẹ mỉm cười theo hồn thơ bay vút, trên con đường thênh thang sáng tạo, hướng về Chân Thiện Mỹ, một dải đất luôn luôn mới mẻ, mới lạ ngay trong lòng mình. Chính từ nhãn quan phóng khoáng bao la đó, nhà thơ Nguyên Cẩn dấn thân vào cuộc sống bằng thái độ chân tình, cởi mở. Thở bầu không khí thi ca thuần nhiên chơn chất, rất mực hài hòa :

Người từ ánh sáng đi ra

Tôi từ trong mẹ và cha đi vào

Trần gian kính cẩn xin chào

Trang nghiêm cười khóc lao xao mọc mời

Sóng xô chuyện của một thời

Nước trôi chuyện của một đời phù vân

Cái thân trang trải nợ nần

Chiêm bao kết tụ trắng ngần thành sương

Tử sinh chỉ một con đường

Uy nghi lá rụng vô thường mộng rơi

Chơi giữa vô thường là một cuộc đại hòa điệu chơi với sinh tử bi hùng cùng chiêm bao ảo mộng, hư huyễn phù vân. Thế thì còn chi ly kỳ gay cấn hơn nữa phải không ? Bồng tênh thi sĩ bước đi phiêu diêu giữa vạn pháp chập chùng…Rồi một hôm thư thả, thong dong ngồi lại một mình thiền định, tịch nhiên quán chiếu vạn pháp trong dạt dào cảm xúc lai láng bồi hồi :

Tôi ngồi tựa pháp nghe mưa

Giọt sau chen giữa giọt xưa chan hòa

Tôi ngồi tựa pháp xem hoa

Cánh là diệu hữu nhụy là hư không

Tôi ngồi tựa pháp qua sông

Đò nghiêng sóng động mà lòng thản nhiên

Tôi ngồi ngắm bóng mây thiền

Bến xưa trời cũ muộn phiền nước trôi

Tôi ngồi một cõi rong chơi

Ghế không chiều lạnh quán đời rỗng tênh

Rỗng lặng, rỗng rang khi quán tưởng thấy suốt ba đời, sáu cõi, mười phương trùng trùng pháp giới Hoa Nghiêm đều nằm gọn trong một tâm niệm vi diệu của mình đây thôi, nên hết mình sống mãnh liệt và mãnh liệt hơn nữa. Sống một lần Tự do đầu tiên và cuối cùng như đạo sư Krishnamurti hay sống Tâm tình hiến dâng như thi hào Tagore hoặc sống thơ mộng, hồng hào như đóa hoa sen giữa bùn lầy uế trược bụi phù sinh :

Đóa sen soi lại bóng mình

Giữ lòng trong giữa nhục vinh cõi trần

Bùn danh lợi níu bao lần

Biển tâm sóng dậy xoay vần gió sương

Chân đi không lấm bụi đường

Hồn thơ giũ sạch đoạn trường bước qua

“Chân đi không lấm bụi đường” là bước đi vô sở trụ, vô sở chấp, không dính mắc, chẳng vướng kẹt vào danh với lợi phù du. Bước qua cõi người ta một cách thanh thản nhẹ nhàng, vì thi sĩ đã thấu rõ được cỗi nguồn nhân sinh vô biên vô lượng do trùng trùng duyên khởi, duyên sinh, duyên hợp hòa hài :

Nước từ vô tận trùng lai

Hóa thân ghềnh thác vẫn mài miệt tuôn

Tôi từ giọt máu cỗi nguồn

Nỗi đau phát sáng ánh buồn thành thơ

Chính từ trong bao khổ lụy bi thương, từng uống cạn bao dòng máu lệ trần gian đó mà tấm lòng thi nhân đồng cảm, tiêu hóa, tiêu dung giọt lệ và nụ cười, khổ đau và hạnh phúc... để rồi rung ngân lên thành tiếng thơ tha thiết nồng nàn. Đối với chàng, thơ là phím đàn ngoạn mục, là cung bậc xuất thần linh diệu yêu thương, là nhiệm mầu sâu kín nhẹ vời hơi thở :

Bao giờ cho đến bao giờ

Thơ rung lại nhé phím tơ hồn người

Để thơ chẳng phải về trời

Để người sống lại với đời yêu nhau

Hãy yêu thương nhau đi, hỡi mặt đất thân yêu này, vì chỉ có tình thương mới đem lại hòa bình cho cuộc sống mà thôi. Hãy phát động một cuộc cách mạng tâm thức, một cuộc chuyển hóa tâm linh ngay trong đời sống thường nhật, bằng hết sức sự tinh thành mạnh mẽ nhất. Lên đường khám phá chính mình không phải là chạy khắp đông tây, khắp kim cổ để tìm kiếm mà ngay dưới gót chân, ngay giữa lòng sâu thẳm của mình đây thôi, để phát hiện ra một phương trời bát ngát của tự tâm trầm hùng, phong quang huy hoàng tráng lệ :

Bốn phương sông núi yên bề

Một phương ta mở lối về Chân như

Rỗng rang là cõi thái hư

Là trong trắng mộng vô dư Niết bàn

Niết bàn hay Chân như là bản tâm thanh tịnh của mỗi người trong tất cả chúng ta vốn sẵn có từ vô thủy đến vô chung. Chỉ cần mình tỉnh thức, trực thấy nhận ra, sống với bản tâm đó, thì tha hồ nhập diệu phiêu nhiên, thõng tay vào phố chợ ta bà, tha hồ dạo chơi tự do vô sự giữa muôn chiều diệu dụng Như như.

Giữa cuộc lữ phong trần, chàng thi sĩ Nguyên Cẩn bất ngờ cùng đồng thanh tương ứng với thi hào Vương Duy trên nhịp bước trở về cửa Phật, cửa Không lồng lộng vô ngần :

Nhất sinh kỷ hử thương tâm sự

Bất hướng không môn hà xứ tiêu ?

( Ở đời bao chuyện thương tâm

Không về cửa Phật biết làm sao khuây ? )

Cho nên chàng phấn chấn, rộn rã quy hồi cố quận trên tinh thần trân trọng từng giây phút tân kỳ mới lạ, thưởng thức hương vị tâm thiền uyên mặc, phảng phất tận đáy lòng sâu xa và hòa chan vào với thực tại đang là :

Đã đi mòn một khoảng trời

Đường mây cánh mỏi mà đời chửa yên

Đêm đêm lắng đọng ưu phiền

Chắt chiu một giọt hương thiền tĩnh tâm

Nhân gian quay quắt bụi lầm

Bão từ mê vọng mạch ngầm sóng xô

Mai này trùng ngộ hư vô ?

Thì xin trân trọng phút giờ hiện sinh

Giống như thi sĩ Thụy Điển Tomas Transtromer vừa được giải Nobel văn học năm 2011 tâm sự : “Gần đây, những suy niệm về tôn giáo nảy sinh trong tôi lúc này lúc khác, khiến tôi nhận ra ý nghĩa có mặt trong phút giây hiện tại, trong việc nương vào thực tại, cảm nghiệm nó và sáng tạo nên một điều gì đấy về nó.” Nhà thơ Nguyên Cẩn cũng vậy, cũng thể điệu chịu chơi nhập cuộc vào hiện sinh, vào cái bây giờ và ở đây, ngay trong từng một niệm tưởng sát na :

Niệm tôi một niệm thở ra

Buồn xưa như khói thoảng qua mặt hồ

Niệm tôi bất tận nam mô

Phật từ tâm hiện mây mờ vụt tan

Nụ cười sau những tân toan

Trời giông bão tạnh sóng tràn ý thơ

Niệm tôi thuyền tách bến mờ

Nghiệp duyên giũ sạch sang bờ ngoái trông

Niệm tôi vô xứ vô tông

Quê là huyễn hữu không không là nhà

Niệm tôi một niệm vào ra

Quán trăm năm một sát na ra vào

Một khi khám phá ra quê nhà chính là Tâm Không, Tánh Không, biết mình không từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu, thì an trú vào thực tại hiện tiền. Thế là chàng lãng tử thi nhân đã thấy rồi giữa ngút ngàn sương khói lãng đãng phù vân, chính tâm mình là Phật, chính lòng mình là đạo, nên không còn thắc mắc, tự hỏi đạo là gì như thuở nọ, ngày xưa nữa :

Đạo là gì hay đường đi của gió

Là lối về thanh thoát của mây bay ?

Là hư không vang vọng cuối chân ngày

Là sông chảy nghìn năm không bến đỗ ?

Đạo ở đâu giữa đêm dài trăn trở

Hay nằm sâu trong tiếng thở ban đầu

Hay ngủ yên trong tỉnh thức nhiệm mầu ?

Ta đi hết một đời trong bỡ ngỡ

Đạo là gì hay chẳng là gì cả

Người đi tìm chỉ gặp bóng mình thôi

Soi ánh chiều trên mặt nước buồn trôi

Sẽ chợt nhận hồn say cơn nắng lạ

Là lúc đạo không cần chi phải hiểu

Một khi những trằn trọc buông xuống sạch sành sanh, vắng lặng mọi hướng ngoại truy tìm quay quắt, thì hoát nhiên hiển lộ một phương trời cố xứ Như như, ngay trong lòng thái hư tự tánh thanh tịnh của chính mình, chàng thi sĩ vội quỳ dưới chân Đức Phật giữa đêm giao thừa linh diệu siêu nhiên :

Con khấu đầu xin thôi ước nguyện

Khi hiểu mai về một cõi Không

Bừng lên một sát na vô niệm

Con thấy Như Lai hiện giữa lòng

Và thấy mùa xuân trong khói tỏa

Theo pháo hoa muôn sắc ngợp trời

Chợt yêu một thoáng hương kỳ lạ

Từ đất uy linh thấm mạch đời

Ơi chao ! Gặp Thế Tôn trong tâm hồn mình rồi, thấy Đức Phật đưa cành hoa lên và thi nhân mỉm cười niêm hoa vi tiếu, chợt “bừng lên một sát na vô niệm” phi thường. Đó là giây phút thiên thu mới lạ tuyệt trần mà trong cuộc đời chúng ta hầu như ai ai cũng đều hơn một lần cảm nhận. Vô niệm là một pháp môn độc đáo của Lục Tổ Huệ Năng, chúng ta hãy lắng nghe Huệ Năng phát biểu : “Nếu thấy hết thảy pháp mà tâm không ô nhiễm cũng không vướng mắc, ấy gọi là vô niệm. Hoạt dụng hết thảy chỗ mà chẳng mắc vướng chỗ nào, chỉ cần thanh tịnh bản tâm, để cho sáu thức ra vào sáu căn, đối với sáu trần không nhiễm, không dính, đến đi tự do, ứng dụng vô ngại, tức là Bát nhã tam muội, tự tại giải thoát, gọi là hạnh vô niệm. Chứ chẳng phải như người lầm tưởng cho là “trăm việc không nghĩ tới, làm cho dứt hết ý niệm” thì đó là bị pháp trói buộc, gọi là biên kiến, chỉ thấy một bên thôi.”

Như vậy, vô niệm cũng là vô tâm, vô sự, vô vi, thi nhân dù chỉ mới bừng thấy một thoáng thôi cũng đủ sức mạnh tinh thần, không hề sợ bị đắm nhiễm, nên tiếp tục thung dung, lên đường phiêu lãng ngàn phương cát bụi, cúi lạy dâu biển vô thường, tri ân đất trời bằng cách trì tụng thần chú Đại bi vô lượng nghĩa tình, rồi lại hòa âm dập dìu vô tận theo bước nhảy phiêu linh :

Tình thâm nghĩa trọng ân cần

Biển dâu lạy tạ một lần ra đi

Mai về tụng khúc Đại bi

Nửa đêm hoa rụng tức thì khai tâm

Khai tâm là mở bừng mắt tuệ rực ngời tỏ sáng, thấy mọi sự như thị, đi vào mọi cảnh giới trần gian muôn màu muôn vẻ mà vẫn vô quái ngại, không dính mắc, chẳng bị ràng buộc, trói cột vào đâu hết cả, như thiền sư Huệ Hải tuyên bố : “Nếu biết rõ tâm chẳng trụ tất cả chỗ, thì đích thực là đã thấy được bản tâm. Chỉ riêng cái tâm không trụ vào tất cả chỗ ấy, tức là tâm Phật cũng gọi là tâm giải thoát, tâm Bồ đề, tâm Vô sinh, là Tánh Không rồi vậy.”

Phải chăng, trên ngút ngàn cuộc lữ phiêu bồng giữa nghìn trùng bạt mạng lênh đênh trong đêm dài sinh tử, qua những trầm tư kiếm tìm đến tuyệt lộ, hụt hẫng, chới với... rồi bất thần bùng vỡ, vất bỏ, buông xuống, trút hết mọi vọng tưởng mê lầm, quét sạch cuồng si, ám chướng quỷ ma và ngồi lại tịch nhiên lặng lẽ, lắng nghe từng điệu thở nhẹ nhõm vô tư, tự nhiên quên hết nỗi sầu vạn đại, quên luôn cái ngã chấp âm thầm, quên ta quên người, quên đời quên đạo, quên ngộ quên mê... thì kỳ diệu thay, bất ngờ chàng thi sĩ chợt thấy rộ bừng ra một đóa hoa sen, một nụ hoa lòng Mạn đà la ngào ngạt ngát hương đời long lanh lấp lánh dịu ngời :

Tôi ngồi bờ bãi lênh đênh

Hồn thơ nặng nghiệp nghe kinh lại về

Tôi ngồi tựa pháp tìm quê

Đã lâu lầm lạc lối mê man tình

Tôi ngồi quên bóng quên hình

Quên kinh quên kệ quên mình quên ta

Tôi ngồi sầu rụng thành Hoa

Tịnh liên chớm nở Mạn đà la rơi

Thế là trên cuộc lữ phong trần, nhà thơ Nguyên Cẩn, bằng sự chí thành chân thiết đã chuyển hóa những khối sầu vạn cổ, những ngậm ngùi thế sự bèo bọt, mong manh thành một đóa sen lòng thanh thoát thong dong, giống như thiền sư Nhất Hạnh cũng thường nói : “Hãy ví khổ đau như là rác rưởi và hạnh phúc như những đóa hoa tươi. Khi chúng ta biết chuyển hóa đau khổ thành phúc hạnh là chúng ta biết cách biến rác rưởi trở thành hoa rồi vậy.”

Thực hiện được điều đó giữa cuộc đời là một việc làm hy hữu, thi sĩ hân hoan đi về thế giới nội tâm thâm hậu của chính mình, tịch nhiên lặng lẽ nhẹ mỉm cười nghêu ngao, hào sảng ngâm nga một bài thơ của thằng bạn Tâm Nhiên ở tận cuối góc bể chân trời, mới vừa gởi tặng chiều nay :

Cuộc lữ đó kể từ đâu chẳng biết

Viễn phương ca lãng đãng khúc du hành

Rộn ràng nhịp đập thiên thu mãi

Cùng bao la mây trắng với trời xanh

 

Đi cho hết những đêm dài tận cuối

Mù sương sa trên tuyệt đỉnh sơn hà

Hý lộng dặm trường phương vô trú

Buông và buông bỏ xuống cả cái ta

 

Xả chấp thật nọ này còn dính mắc

Chẳng vương chi hỷ nộ chuyện phù trầm

Sầu rụng thành hoa hòa hài bước

Khắp trăm chiều gần gũi đến xa xăm

 

Chiều xuân ngát dừng chân bên quán

Rượu tình thơ dăm ba cốc ven đường

Đời ta đã muôn trùng vạn ngã

Mà chốn nào cũng về nẻo yêu thương

 

 

 

Thơ Nguyên Cẩn, trích trong 3 thi phẩm :

Ngồi đợi gió sang canh. Nhà xuất bản Thanh Niên, Sài Gòn 2006

Sầu rụng thành hoa. Nhà xuất bản Thanh Niên, Sài Gòn 2010

Còn nữa…mai sau ? Bản thảo 2012

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tâm Nhiên
Số lần đọc: 2203
Ngày đăng: 25.04.2013
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Bàn về cái đẹp và đẹp trong Ngệ -thuật - Nguyễn Quỳnh USA
Một Thời Kỷ Niệm Những Ấn Loát PhẩmThơ-Họa-Nhạc - Trần Văn Nam
Giã từ "mưa Huế" - Trần Trung Sáng
Để nhớ Dương Đình Sang, một họa sĩ tài hoa của Huế - Đinh Cường
Con tim nhà thơ… - Khổng Ðức
ngệ-thuật của Hoàng Ngọc Biên The Art of Hoàng Ngọc Biên - Nguyễn Quỳnh USA
Một thời vàng son văn chương, nghệ thuật và triết lý Âu châu - Võ Công Liêm
Nguyễn Văn Sâm, Nhà Văn Viết Về Những Lập Nghiệp Lên Từ Sông Bến Nghé - Trần Văn Nam
Ca dao và thi ca II là triết lý cuộc đời - Võ Công Liêm
Mỹ học tiếp thụ - Khổng Ðức