Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.185
123.212.103
 
Quan niệm của nhóm Dạ Đài và cách tân bước đầu của thơ Trần Dần
Chế Diễm Trâm

 

 

Tiếp sau Xuân Thu nhã tập (1942), nhóm Dạ Đài (gồm Trần Dần, Trần Mai Châu, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương…) là bước tìm tòi đổi mới cuối cùng của phong trào Thơ Mới. “Với tinh thần tiên phong và ước vọng cao đẹp về sự đổi mới của thi ca Việt, Dạ Đài đã đưa ra những quan niệm thơ mới lạ và giàu ý nghĩa. Nhưng do nhiều lý do, hoàn cảnh nên lâu nay hiện tượng văn chương này chưa được nghiên cứu một cách khách quan, khoa học. Nó không được xếp vị trí chính thức trong tiến trình văn học Việt Nam thế kỷ XX.” (Hồ Thế Hà)(1)

Khởi điểm của Dạ ĐàiBản tuyên ngôn tượng trưng năm 1946 với những quan niệm thơ mới mẻ, độc đáo được tiếp biến từ lý luận văn học phương Tây. Đây cũng là đóng góp lớn nhất của nhóm vì sau khi ra được số đầu tiên ngày 16/11/1946, số 2 chưa kịp ra mắt thì kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Cùng với Bản tuyên ngôn tượng trưng, Dạ Đài in sáu bài thơ của Trần Dần, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch, Trần Mai Châu, Nguyễn Văn Tậu (một bút danh của chính Trần Mai Châu). Tập thơ Một mùa địa ngục (Une saison en enfer) của Rimbaud gợi cảm hứng cho cái tên Dạ Đài. Và cái tên như vận vào số kiếp, Dạ Đài là “ngọn nến bùng lên cuối một thời thơ nhiều hứng khởi và bứt phá. Ngọn nến đó sớm tắt vì hoàn cảnh không cho phép “dung hợp được thực và hư bằng hình tượng” (Huỳnh Như Phương)(2).

 

Khát khao đổi mới thơ Việt của Dạ Đài xuất phát từ quan niệm về sự cạn kiệt, bất lực của các thi sĩ lãng mạn trên con đường duy tân nền thơ dân tộc đã được khai mở từ hơn mười năm trước: “Vả lại, làm sao người ta cứ lặn lội mãi trong mối thất tình eo hẹp? Làm sao người ta cứ khóc mãi, than mãi, rung động mãi theo những con đường rung động cũ? Làm sao người ta cứ nhìn mãi vũ trụ ở ba chiều, và thu hẹp tâm tư ở bảy dây tình cảm! Chúng ta còn có nghèo nàn thế nữa đâu?[*]. “Chúng ta đã chán ngắt cái thi ca nông hẹp, nhai đi nhắc lại những phong cảnh trần gian, những tâm tình thế tục. Chúng ta đã tự nhiên trở nên khó tính: chúng ta muốn vào sâu ngoại vật, nội tâm và muốn đi xa thiên đường, địa ngục. Hãy để cho tiền nhân những cảm giác đơn nghèo. Để cho bọn đồ nho cái công việc ẩn giấu nỗi lòng nhạt nhẽo của họ trong nỗi lòng chung thiên hạ hay trong gió nước, cỏ cây. Để cho bọn đàn bà con trẻ cái công việc than khóc thảm thương trên một kỳ hoa tạ, trên một giấc mộng dở dang. Để cho những thế hệ đã nằm yên cái tôi nông cạn ấy.

 

Có thể thấy, từ năm 1936 trở đi, phong trào Thơ Mới đã hình thành những đứt gãy của thơ lãng mạn do sự ảnh hưởng, tiếp thu chủ nghĩa tượng trưng của phương Tây. Trường thơ Loạn ở Bình Định xuất hiện đã đưa Thơ Mới sang một giai đoạn mới (đầu thập niên 1940, thơ của các thi sĩ lãng mạn đăng trên các cơ quan ngôn luận của Tự Lực văn đoàn như báo Phong hóa, Ngày nay kém dần sức hấp dẫn đối với độc giả trẻ). Bản tuyên ngôn tượng trưng của Dạ Đài tiếp nối hướng đi của Trường thơ Loạn và Xuân Thu nhã tập, đã phê phán lối thơ mòn sáo, “dễ dãi” (từ của Baudelaire) của thơ ca thuộc khuynh hướng lãng mạn duy lý (kiểu giãi bày tâm trạng, thể hiện tình cảm, cảm xúc trực tiếp với một thế giới quá thực): “Chúng tôi không còn khóc, không còn muốn khóc – vì người ta đã khóc mãi ái tình, công danh và thế sự. Chúng tôi không còn nhìn mây, không còn muốn nhìn mây – vì người ta đã nhìn mãi mây chiều cùng nắng sớm.

 

 Dạ Đài luôn đặt mình trong sự đối sánh với thơ lãng mạn để xác định xu hướng cách tân: “Bởi vậy chúng ta chẳng còn là cái chúng ta quá vãng đơn sơ thuần phác nữa: chúng ta đã góp gom hình ảnh tinh cầu và lòng chúng ta đã đầy lên châu ngọc.

Thế cho nên chúng tôi – thi sĩ tượng trưng – chúng tôi có nói cũng chỉ là nói cái tâm trạng của thời nhân, của những thời nhân đã có ngày cô độc.

Những thi sĩ Dạ Đài ảnh hưởng sâu sắc các nhà thơ tượng trưng Pháp nhất là Rimbaud và Verlaine.  Như đã nói ở trên, xu hướng thơ tượng trưng trong Thơ Mới đã có từ trước, nhất là với Trường thơ Loạn (gồm Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê…), Xuân Thu nhã tập (gồm Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ, Phạm Văn Hạnh…), nay lại tiếp tục mở một lối thơ theo hướng tượng trưng cho nhóm Dạ Đài: “Thế cho nên, chúng tôi – thi sĩ tượng trưng – chúng tôi cố gắng đánh thức cái thế giới im lìm đương nằm ngủ ở trong lòng nhân loại. Chúng tôi cố thực hiện một cuộc trở về, chúng tôi cố trở lại cái chúng tôi với tấm lòng khi trời đất khai lập”.

Một lần nữa, họ tuyên ngôn: “Thế cho nên chúng tôi – thi sĩ tượng trưng – chúng tôi sẽ nói lên và chỉ nói lên bằng hình tượng, thứ ngôn ngữ tân kỳ, ngôn ngữ của những thế giới yêu ma, của những thế giới thần nhân mà cũng là của cái thế giới âu sầu đây nữa.

 

Có đến bốn lần cái mệnh đề “chúng tôi – thi sĩ tượng trưng” được lặp đi lặp lại để khẳng định, nhấn mạnh xu hướng cách tân thơ Việt theo trường phái tượng trưng. Tuy vậy, cũng như Xuân Thu nhã tập trước đó, Dạ Đài vừa vươn tới tư duy thơ tượng trưng Âu Tây lại vừa trở về với cội nguồn, về với sự “uẩn súc, huyền ảo” (từ của nhóm Xuân Thu) của thơ Á Đông. Thi sĩ Dạ Đài cũng muốn nối nay và xưa, muốn thâu tóm tất cả tinh hoa thơ ca cổ kim, Đông Tây về một mối, rồi nhào nặn lại thành những giá trị ưu tú nhất: “Chúng tôi sẽ tìm hiểu linh hồn của những ca dao, tục ngữ. Chúng tôi sẽ tượng trưng hóa cái sức rung động của trẻ em trước một chuyện cổ tích hoang đường và cái sức rung động của gã nông phu trước những bản đồng dao thuần phác”, “Chúng tôi sẽ nối lại: nghiệp dĩ của một Baudelaire – tâm sự của một Nguyễn Du – sự nổi loạn và ra đi của một Rimbaud – nỗi cô đơn của những nhà thơ lãng mạn”.

 

            Tuyên ngôn tượng trưng Dạ Đài đã đưa ra những quan niệm về những yếu tố của thơ ca như thế giới nghệ thuật của thơ, nhà thơ, người tiếp nhận thơ khá độc đáo theo huynh hướng tượng trưng. Thơ, theo họ, không thể “nông hẹp”, “nông cạn”, “đơn nghèo”, “nhạt nhẽo”… như trước: “Hãy để cho tiền nhân những cảm giác đơn nghèo. Để cho bọn đồ nho cái công việc ẩn giấu nỗi lòng nhạt nhẽo của họ trong nỗi lòng chung thiên hạ hay trong gió nước, cỏ cây. Để cho bọn đàn bà con trẻ cái công việc than khóc thảm thương trên một kỳ hoa tạ, trên một giấc mộng dở dang. Để cho những thế hệ đã nằm yên cái tôi nông cạn ấy. Muốn vậy, thơ không nên và không thể “đắp lên trên cái trật tự đơn thuần, cái lý trí”, thơ phải là “tất cả một vũ trụ muôn chiều”, phải “góp gom hình ảnh tinh cầu”, từ đường lên “quỹ đạo của trăng sao” tới “đường về trên cõi chết”; từ “quay về thế tục” đến “lấn sang cả bến bờ u huyền”; là “cõi mộng và cõi đời đã thâm nhập và đã thấm trộn cùng nhau trong một cuộc giao hòa bí mật”. Thơ phải “đi giữa bến bờ U Huyền và Hiện Thực, trong thơ sẽ “hiện lên những đường lối u minh”, thơ “sẽ kể lại những cuộc viễn du trong những thế giới âm thầm sự vật”.

 

Thơ là cả một thế giới thực và ảo không chỉ không gian mà còn cả thời gian: “Chúng tôi cố thực hiện một cuộc trở về, chúng tôi cố trở lại cái chúng tôi với tấm lòng khi trời đất khai lập”. Và đây nữa, “thơ phải cấu tạo bằng tính chất của vô biên. Sau cái thế giới hiện trên hàng chữ, phải ẩn giấu muôn nghìn thế giới, cả thế giới đương thành và đương hủy.

 

Thế giới thơ Dạ Đài vì thế mà rất “lạ” – lạ từ cái đã có trong thực tại đến cái ẩn sâu và ẩn sau muôn nghìn thực tại – là “muôn trùng biển lạ”: “Chúng tôi lạ: lạ từng đám mây bay, từng bóng người qua lại. Chúng tôi lạ từng sắc nắng bình minh đến màu chiều vàng vọt. Chúng tôi lạ, lạ tất cả. Và chúng tôi đã thấy những cái người ta chẳng thấy. Chúng tôi đã thấy muôn nghìn thực tại ẩn sau cái thực tại cảm thâu bằng những năng khiếu nông gần.

 

Dạ Đài quan niệm làm thơ là “bản năng”, kết quả của lối viết “thả lỏng đam mê và khoái lạc”: “Người ta tìm mãi Đạo Lý ở đường lên: ghìm giữ bản năng kham khổ ở nhục hình. Chúng ta sẽ tìm Đạo Lý ở con đường xuống: thả lỏng thiên năng đam mê và khoái lạc. Những triết nhân đã chẳng kêu gọi sự quay trở lại đó ư? Và những phong trào xã hội? Chúng ta chẳng nhận thấy rằng người ta đương sức trả lại con người cái trinh bạch đầu tiên, trả lại con người cỏ cây huyền mặc, sông núi hoang sơ? Chúng ta hãy trở về cái bản năng mà thế tình che đậy. Hãy mơ những giấc mơ cầm thú. Hãy gợi lên những cảnh sống âm thầm. Hãy đánh thức hư không, nghĩa là cả tấm lòng xưa man rợ”.

Khi thơ là tiếng nói tự động tâm linh, là “bài ca huyền mặc” thì nhà thơ tượng trưng không chỉ cảm thâu thế giới bên ngoài mà còn phải có cái nhìn “thấu thị” (từ của Rimbaud) thế giới bên trong, không chỉ nắm bắt cái “hiện thực” mà còn cảm thấy cái “u huyền”, bí ẩn, vô hình của cả thế giới hữu thức lẫn thế giới vô thức, một thế giới cao siêu và vĩnh cửu. Lúc đó, nhà thơ dường như không phải là người làm thơ nữa mà là “sống thơ” (từ của Hàn Mặc Tử) hay nói như Chế Lan Viên là “bị thơ làm”. Bởi vì, theo họ, “thi cảm phải gây trong thực tại” nhưng “phải gây nên cả hai không khí hoang đường và hiện thực. Một bài thơ phải chứa đựng những cái gì đã có, nhưng phải mang ở trạng thái tiềm tàng những cái gì có thể có và cả những cái gì không có nữa”, “phải xáo trộn cả thực hư.

 

Thơ, đối với Dạ Đài, tác động đến người đọc như một đấng toàn năng sáng tạo ra cả muôn nghìn thế giới khác, làm rung chuyển muôn nghìn thế giới khác: “Thế cho nên chúng tôi – thi sĩ tượng trưng – chúng tôi sẽ đón về đây tất cả những thế giới quay cuồng, chúng tôi sẽ bắt một vầng trăng phải lặn, một ánh sao phải mờ đi, một chế độ phải tàn vong và một bài thơ phải vô cùng linh động”.  

Quan niệm nghệ sĩ phải là người tinh nhạy cả thế giới thực và ảo bằng cả hồn và xác, cảm hứng nghệ sĩ phải từ cái đã có, cái chưa có và cả cái không có, Dạ Đài cho rằng thiên chức của nhà thơ là tạo nên những “cuộc giao hòa bí mật” giữa cõi thực và hư, cao hơn phải làm cho “trần gian phải hư lên vì sự thực”: “Chúng ta cũng không thể tách lập được hẳn thực hư, và chia đôi địa trấn bằng một bờ sao rõ rệt. Cõi mộng và cõi đời đã thâm nhập vào nhiều nơi, và ở nhiều nơi đã thấm trộn cùng nhau trong một cuộc giao hòa bí mật. Có ở cõi đất chúng ta không: những đường lối cố đô, những vì sao huyền ảo! Nhiệm vụ thi ca là phải khai thông con đường giao cảm ấy. Một đầu phố cô đơn, một con đường thăm thẳm: tất cả những phong cảnh trần gian sẽ phải hư lên vì sự thực”.

Từ quan niệm thơ có tính huyền ảo, bí ẩn, các thi sĩ tượng trưng Dạ Đài xem nội dung của thơ không cần gò bó đề tài, chủ đề: “Đến cái hình thức cao nhất, thơ không còn lý luận, và cũng không còn phải tự dinh dưỡng bằng những thi đề rõ rệt. Chỉ cần có những phút mà Im Lặng rung lên. Vì trong im lặng có tất cả: những thành quách đang xây, những tinh cầu đang đổ vỡ. Thơ chỉ cần bắt được cái âm điệu khởi hành của một bài ca nào huyền mặc”.

 

Khi nội dung thơ đã không theo “chuẩn” thì hình thức thơ cũng “lệch chuẩn”: “Chúng tôi đã không cần tới thi đề, vì thi đề của chúng tôi là tất cả một vũ trụ muôn chiều, và thi liệu của chúng tôi là tất cả mớ ngôn từ rộng rãi”. Cái “mớ ngôn từ rộng rãi” mà Dạ Đài nói ở đây đó chính là thi pháp thơ tượng trưng: ngôn từ của biểu tượng và của nhạc tính.

Dạ Đài cũng như Xuân Thu nhã tập vốn rất tâm huyết thơ tượng trưng, trường phái thơ biểu tượng (symbolisme) giàu sức ẩn chứa và sức gợi ấn tượng. Để tôn trọng điều bí ẩn trong thơ, các nhà thơ tượng trưng tránh sự miêu tả trong thơ mà dùng những biểu tượng để nói về “một sự thống nhất sâu xa và khó hiểu” (Baudelaire) giữa vũ trụ và con người. Vai trò chủ đạo trong nhận thức và sáng tác nghệ thuật của chủ nghĩa tượng trưng là trực giác, vô thức được đồng nhất với sự bừng ngộ thần bí, với trạng thái kích động, thăng hoa.

Dạ Đài vạch ra hướng đi cho thơ là dùng những biểu tượng biến ảo được xây dựng bằng trực giác: “Chúng ta chỉ có một con đường đi để thoát khỏi mê đồ. Chúng ta chỉ có thể dung hợp được thực và hư bằng hình tượng (…) Mỗi một thế giới sẽ nằm trong một tầng lớp của tượng hình: tất cả trần gian sẽ đổi thay trên bề mặt, những cảnh giới hoang vu sẽ nằm giấu bên trong. Thực tại và u huyền đã gặp nhau và chỉ gặp nhau ở thể hình duy nhất đó. Chúng ta đã cứu vãn được: cõi đất chúng ta, cứu vãn được: những cõi đất ngoài kia, và cứu vãn được bằng sức gợi cảm âm thầm hình tượng”, hoặc: “Thế cho nên chúng tôi – thi sĩ tượng trưng – chúng tôi sẽ nói lên và chỉ nói lên bằng hình tượng, thứ ngôn ngữ tân kỳ, ngôn ngữ của những thế giới yêu ma, của những thế giới thần nhân mà cũng là của cái thế giới âu sầu đây nữa.

 

Các nhà thơ tượng trưng chủ nghĩa cho rằng giữa vũ trụ và con người có những mối liên hệ siêu việt. Để nắm bắt và thể hiện những “tương giao bí ẩn” đó, Baudelaire, nhà tiền bối của trường phái tượng trưng, nhấn mạnh sự tương ứng giữa màu sắc, âm thanh và hương thơm:

            Les parfums, les couleurs et les son se répondent

            (Hương thơm, màu sắc và thanh âm tương ứng)

(Tương ứng, Correspondences)

Mallarmé thì nhấn mạnh ý nghĩa thần bí của từ ngữ trong thơ. Rimbaud nêu ý nghĩa của mỗi nguyên âm và phụ âm có tính chất bí ẩn: “Tôi đã sáng chế ra màu sắc các nguyên âm: A đen, E trắng, I đỏ, O tím, U xanh. Tôi đã điều chỉnh hình thức và sự vận động của mỗi phụ âm, và với những tiết điệu có tính chất bản năng, tôi tự hào đã sáng chế ra một ngôn ngữ thơ có thể phù hợp cho tất cả các giác quan”. Còn Verlaine yêu cầu thơ “trước hết phải có nhạc tính”.

 

Dạ Đài cũng rất đề cao tính nhạc huyền diệu của thơ. Theo họ, âm nhạc của một bài thơ phần lớn là do ở sức rung động tâm lý bài thơ ấy chứ không chỉ là do sự kết hợp của “những cú điệu số học, những luật lệ bằng trắc”. Và nói đến âm nhạc trong thơ là phải nói đến “sức khêu gợi của chữ”: “Và những hình tượng còn tạo tác được những âm thanh huyền diệu nữa. Âm nhạc trong thơ không phải chỉ kết hợp hoàn toàn bởi những cú điệu số học, những luật lệ bằng trắc. Biết bao nhiêu câu thơ niêm luật rất tề chỉnh mà vẫn tắt ngấm ở mang tai sau khi chữ cuối cùng vừa đọc hết. Chỉ một sự nhận thức đó cũng đủ chứng tỏ rằng âm nhạc của một bài thơ là do ở sức rung động Tâm Lý của bài thơ ấy. Nói đến âm nhạc trong thơ là phải nói đến sức khêu gợi của chữ. Vì những hình tượng mang nặng những ý tình nên âm nhạc gây nên cũng mang đầy âm sắc. Câu thơ đọc xong sẽ còn đi mãi trong từng ngõ vắng linh hồn và sẽ tắt nghỉ ở tận đáy sâu Tiềm Thức.

 

Muốn như vậy, ngôn ngữ thơ phải “tân kỳ”, là thứ ngôn ngữ từ trong cuộc đời nhưng là ngôn ngữ chưa từng có trong cuộc đời: “Phải lập lại ngôn ngữ trần gian, phải gột bỏ cho mỗi chữ cái tâm tình dung tục cũ. Một câu thơ sẽ có một ý nghĩa – cái ý nghĩa rất thường – nhưng sẽ mang nặng biết bao nhiêu ý nghĩa âm u và khác lạ.

 

 Xuân Thu nhã tập đã từng đề cập đến quan niệm về mối quan hệ tác giả - độc giả: “Thi sĩ làm xong bài thơ, có thể nói: bản đẹp chưa thành. Vì nó còn chờ tác giả thứ hai: người đọc” (Thơ). Quan niệm về tiếp nhận của Dạ Đài cũng đề cao vai trò và trực giác của bạn đọc. Họ đã ảnh hưởng sâu sắc quan niệm của Mallarmé: “không nắm bắt và trình bày ra hết, mà chỉ gợi bằng những hình ảnh có tính chất ám thị… gọi tên đối tượng có nghĩa là phá hủy sự hưởng thụ bài thơ… khêu gợi, đó là mơ ước và mục đích”:

Cảm thâu những bài thơ siêu thực, chúng ta không được dùng lý trí, không được dùng cảm tình, nghĩa là không được chỉ dùng một quan năng tách bạch của chúng ta – dù là quan năng nào đi nữa. Hãy đem tất cả linh hồn, hãy mở tất cả cửa ngách của tâm tư mà lý hội. Trận gió sẽ lên: tức khắc và đột nhiên, vì thơ đã không cần lý luận.

Thói xấu của phần đông những người đọc thơ là tìm nghĩa trước khi tìm cảm giác. Họ đã tự tay đóng cửa lâu đài; đêm có xuống họ chạnh than và kêu gọi.

Và kẻ tiếp nhận thơ sực tỉnh, có nhớ lại cũng chỉ còn nhớ là mình đã tỉnh một cơn mê. Vì hai bến bờ im lặng đã giao nhau và quãng thời gian xao động không còn di rớt lại một khe hở tâm tư, những giây phút đã vỡ ra không còn một minh xác.

            Quan niệm thơ ca của Dạ Đài in đậm dấu ấn của trường phái thơ tượng trưng của phương Tây thế kỷ XIX, là những quan niệm khá trừu tượng đối với thơ Việt Nam bấy giờ. Nó có nhiều điểm tương đồng với tuyên ngôn Xuân Thu nhã tập “mặc dù không hệ thống và sâu sắc bằng quan niệm của nhóm Xuân Thu” (Lê Lưu Oanh)(3). Đóng góp của Dạ Đài chủ yếu là lý thuyết, sáng tác của họ mới ở mức dạo đầu. Tiếp cận một vài bài thơ đầu tay của Trần Dần như Hồn xanh dị kỳ (1944), Chiều mưa – trước cửa (1944), nhất là bài thơ Về nẻo Thanh Tuyền đăng trên Dạ Đài năm 1946[**], chúng ta thấy trân trọng những nỗ lực của nhà thơ trẻ tuổi nhất nhóm nhưng là người đã chấp bút cho Bản tuyên ngôn tượng trưng Dạ Đài ra đời.

 

Người anh em sữa của Trần Dần là nhà báo, nhà thơ Vũ Hoàng Địch (hai người ở cùng một khu phố, cùng bú một bầu sữa mẹ nên Trần Dần gọi Vũ Hoàng Địch là “người anh em sữa”) kể lại: “Trần Dần lúc ấy là người chấp bút tuyên ngôn Dạ Đài, trẻ tuổi nhất nhưng là người đứng ra kêu gọi anh em cùng chí hướng. Lúc đó chúng tôi quan niệm làm Thơ là phải mang một nghĩa khác cho câu chữ, mỗi từ phải mang lại một nghĩa chưa từng có – nghĩa ấy phải khác nghĩa trong tự điển. Làm thơ là Tác Nghĩa, đem lại một cách viết khác. Câu phải là câu của anh, không ai viết được, không ai tạo ra được nghĩa ấy với cùng từ dùng của anh! Đó là quan điểm về thơ tượng trưng của Dạ Đài, nó không công nhận thuyết phản ánh của chủ nghĩa hiện thực thịnh hành lúc đó”(4).

 

Trần Dần không buộc người đọc phải hiểu nghĩa của thơ, nói đúng hơn, ông cố tình đưa người đọc vào một thế giới chưa từng nhận thức, chưa từng chiêm cảm. Trong Bản tuyên ngôn tượng trưng, nhóm thơ Trần Dần quan niệm: “Đã có: Vạn Lý Trường Thành, A Phòng Cung, Kim Tự Tháp. Có thể và không có: thuyền bến Thanh Tuyền, đèn nơi Thiên Cảnh. Hãy nằm dưới một trời sao mà trông về thế tục. Hãy ca lên trong kẽ núi và hát giữa bình sa”.

Ở bài thơ Về nẻo Thanh Tuyền (chú thích [**]), Trần Dần thác lời một hồn ma đã từng uy quyền trên thế gian, nay mất nước, mất hình hài, nằm dưới thủy cung nhưng muốn nổi loạn, muốn làm loạn xứ ma, muốn chuyển gió vần mây, hét vỡ hành tinh, muốn đảo lộn tất cả tinh cầu trên cao, dập tắt ánh tà dương, làm lu mờ trăng sao…Hồn muốn thoát tử trấn về đòi lại cố đô nhưng lại muốn thoát kiếp luân hồi và cũng không muốn lưu chốn Cửu trùng. Muốn thoát hẳn mê đồ, mơ vọng một bến Thanh Tuyền với người con gái rơi châu trên khoang thuyền đắm là giấc mơ miên viễn trong một thế giới mênh mang huyễn ảo và huyền diệu. Đó là thế giới thực - huyễn, bí ẩn tâm thức - huyền hoặc tâm linh trong quan niệm nhà thơ tượng trưng Dạ Đài.

 

 Trước đó một hai năm, nhà thơ trẻ Trần Dần mang vào thơ ảnh hưởng từ thần tượng - nhà thơ tượng trưng Pháp Rimbaud. Trần Dần ngưỡng mộ Rimbaud cả đời sống phiêu bạt, tinh thần tự do vượt ngoài mọi khuôn khổ, tính triệt để cách tân và cả những dự định, ước mơ “quá cỡ” về thơ. Hồn xanh dị kỳ là một nỗi buồn đi hoang, nỗi buồn cô lẻ trong sự trở về một không gian đô thị lạnh lẽo, nỗi cô đơn trong giấc mơ - cô đơn với chính mình: 

Ta từ biển vắng về đây mộng

Gặp lúc Thăng Long lụi ánh đèn

Những ngọn đèn mờ trên phố lạnh

Đời đương yên giấc – biết ai tìm?

 

Ôi kẻ xa chơi lẻ trúc đình

Quê nhà ai khóc? Lệ ai xanh?

Hồn em mây chở về đâu nhỉ?

Có gặp Buồn trong cuộc lữ trình

 

Kìa núi Cô Sơn hờn tuế nguyệt!

Kìa vầng trăng héo nẻo ra đi!

Nửa đêm trở giấc trong phòng lạnh…

Chợt thấy hồn xanh đến dị kỳ!

 

Bài thơ Chiều mưa – trước cửa là cả một bè sầu. Khi đối diện với trời đất, với vũ trụ (chiều mưa, nắng lỡ thì vàng vọt, vì sao, triền nước), con người thấy nhỏ nhoi, lạc loài, mênh mang một nỗi buồn nhân thế. Cái tôi trở về bấu víu cuộc đời thì phố thị là cả một màn đen, bấu víu hiện tại thì quê nhà lặng lờ, cái tôi ngây dại mất hết phương hướng, vương vương nỗi buồn thời thế. Không còn bâng quơ đi tìm tình yêu, đời là cả một lữ trình buồn; phòng lạnh, hồn ta lạnh, cái tôi tê tái với chính mình càng ngẩn ngơ một nỗi buồn thân thế:  

Chiều mưa - trước cửa

I.

Anh đã đợi những chiều mưa – trước cửa

Nắng – lỡ thì vàng vọt tựa tình yêu…

Ngày gặp mơ trong đôi mắt lệ kiều

Anh khóc trước… thương lòng anh dại.

 

Chiều hạnh ngộ… anh là chàng Do Thái

Vẫn lang thang trong những phố không đèn

Anh đi theo hồn vì sao hiền!

Để cầu nguyện cho bài ca – đầy đủ.

 

Nhưng em ạ tình đến ngày lỡ dở

Từ hôm nay trong cặp mắt em xanh

Từ hôm nay trong cặp mắt xuân tình

Chàng Do Thái hết bâng quơ tìm mộng

 

II.

Gã thường sống trong hồn ngôi nhà cổ

Thường thả ngày theo triền nước về xuôi

Xóm quê nhà ngây dại mặc đời trôi!

Hồn du mục lang thang chiều tái tạo.

Gã thường sống trong hồn ngôi nhà cổ

Phòng gã lạnh – ai đốt giùm ngọn lửa?

 

Thôi em ạ!

Thôi em ạ!

Phòng gã lạnh – ai đốt giùm ngọn lửa?

Thôi em ạ!

 

Anh đã đợi những chiều mưa – trước cửa. (1944)

 

            Bài thơ là một sự cách tân về âm thanh, nhạc điệu, một trong những yếu tố hàng đầu của thơ tượng trưng. Thi đề có một dấu gạch ngang khá lạ “chiều mưa – trước cửa” bao chứa một không-thời gian ngưng đọng sau sự trở về, rồi cũng chính biểu tượng ấy kết thúc bài thơ như một chờ đợi cái gì không biết, không rõ, không dứt, cứ tái tạo từ chiều này qua chiều khác. Cả bài thơ đếm được bảy cái gạch ngang như thế, khác gì những nấc nghẹn? Kết cấu những khổ thơ không đều nhau về số câu, lượng thơ không đều đặn giữa các dòng, nhịp thơ không theo một điệu có sẵn, những điệp khúc dài (những câu dài “Anh đã đợi những chiều mưa – trước cửa”, “Phòng gã lạnh – ai đốt giùm ngọn lửa?”, “Từ hôm nay trong cặp mắt…”) – điệp khúc ngắn (câu ba tiếng Thôi em ạ!) lặp và xen kẽ nhau, khi thì như tiếng thở dài, khi lại như tiếng nức thầm trong một âm hưởng chung là triền miên thất vọng.  

Nỗi buồn đau, sự cô đơn, niềm tuyệt vọng trong ba bài thơ không phải ngẫu nhiên mà ẩn sâu trong cùng một biểu tượng - “hồn”: hồn em, hồn ta, hồn xanh dị kỳ, hồn vì sao hiền, hồn du mục, hồn ngôi nhà cổ… “Hồn” là cả một thế giới tâm hồn-linh hồn, hữu thức-vô thức, ý thức-tiềm thức hòa nhập; “hồn” xáo trộn dĩ vãng-hiện tại-tương lai, “hồn” đi về chốn Dạ Đài-bến Thanh Tuyền…đúng với thế giới thơ của bản tuyên ngôn.

Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ năm 1946 đã làm gián cách quan niệm thơ Dạ Đài và sáng tác Trần Dần. Về sau, Trần Dần tiếp tục theo đuổi hướng cách tân thơ Việt theo lối “làm chữ” (Cổng tỉnh, Mùa Sạch, Jờ Joạcx…). Bởi thế, tiếp nhận thơ Trần Dần là một sự “dãi dầu”:

Một VIẾT dãi dầu sinh ra một ĐỌC dãi dầu. Thơ cổ lai đặt ở tứ lạ - lời hay - hình ảnh đẹp - âm điệu ru hồn. Tôi giản dị đồng nhất THƠ vào CHỮ. ĐỌC cũng số nhiều như VIẾT số nhiều.

(…) Tôi viết – tức là tôi để con CHỮ tự mình làm NGHĨA” (Thơ mini - Trần Dần).

Thơ Trần Dần khó đọc vì khó hiểu, như nhà thơ Dương Tường nói: “Thơ Trần Dần đương nhiên là khó hiểu. Nhưng chính ông ấy cũng nói về sự khó hiểu một cách hết sức giản dị: “Tất cả mọi giá trị chân thiện mỹ đều là khó hiểu”(5). Tuy vậy, ý kiến sau đây của một nhà nghiên cứu không phải là không công bằng: “Những nỗ lực suốt năm mươi năm sau của Trần Dần chưa cho thấy thơ ông vươn tới được cái muôn đời hay cái thâm u, huyền bí của thơ ca” (Lê Lưu Oanh)(6).

 

Trở lại với ước nguyện của Dạ Đài: “Cho nên buổi chúng tôi xuất hiện, chúng tôi để cho tàn suy giấc mơ của những người thưở trước. Tuyên ngôn tượng trưng của Dạ Đài có thể được coi là bước nỗ lực cách tân cuối cùng của phong trào Thơ Mới. Tuy chưa đủ sức và cũng không có những điều kiện thuận lợi để đi đến đích, song những quan niệm của họ đã thể hiện tính tiên phong và đổi mới trên hành trình thơ ca dân tộc. Đúng như lời thừa nhận của nhà thơ Vũ Hoàng Địch: “Sau mấy chục năm, nhìn lại tôi càng thấy con đường mà Dạ Đài mở ra là đúng. Dạ Đài đã nghĩ rất xa khỏi thời của mình, nhưng vì tuổi trẻ nên những sáng tác của chúng tôi không đủ tầm như mơ ước”(7).

 

CHÚ THÍCH:

[*] Những trích dẫn từ “ Dạ Đài - Bản tuyên ngôn tượng trưng” ghi theo sách Trần Dần – Thơ, Nxb Đà Nẵng, 2008, trang 53 – 59

[**] Theo www.thica.net

Về nẻo Thanh Tuyền

I.

Đời bỏ ta nằm dưới thủy cung

mờ đi! ơi ánh nguyệt vô cùng

hồn ta qua xứ ma làm loạn

nên thác trong đường trận hỏa công

trải mấy thu dài trên Tử trấn

ta về nghe thế sự tàn vong

ngoài ta ai đón trăng huyền lặn

mà dẫn đi qua khỏi Cửu trùng?

II.

Trăng đi về nẻo Thanh Tuyền

từ đêm ta mất uy quyền thế gian

với ta đời có hờn oan

thì nghe gió chuyển mây vần mà nguôi

hồn ta mất mảnh thi hài

về trên thế tục ta đòi cố đô

tắt đi! ánh nguyệt mờ lu

để ta trốn khỏi mê đồ này đây

kìa trông! thế cục vần xoay

vì ta đã bắt đầu say mất rồi

sống cho hết thuở này thôi

rồi xem nét mặt mờ phai thế tình.

III.

Vỡ đi! này hỡi hành tinh
bỏ ta nằm dưới chân thành này ư?
tiếng ta than động giăng mờ
từng đêm ta gọi lá cờ Nữ vương
tắt cho ta! ánh tà dương
để ta về nấm mồ hoang đốt đèn
cùng ta đắm nửa khoang thuyền
giữa thu người gái Thanh Tuyền chìm châu
mờ đi! ơi ánh tinh cầu

chẳng xem ta thác đêm nào ngoài khơi

thôi thôi! trời bỏ ta rồi

ngày sau ta trốn luân hồi mà đi.

 

(1) Hồ Thế Hà – Quan niệm về thơ của Dạ Đài - Nhìn từ sự tiếp biến lý luận văn học phương Tây – In trong Những khoảnh khắc đồng hiện, Nxb Văn học, 2007

(2) Huỳnh Như Phương – Trần Mai Châu: làm thơ, dịch thơ và bàn về thơwww.phebinhvanhoc.com.vn

(3), (6) Lê Lưu Oanh – Quan điểm nghệ thuật tượng trưng của nhóm Xuân ThuDạ Đài – www.leluuoanh.wordpress.com

(4), (7) Theo Quỳnh Hương – Trần Dần và câu chuyện “chôn” Thơ Mớiwww.tuoitre.vn

(5) Trần Dầnwww.wikipedia.org

 

 

 

Chế Diễm Trâm
Số lần đọc: 8139
Ngày đăng: 18.07.2013
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Thể tính thiền - Võ Công Liêm
Phong vị và phương ngữ miền Nam trong “Giỡn bóng chiêm bao” của Trần Phù Thế - Lâm Hảo Dũng
Phụ nữ dưới chế độ Đức Quốc Xã - Trịnh Ngọc Thìn
Tĩnh-vật/ Still-life - Nguyễn Quỳnh USA
Nhân Có Tập Văn Đưa Triết Học Vào Sáng Tác, Nhớ Lại Đặc Điểm Một Thời Kỳ (Bài viết khi đọc cuốn cảo-bút của Trần Nhựt Tân, sáng tác năm 1973, xb. Năm 1996) - Trần Văn Nam
Cảnh Cửu và sự cô đơn đến tận cùng - Nguyễn Lệ Uyên
Hoài vọng và ngu ngơ trong tác phẩm của Franz Kafka* - Võ Công Liêm
Di dân và địa lý đô thị hiện đại - Đinh Lê Na
Nhận thức về tâm linh của cá nhân mình . - Nguyễn Hồng Nhung
Đại thừa / MAHÀYÀNA / Greater Vehicle Lòng thương xót và Siêu hình học - Võ Công Liêm
Cùng một tác giả
Tạ Ơn (truyện ngắn)
Mép Nước (truyện ngắn)
Mỏng Như Cánh Chuồn (truyện ngắn)
Bìm bìm mãi tím (truyện ngắn)
Cái cột điện (truyện ngắn)
Họ Chế (tiểu luận)
Chạp yêu (truyện ngắn)