Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.152
123.225.012
 
Băn-khoăn của Nietzsche về Cỗi-nguồn Luân-lí Part II
Nguyễn Quỳnh USA

 

HOW TO CREATE A BEAST THAT CAN KEEP ITS PROMISE:

Nietzsche’s Dilemma on the Origin of Morals

How to deal with the beast’s Forgetfulness? Morality with a Hammer?

Làm sao đương-đầu được với Tính-Vật Hay quên? Bàn đến Luân-lí fải cần Cái-búa?

 

6. THE RAGING BULL/ BÒ ĐIÊN

If we just sit back and relax to imagine that incalculable amount of sufferings and destructions caused by Ishtar’s Heavenly Bull. How could this be true? God, the Judge of the Universe or Pantokrator (not in Christian culture) creates the Avatar without justice? Only for the love of God’s daughter, the one and the only Ishtar for whose benefit catastrophe is justified in the manner of beast’s revenge. How can it become an act of conscience? The root of her crime spells for her arrogance. Nietzsche holds that “To sanctify revenge under the name of justice” poignantly exhibits the profound psychological motif of the macabre violence. He questions about “the rehabilitation of revenge to reinstate generally and collectively all the reactive emotions”, which in reality, must be the fair play of hate, envy, mistrust, jealousy, suspicion, rancor and revenge. (p. 44). This means such motives must be carefully weighed against trurth. However, a careful reading of Nietzsche’s text, it becomes transparent for us that Ishtar’s aggressive revenge dwells on her “active emotions”, something similar to first degree-murder by the court of justice.  

 

Chúng ta thử tưởng-tượng bao đau-thương và tàn-fá gây ra zo con bò đến từ Thiên-cung. Con bò ấy chính là con-vật trong lòng Nữ-thần Tình-ái Ishtar chỉ vì không được Gilgamesh đáp lại tình-iêu. Lạ thật! Làm sao Thượng-đế hay Tạo-hóa cầm cân nẩy mực thế-jan và vũ-trụ lại hóa ra bất công đến thế? Chỉ vì chiều lòng con gái cưng Ishtar thất tình với Gilgamesh mà nặn ra quái-vật. Thực ra quái-vật đó (bò thần) tiêu-biểu lòng độc-ác của Ishtar để Ishar trả-thù và sự trả-thù này được gọi là lương-tâm!  Lương-tâm jì? Lương-tâm của kẻ có quyền! Theo Nietzsche, Lương-tâm bạo-ngược của Ishtar gọi là “active emotions” hay “bẩm-sinh hung-bạo”.

 

So, as mythological metaphor goes, the ancient author cleverly sees to the Bull  nothing but qualifying picture of animal-man instinct of the Goddess of Love. She seeks revenge on Gilgamesh who does not return her love. At this juncture of human passion and cruelty the Sumerian master-mind averts psychological absorption to “cold blood manslaughter” listened to in the marvelous Epic.

 

Set in a pragmatic jargon “call a spade a spade”, Chinese political ideology believes that “the king is God’s son” that could be mislabeled to someone in the past but perfectly fit its modern version of sovereign “Communist Party”. Nothing really matters only the change of the game name does for the privileged individuals or clans, the Han for instance, to rule the underprivileged or the so-called inferior Chinese ethnics. Morality is truly a social set of customs in both classical and modern definition and circumstances, not Ethics. So how would justice fairly respond to this animal-man’s conscience didactically grounded in Confucius textbooks that requires the absolute obedience to the sovereign?

 

Nói “toạt móng heo” í-thức hệ chính-trị của Tầu tin rằng “vua là con-Trời” vẫn có já-trị ngày nay có ngĩa “Đảng là con-Trời” cho nên luật-fáp fải zừng lại trước cửa quyền vì Đảng ban Luật-fáp. Như vậy Luân-lí là tập-quán xã-hội trong ngĩa cổ cũng như kim, chứ không fải lẽ fải-trái của Đạo-đức. Thế thì làm jì có Công-lí. Không có Công-lí làm sao đương-đầu được với Lương-tâm con-vật thường thấy trong kinh-sách Khổng-jáo. Tại sao? Khổng-jáo zạy zân “fải biết tôn quân”.

 

Unfortunately, it seems destroying the raging bull in the heart of God’s daughter is unforgiving crime. From the assembly of gods, this crime referred to arrogance and disrespect sentences Enkidu, the mortal to death. Does this make sense to any normal human being?  If we may appeal to God’s justice and if and only if God appeared in front of us what would be God’s answer? God’s possible reply and I would be perfectly in agreement with God’s saying, is “Once I creates, the creation proceeds without my will. Where is your freedom, there is your responsibility. And so is justice.”

 

Đập chết con bò-điên trong lòng Chức-nữ, con gái của Trời là một tội không tha-thứ được. Tại sao lại “ích-kỉ hại nhận như vậy?” Không cần biết. Chỉ có con-người fải chết. Đó là Enkidu. Ông ta bị gán cho tội kiêu-căng và bất-kính. Thế còn Gilgamesh? Ông này tuy không bất-tử nhưng không thể chết vì trừng-fạt. Bởi vì theo quan-niệm, ông ta là nửa-thánh, nửa-người. Con-người bình-thường như chúng-ta ai cũng biết điều đó thật là vô-lí. Nếu chúng-ta có thể xin Thượng-đế xét theo công-lí, và jả-thử Thượng-đế hiện ra trước mặt chúng-ta thì Thượng-đế sẽ trả-lời ra sao? Thượng-đế có thể trả-lời thế này: “Sau khi Tạo-vật đã sinh-ra cái jì thì cái đó cứ sinh sinh-hóa làm sao Tạo-vật biết được. Ở đâu con-người có tự-zo, ở đó con-người có trách-nhiệm. Đó chính là công-lí.”

 

For some thousand years of human history, this question has been met with dead silence. The question would be that how God is held accountable for such a crime of injustice. Since this hypothetical question cannot help set the record straight, it is only surmised that in God’s Creation there was no God’s Will. The mythological God and gods came from man’s parable of the concept of Good and Evil. The Epic of Gilgamesh expounds sufferings, power, will, abuse, consciousness, duty, rightfulness and conscience. All of these motives come into play for both active and reactive emotions. In the end only the winner is vindicated as the man of justice. He forgets everything and everything is gone with the wind in the tone that makes Pericles’ oration immemorial.   

 

Cả ngàn năm trong lịch-sử con-người, câu hỏi trên va vào iên-lặng. Câu hỏi ấy đặt ra trách-nhiệm của Thượng-đế hay Con-tạo về cái tội “của Ngài” gọi là “thiếu công-lí”. Vì câu-hỏi hoàn toàn có tính jả-thiết cho nên đâu có jì rõ rệt mà bàn. Chúng-ta chỉ còn cho rằng khi Con-tạo hay Thượng-đế sinh ra vũ-trụ này, Thượng-đế hay Con-tạo có í-chỉ jì đâu. Anh-hùng Ca Gilgamesh miêu tả đau-thương, quyền-lực, í-lực, lạm-quyền, í-thức, bổn-fận, lẽ-fải và lương-tâm. Toàn là chuyện của con-người chứ đâu fải chuyện của “đấng thiêng-liêng”. Tất cả những điều kể trên đến từ hai thứ tâm-lí gọi là (a) bẩm-sinh bạo-ngược hoặc, (b) nổi-zậy vì bị ắp-bức. Trên thực-tế, chỉ có kẻ thắng là có công-lí. Kể thắng quên hết mọi thứ, vang-động như những lời fủ-zụ của Pericles.         

 

Philosophy is nothing but the critique of thought as is in the end it must be able to commit to action only by its outcome would its system have some positive value. The deficit of Chinese thinking reveals the lack of critical thinking and logic. It confuses premises with conclusions. Therefore, all declarative statements appear as God-sent words, a sort of pragmatism most exploited by the despot who demands absolute obedience and most revered by the mass that believe by birth they are low and ignorant. The blessing they receive from the ruler equals to that that comes from parents to children. They unconditionally accept their lot according to a popular proverb, at least followed by the Viets, that “The son of the King will be king, whereas the children of the pagoda’s porter will be domestic servant.”

.  

Trong khi mục-đích của Triết-học là tiếp-tục tìm ra fương-fáp mới để fê-bình tư-tưởng; còn cứu-cánh của Triết-học là con-đường hành-động để biết rõ já-trị của tư-tưởng. Sự thiếu-sót lớn trong tư-tưởng của Tầu là trong tư-tưởng ấy chỉ zựa vào nguyên-lí “đúng-sai”, chứ không đề-cao óc fân-tích đúng sai và không có nền-tảng luận-lí. Tư-tưởng của Tầu lẫn-lộn jữa nhập-đề và kết-luận. Cho nên, mọi luận-điểm cứ như là “thánh-fán”. Còn người nge “fải gật đầu hoặc iên-lặng” nếu không sẽ bị coi là “không biết gốc-ngọn”. Tính ứng-zụng của suy-tư ấy được vua-chúa Tầu và lân-bang nô-lệ Tầu khai thác triệt-để đòi hỏi sự vâng lời tuyệt-đối. Quần-chúng, vì kiêng-nể jáo-lí “thánh-nhân” cho nên chấp nhận fận mình sinh ra vốn hèn-kém, nên chỉ còn chờ mong “ơn tren ban xuống” của người cai-trị như cha ban fước cho con, hay theo một fương-châm rất nguy-hiểm: “Con Vua thì lại làm Vua. Con nhà sãi-chùa lại quét lá đa!”

 

Before Han’s Liu Bang challenged Qin, and then defeated Xiang Yu of Chu, he had a low regard to Confucians; namely Confucius’s teachings were not worthy of making man a self-becoming being, but social parasites. Later on, reality taught him a good lesson that in order to rule China he had to redeem Confucian belief that had become indisputable power of the mass. If “man is a rational animal” then in this case it would be interesting to see the true beast in man; namely if he is subject or sovereign? In the corpus of Confucianism, there are articles completely against human rights by following which would man be a becoming or remain in the kingdom of animals? To be the ruler of such a kingdom, one must become a strongest beast. Liu Bang had no choice. Therefore, the fate of China, since the Han Dynasty,  has been determined by populace’s consensus.  

 

Trức khi Lưu Bang hưng lên chống Tần và sau đó ziệt Hạng Vũ của Sở, ông ta khinh-thường jai-cấp Nho-học. Tại sao? Tại vì jáo-lí của Khổng-tử không có já-trị júp con-người trở nên con-người có í-thức về chình-mình. Nhà Nho là thành-fần ăn bám xã-hội. Song le, trong thực-tế Lưu Bang đã thấy rõ muốn cai-trị nước Tầu ông ta fải fục-hưng Nho-học bởi Nho-học đã trở thành sức-mạnh của quần-chúng. Nếu, “Con-người là con-vật biết fải-trái”, thì trong trường-hợp này chúng-ta thấy rõ chân-tướng của con-vật ngay trong con-người, tức là con-vật biết đặt ra câu-hỏi: “Ta là fận tôi hay ta là fận chúa?” Trong nội-zung chỉ-đạo của Khồng-jáo có những tiết-mục vi-fạm nhân-quyền

 

In modern time, the Chinese Communists, quite aware of the Confucian severe weakness responsible for the country downfall and humiliation by the West, they adopted Western thinking to modernize the country, at an admirable speed. However, to rule a vast country with a billion of population, already contaminated by Confucius’ tradition, they have not hesitated to remind their people of respect for the ancient “Saint”, a big lie, but a fantastic manipulation of statecraft.

 

Trong thời-mới, những con người Cộng-sản Tầu biết rõ sự iếu-kém sâu-xa của Khổng-jáo đã làm xã-hội Tầu đi xuống và fải chịu nhục trước Tây-fương, cho nên họ theo Tây canh-tân xứ-sở, và họ đã thành-công mau-chóng. Tuy-nhiên, để cai-trị cả tỉ-người đã bị ô-nhiễm vì jáo-lí Khổng-tử, và để khỏi bị chống-đối, họ lại quay ra bảo zân tôn-trọng thánh-hiền. Sự zối-trá này là một thuật cai-trị rất khôn-ngoan và xảo-quyệt.

 

Such statecraft has been following a dangerous and inhuman ideology. It not only keeps its people in ignorance, a barbarian state, but also turns them to fanatic beings ready for bloody battles. Beyond national borders, it becomes a nightmare for the small and weak neighbors. The aggressive beast, standing tall and menacing, attempts to create a new world order, redefining territorial frontiers. This horrific act, in Nietzsche’s own words, aims at  “injuring, oppressing, exploiting, and annihilating.” (p. 46)  

 

Thuật cai-trị ấy đi theo một thứ í-thức hệ nguy-hiểm và vô-nhân. Vì mục-đích nó là jữ zân trong ngu-tối và đẩy zân vào chiến-tranh đẫm-máu (nếu cần). Í-thức hệ này vượt ra ngoài biên-jới quốc-ja và gây kinh-hoàng cho những lân-bang nhỏ và iếu. Con-vật hung-hãn ngang-nhiên thách-thức, đòi làm bá-chủ và vẽ lại ranh-jới. Theo Nietzsche, hành-động gê-tởm nà nhằm “gây tổng-thương, bắt-chẹt, bóc-lột và loại-bỏ zân-tộc khác.”   

 

To understand the raging bull of man, Nietzsche proposes a scientific study of human emotion in two categories of vengeance, the Reactive and the Active. Based on such motives he paints a picture of the origin of revenge and justice prevalent in biological life which we still need incalculable researches to reach apprehension. That how far this scientific proposal has successfully unveiled the roots of man’s motives is still uncertain, as we still rove without knowing the dark side of man’s psyche. Thus as is called tentative plan of his hypothesis, we have:

 

REVENGE AND JUSTICE CONCERNING REACTIVE AND ACTIVE EMOTIONS

 

REACTIVE (lower biological order)                    

 

The Spirit of Revenge itself*                             

Enmity and Prejudice*                                                              

Justice (love for truth)                                       

Cold, moderate, reserved, indifferent                

The just man remains just regardless                 

whatever.                                                                     

Least hostility, malice, fairness in                                  

Revenge.                                                                     

 

 

ACTIVE (higher biological order)

 

Personal ambition

Material ambition                      

Attacking, aggressive, bias       

Stronger and bolder, more aristocratic

Free outlook, better conscience*

Invention of he “bad conscience”

The resentful man

Make war against the reactive type

Power of aggression to put an end

to the senseless fury of resentment.

Justification of what is just and lawful, right and wrong

 

Để hiểu lối suy-ngĩa cùa con-người mang thú-tính điên-khùng, Nietzsche đề-ngị một fương-fáp truy-tầm có tính khoa-học. zựa trên hai loại “trả-thù”. Đó là “Trả-thù vì bị ức-chế” và “Trả-thù vì bẩm-sinh hung-bạo”

 

BÀN-VỀ VẤN-ĐỀ TRẢ-THÙ VÀ CÔNG-LÍ THEO HAI TRẠNG-THÁI TÂM-LÍ: ĐỐI-KHÁNG VÀ TÂM-LÍ CÓ THAM-VỌNG ZO BẨM-SINH.

 

TRẠNG-THÁI ĐỐI-KHÁNG (Có chút nhân-tính)

Trả-thù vì lẽ tự-nhiên (có vay có trả)

Cảm-thấy có sự thù-ngịch và có cái nhìn thiên-lệch

Iêu Công-lí

Tâm-trạng trả thù này không nóng-nảy, điềm-tĩnh, và công-bằng

Con người công-lí chỉ trọng lẽ fải mà thôi

Trả thù cách này í có tính hận-thù, không zã-tâm

Trả-thù theo lẽ công bằng

 

 

TRẠNG-THÁI THAM-VỌNG BẨM-SINH

(Lấy thịt đè người. Mạnh thì tlàm jì cũng được)

 

Tham-vọng riêng-tư

Ham vật-chất                

Hiếu-thắng, bạo-động, thiên-vi  

Càng mạnh thì càng ăn trên ngồi chốc.

Muốn jì được thế, tạo nên một thứ lương-tâm cao-hơn

Tạo ra một thứ lương-tâm xấu-xa.

Hơi một tí là chua-chát

Bắt nạt con người đối-kháng

Zùng quyềnlực để xâm-lấn và coi đó là cứu-cánh

cho hành-động fẫn-nộ, chua cay zù làm như thế là fi-lí.

Coi hành-động trả-thù là công-lí, hợp fáp, hoặc là đúng, hoặc là sai.

 

Since the animal-man is capable of seeing what is right from what is wrong, he can program his own game and maximize his strength and rage to level of cruelest victory only by whose game plan the animal-man meets his desire will. Therefore, all protests are nullified because the ultimate fact – not the one deemed to be of justice value – belongs to the strongest and most vicious.

 

Vì con-người mang thú-tính biết rõ thế nào là fải-trái cho nên hắn có khả-năng zàn-xếp vấn-đề, tăng sức-mạnh và cơn thịnh-nộ lên cực-điểm để đạt tới chiến-thắng hung-bạo nhất.. Chỉ có chiến-thắng hung-bạo thì ván-bài của con-người mang thú-tính mới đạt tới ước-vọng khi ấy tất cả mọi fản-đối đều vô já-trị bởi vì sự-thực quan-trọng nhất không còn já-trị nguyên-hình vì sự-thực ấy thuộc về kẻ mạnh-nhất và độc-ác nhất.

 

What the Communists like Mao, Lenin, Stalin and the like laid waste on their country and their people in fact manifested two realities; a) For China, it is the Confucian system, and for Russia, it is Fatalism. Such realities not only failed to radicalize society, but they bred the thickheaded; and b) for China and the like, the humiliation caused by the West’s cruelty of colonialist philistinism. Mao reasonably acted out his animal-man in the guise of ultimatum that needed a grotesque killing field for vengeance in terms of revolution. Pol Pot’s animal-man thought it would have been comfortably returning to the jungle, which for him was the only way to do away with the past. The desire to “turning to the new leaf” by way of using fanatical strategy could only achieve by committing genocide of his own kind. Such an animal so dreaded by nightmares and so frantic of bloody revenge ruled on termination of educated class condemned to intolerable crime of making horrible history.

 

Điều mà những người Cộng-sản như Mao, Lenin và Stalin đã làm nát xứ-sở đều có căn-cơ từ hai thực-tại; a) Đới với Tầu, lề lối suy-tư hủ-lậu của Khổng-jáo.không chỉ cản-trở tiến-bộ của xã-hội mà còn đẻ ra những jống ngu-si. Và b) đới với Russia là thuyết Định-mệnh. Riêng đối với Tầu và những nước ở tình-trạng như Tầu, sự nhục-nhằn trước đầu-óc thuộc-địa rất man-rợ xâm-lược của Tây-fương là một iếu tố để nổi-lên zành độc-lập, chứ không fải cách-mạng. Con-vật ở nơi Mao rất có lí đưa ra quyết-định tắm-máu để trả thù cho bằng được, zưới lá cờ gọi là cách-mạng. Con-vật trong con-người Pol Pot chỉ cảm thấy thoải mái nếu trở về rừng-thẳm. Đó là cách zuy-nhất để xóa nhoà lịch-sử. Khát-vọng đổi-mới bằng chiến-thuật cuồng-tín như thế chỉ có thể thành-công bằng cách tiêu-ziệt ngay zân-tộc của mình. Con vật ấy vốn đã bị kinh-hoàng vì nhiều ác-mộng và lại bị thôi thúc bằng máu trả-thù điên-zại đã quyết-định cho ngâm-tôm jai-cấp có học vì cho rằng chính jai-cấp này đã đẻ ra những trang-sử kinh-hoàng.

 

Human language, either phonographic or ideographic, is destined to “speech” because daily communication could be impractical if it primarily relies on writing, especially symbolic writing. Furthermore, in the event of thought process, the art of speech and writing undergo tremendous labor to fulfill their task. This means not only in theoretical domain would the abstraction of language trouble our comprehension, but the application of thought becomes prevalent.

 

Ngôn-ngữ của con-người zù theo quan-niệm fát-âm hay theo chữ-viết đều fải được nói lên vì mục-đích truyền thông hằng-ngày. Zo lẽ đó quan-niệm cho ngôn-ngữ fải là chữ-viết, nhất là zùng biểu-tượng, trước tiếng nói là một điều thiếu thực-tế. Hơn nữa trong vận-hành của tư-tưởng, thì ngệ-thuật nói và viết là một hoạt-động nhiều khi rất vất-vả trước khi đạt mục-đích. Thế có ngĩa là trong lãnh-vữc lí-thuyết sự mờ tối của ngôn-ngữ ảnh-hưởng tới hiểu-biết của chúng-ta. Chỉ có trong lãnh-vực ứng zụng tư-tưởng của chúng-ta mới rõ ràng mà thôi. Khi ấy ngôn-ngữ ziễn-tả thực-tại chứ không đi ngược lại, ở nhiều trường-hợp như từ trời rơi xuống. Đó là ngôn-ngữ Tầu.

 

7. PUNISHMENT: NIETSCHE’S PSYCHIC OR PSYCHOLOGICAL ABSORPTION TO FATHOM THE DEEP ROOTS OF MORALS

 

Constituted as a set of social customs morals pragmatically propagate the use of all means to an end. In this regard, morals do not simply preach but actively apply disciplines according to social consensus, including corporal punishment where and when necessary, especially effective major law breakers..

 

Luân-lí zo tập-tục xã-hội mà ra. Tập-tục xã-hội zùng tất cả mọi fương-tiện để đạt tới cứu-cánh cho nên luân-lí fải có tính thực-zụng. Theo quan-điểm này, luân-lí không fải là thuyết-jảng nhảm-nhí mà fải là là áp-zụng theo kỉ-luật của xã-ước. Kỉ-luật chỉ cần đến roi-vọt ở những chỗ và thời-điểm cần-thiết, nhất là đối con người fạm-fáp ở tuổi trưởng-thành,  

 

Nietzsche’s grand plan of investigation concerning justice and punishment eloquently touches on an array of psychological symptoms, deep and challenging, but the style of his presentation overwhelms the readers. As of yet, his so-called scientific approach very advanced in his time perfectly fits our research direction. For this purpose, an effort to deconstruct his approach, points by points, should be central thesis of our research.

 

Nietzsche points out that the strategy used by genealogists before him was confused about the ends in punishment, in case of revenge and deference; namely for them, the end at the beginning is causa fiendi of the punishment. This happens due to the lack of investigation into every detail. What is that?

 

Nietzsche cho thấy fương-fáp mà các nhà nhiên-cứu nguồn-gốc về cứu-cánh của trừng-fạt trước ông không rõ ràng; ví-zụ nguồn-gốc của trả-thù và bổn-fận kính-trên nhường zưới. Theo những người ấy thì nguồn gốc của cứu-cánh về trừng-fạt là nguyên-nhân fiendi (causa fiendi). Như thế không rõ ràng vì không đi vào chi-tiết. Tại sao?

 

For Nietzsche, since everything exists and prevails anywhere, the end of punishment as a system of justice is subject to new purposes or to practical application. Why? Our world, an organic entity, consists of overpowering and dominating forces that require new interpretation and adjustment. As such the meaning and end of punishment are problematic.

 

Nietzsche trả lời thế này, cái jì cũng có và lì-lợm ở khắp mọi nơi, cho nên cứu-cánh của trừng-fạt là cơ-cấu của công-lí fải tuỳ-thuộc vào những mục-đích mới hay tùy thuộc cách ứng-zụng hữu-hiệu. Tại sao? Thế-jan của con người uyển-chuyển bao gồm nhiều quyền-lực ngự-trị rất cường-điệu ra ngoài tưởng-tượng. Chúng  đòi hỏi cách ziễn jải và thích-ứng tùy-thời. Zo đó, í-nghĩa và cứu cánh của trừng-fạt thật là fức-tạp.

 

It entails that since there is no intrinsic right and no intrinsic wrong, the concepts of right and wrong are nonsensel. The definitions of such concepts come from the system of laws, which could be, in Nietzsche’s own words, “exceptional conditions”. [As a result, the origin of punishment and the end of punishment must be two different subjects.] Why? Nietzsche observes that essentially life through human experiences exhibits nothing but injuring, oppressing, exploiting and annihilating. The system of laws is made for the powerful that is the real life-will that exercises or causes such functions or behaviors.

 

Từ đó, chúng ta thấy, không có jì gọi là hoàn-toàn đúng, cũng như không có jì gọi là hoàn-toàn sai, bởi vì mọi í-niệm “Đúng” và “Sai” đều zo con-người đẻ ra cho nên chúng có thể vô-ngĩa. Những định-nghĩa về “Đúng” và “Sai” đều đến từ cơ-cấu của luật-fáp cho nên chúng có những điều-kiện ra ngoài lẽ tự-nhiên. Tại sao vậy? Nietzsche đã trả lời thế này: “Đời sống toàn là những vấn-đề như gây tổn-thương, áp-bức, bóc-lột, và tiêu-ziệt . Í-chí của cuộc đời nằm trong tay của kè có quyền-lực.tức là kẻ muôn sao được vậy.”

 

The behaviors intend to injuring, oppressing, exploiting and annihilating altogether create larger units of strength called a legal organization, sovereign and universal against any civil oppositions. It becomes clearly that by such units, equality is inconceivable because equality is seen as “hostile to life”, in Nietzsche’s own terminology. 

 

Zã-tâm gây tổn-thương, áp-bức, bóc-lột, và tiêu-ziệt tạo nên nững sức-mạnh kinh-hoàng gọi là luật-fáp có tính thống-trị và được coi là đúng ở mọi nơi để đập tan mọi nỗ-lực chống-đối. Như thế, không có jì gọi là bình-đẳng, vì theo zã-tâm này, bình-đẳng là kẻ thù của cuộc đời. Ở đây có ngĩa là cuộc đời độc-tôn của bạo-quyền.

 

Such behaviors, in terms of legal system, think of all kinds of utility or convenient weapon to perform punishment as festival or virtually as the triumph of will-to-power over the weak, by all means without remorse. Verily, from this point on, Nietzsche makes it manifest of a hidden dimension of human psychology, he says, “Genuine remorse is certainly extremely rare among both the wrongdoers and the victims of punishment,” (p. 51) no matter how cruel a method of torture could be used beyond  imagination!    

 

Zã-tâm ấy nhân-zanh luật-fáp ngĩ ra đủ kiểu tiện-ngi biến trừng-fạt thành ra tưng bừng như hội-chợ, hoặc nói đúng hơn cách trừng-fạt như thế chính là vinh-quang của í-chí về quyền-lực đè lên kẻ iếu không cần biết ăn-năn. Thật vậy, Nietzsche đã đánh-thức chúng ta về một khía-cạnh tâm-lí sâu-xa của con-người, khi ông nói: “Lòng ăn-năn thực sự rất hiếm nơi kẻ jeo-jắc thảm-sầu cũng như nơi những nạn-nhân bị trừng-fạt,” cho zù có zùng đến những cụ-hình man-rợ nhất.

 

(To be continued/ Còn tiếp)    

 (September 10, 2013)

Nguyễn Quỳnh USA
Số lần đọc: 2741
Ngày đăng: 12.09.2013
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Làm sao có thể đẻ ra một con-vật biết jữ lời-hứa: nỗi băn-khoăn của Nietzsche về nguồn-gốc luân-lí - Nguyễn Quỳnh USA
Quyền – Lực và Tự -zo Khai-Thác tận-cùng về thể-tính và về tính-sử trong nỗ-lực đi tìm quyền-lực và tự-zo của con-người I-niệm và thực hành :Bản mới (2013) - Nguyễn Quỳnh USA
Đọc và fê – bình Jacques Derrida jới – thiệu Cội – nguồn hình – học của Edmund Husserl (phần 3) - Nguyễn Quỳnh USA
Bàn về sự tự sát - Trịnh Ngọc Thìn
Đọc và fê-bình fê-bình thẩm-mĩ của Immanuel Kant Kritik Der Urteil Skraft (1790) - Nguyễn Quỳnh USA
Đọc và fê-bình Jacques Derrida jới-thiệu Cỗi-nguồn hình-học của Edmund Husserl Theo Deconstruction hay Fương-fáp Khai-mở và Fê-bình Cơ-cấu - Nguyễn Quỳnh USA
Đọc, fê-bình và so-sánh Truy-tầm luận-lí (Logische Untersuchungen, 1900) của Edmund Husserl với Hiện-tượng luận và thuyết zuy-vật biện-chứng (Phenomenology and dialectical materialism, 1951) của Trần Đức-Thảo (kì 7) - Nguyễn Quỳnh USA
Đọc và fê-bình cơn khủng hoảng của khoa-học tây-fương của Edmund Husserl (fần 4) - Nguyễn Quỳnh USA
Lập-ngôn của Zarathustra (tiếp theo kỳ trước) - Nguyễn Quỳnh USA
Đọc và fê - bình Jacques Derrida jới-thiệu Cội-nguồn hình học của Edmund Husserl - Nguyễn Quỳnh USA
Cùng một tác giả
Suy-Tư Hai (triết học)
Một Tí “Rilke” (tiểu luận)
Khoảnh-Khắc (tiểu luận)
Nắng Hè (tạp văn)
Fôi-Fa (tạp văn)
Bến-Xưa (tạp văn)