Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.188
123.211.754
 
Nguyễn Văn Nho suối nhạc nguồn thơ bát ngát
Tâm Nhiên

 

 

 

Khi nói đến Nguyễn Văn Nho, bạn bè văn nghệ tứ xứ mười phương ở Đà Nẵng, Huế, Sài Gòn, Đà Lạt…ai ai cũng dành cho nhiều thiện cảm và nói đó là một nhạc sĩ tài hoa đồng thời là một thi sĩ có nhiều năng khiếu thông minh như xuất khẩu thành thơ, phổ thơ thành nhạc ngay tại chỗ ,ngay nơi bàn nhậu tiệc tùng lai rai. Tài tình nhất là độc tấu guitar cổ điển, chơi nhạc hòa tấu đến độ nhập diệu xuất thần, đưa nghệ thuật âm thanh lướt trên những cung bậc hoằng viễn thiên thu.

 

Từ thời còn thanh xuân tuổi trẻ mới 21, 22 tuổi chàng đã viết truyện, dịch thuật, sáng tác thơ nhạc và những hoạt động đa dạng khác. Các tác phẩm  tâm đắc như Cuồng ngôn giữa ngàn hư mất ( tùy bút 1981) Dạ khúc trên đường về ( nhạc 1983) Con đường trong sương ( truyện dài 1984) Bông cỏ nở từ những niềm sâu lắng ( thơ 2002) Ở một góc lặng thầm trên mặt đất ( thơ, bản thảo) đặc biệt là bài viết về Thiền tông Tản mạn về số 0 và Sunyata đã thổi bừng lên ngọn lửa sáng tạo rực ngời cháy đỏ trên ngút ngàn hoang lương phong trần lữ thứ giữa cõi đời mộng huyễn phù du : “Từ đó, thi ca bắt đầu trở về như một trò chơi táo bạo và kỳ diệu của ngôn ngữ. Một trò chơi thế mệnh, dẫn dắt thi sĩ vượt qua, vượt qua và vựơt qua mãi từng sa mạc hoang lương ngút ngàn cỏ cháy…Dừng lại có nghĩa là tự trói đời mình trong vòng tay quy ước, tiến đến có nghĩa là đương đầu với niềm cô đơn sâu thẳm của kẻ muốn tìm gặp một Quê hương trong vùng tưởng nhớ, một Quê hương đã rời xa và không bao giờ tìm được.”* Nguyễn Văn Nho đã nói như thế và mặc nhiên chấp nhận niềm sâu thẳm cô đơn để dấn thân trên cuộc lữ thi ca tư tưởng dặm dài :

Giữa giang hồ một lữ khách khoan thai

Nhả khói thuốc vào đầu sông sương bạc

Một câu thơ một điệu đàn ý nhạc

Hòa tung tăng vào vô ngại sinh lưu

 

Những lối mòn thời đại quên tên

Người ngắm mãi bóng chiều trên lau lách

Rồi đi biệt vào những mùa hoang lạnh

Tìm cho ra một hơi thở sa mù

Cùng quê hương Duy Xuyên Quảng Nam với thi sĩ thượng thừa Bùi Giáng, Nguyễn Văn Nho cũng có tố chất dị thường xuất chúng cũng phiêu bồng phóng khoáng hào sảng, nhập cuộc chịu chơi mà vẫn đứng độc lập một cõi riêng biệt của mình. Sinh năm 1959 lớn lên ở phố cổ Hội An, thường lội nước tắm sông Hoài một thời trẻ dại, thích đạp xe chơi rong thong thả  qua những cánh đồng lúa xanh vàng hoa nắng từ chốn quê này qua vùng phố nọ, ngắm những dòng sông thơ mộng chảy mãi về đâu ngoài Cửa Đại xa mù vời vợi trùng khơi. Với cây đàn guitar mang trên vai rất lãng mạn nghệ sĩ, ưa rong rêu lêu lổng rong chơi như thế nhưng thi nhân vẫn hoàn thành xong Thạc sĩ Toán ở Đại học Huế. Có một thời gian giảng dạy Đại học Sư phạm Đà Nẵng rồi bỏ dạy nửa chừng, giống như Phạm Công Thiện bỏ dạy Đại học Vạn Hạnh lên đường lang thang sang Paris Pháp quốc hay như Nietzsche bỏ dạy Đại học Barlin lên miền núi cao sống với nỗi cô đơn khốc liệt, im lặng sấm sét hơn mười năm trầm tịch mịch, Nguyễn Văn Nho cũng bỏ dạy Đại học Đà Nẵng, nhưng không lên núi ẩn cư mà chuyển qua Nhà xuất bản Giáo Dục làm biên tập viên, dịch giả và viết một đống sách Toán học cho học sinh từ Tiểu học đến Trung học rèn luyện ôn thi. Bây giờ thì chàng gác bỏ tất cả, đã thực sự giã từ các tổ chức, các đám đông tập thể, lặng lẽ lui về hoạt động âm thầm một mình một bóng giữa phương trời cao rộng tự do khoáng đãng của riêng mình.

Tinh sương là tiếng đàn phiêu hốt, hồn thơ lãng đãng rạt rào phong phú vẫn bay hoài chất ngất trong tâm hồn kẻ thi sĩ kỳ lạ kia, vẫn bát ngát trên con đường thênh thang sáng tạo, vô vàn chan chứa quyện hòa cả nguồn thơ suối nhạc mênh mang. Nhạc và thơ là cung bậc hòa âm nhập diệu phiêu diêu chuếnh choáng rất mãnh liệt thiết tha mà cũng vô cùng thong dong trầm lặng :

Bằng giọng thơ hiền như cỏ hoa

Tâm trí dần phai những phiên tòa

Con nước vơi đi từng ố dục

Quá khứ cũng về thay xiêm y

 

Cùng suối nguồn trăng lộng vô vi

Quên cả mười năm cuộc miên trì

Trút giữa hoàng hôn ngàn khắc khoải

Chăn gối cùng đêm giấc trẻ thơ

 

Thôi nhé chào xa dốc bụi mờ

Và cơn đuối mộng đục trang thơ

Về nghe nhã nhạc trong mầm sống

Gõ giữa trầm luân nhịp yêu thương

Cung đàn vô lượng thương yêu như nguồn suối bất tận chảy về da diết trên dặm ngàn viễn xứ tận cuối biển đầu non. Một khi trái tim kia rào rạt suối nguồn yêu thương như vậy thì tự nhiên kẻ rong chơi thấu hiểu diệu dụng của tình yêu vô điều kiện dù không thể diễn bày hay bất khả lý giải bằng ngôn ngữ trần gian. Vì thế, thi nhân im lặng lắng nghe bông cỏ nở từ những niềm sâu lắng, nghe ra bao điều huyền ảo vô vi. Chỉ còn biết nghiêng hồn mình xuống hố thẳm uyên nguyên khơi mở mà cùng em ngồi lại bên suối ngàn để thưởng thức những tiếng hát phiêu nhiên trong ngần ngân nga từ nhật nguyệt thiên địa miên man :

Em ngồi xuống cùng ta nghe suối hát

Lời diệu huyền trong mạch đá rêu phong

Lời suối kể chuyện tháng ngày phiêu bạt

Nguồn uyên nguyên dần xa mãi khe mương

 

Em ngồi xuống cùng ta nghe suối hát

Hồn lắng về khi rừng nhạt mây giăng

Từ phiêu lãng cuốn theo bờ huyễn ảo

Phút ngồi đây hòa điệu với hư không

 

Mây mùa thu buổi chiều giăng móc núi

Con bướm vàng vẫn nội cỏ đong đưa

Một chiếc lá xa cành rơi xuống cội

Ta về nguồn trong tiếng suối ngân vang

 

Em ngồi xuống cùng ta nghe suối hát

Giữa tịch nhiên lòng đã vắng phong ba

Em có thấy trong lời ru của suối

Một con đường ẩn hiện cõi sương sa

Phong ba bão táp đã vắng lặng giữa lòng sâu yên tĩnh tịch liêu. Một chút lòng thanh thản an nhiên thôi cũng đủ chứa cả ba nghìn thế giới phải không em ? Một chút lòng nguyên sơ trong trắng vốn sẵn hằng hữu giữa trời thơ đất mộng bao la. Có ai trong chúng ta còn nhớ được điều này như nhà thơ Holderlin đã từng nhớ : “Con người ngụ cư trên mặt đất như một thi nhân.” Vâng mỗi người trong chúng ta đều là một thi nhân, một nhà thơ đang hít thở bầu khí hậu trong ngần trên mặt đất. Hãy lắng nghe tiếng hát trong tận đáy hồn thâm thúy của mình, lắng nghe những tiếng lòng trong trẻo rung ngân linh diệu và cùng em hát với cỏ hoa chiều phiêu phưỡng khói sương phơi :

Ơi cánh hoa vàng lay bay trong gió chiều nay

Có tiếng sông trầm sâu như hơi thở mùa thu

Em có nghe lòng ta như lau cỏ đìu hiu

Phơi giữa muôn ngàn hương rơm hương cỏ đồng quê

Yêu người đâu dám tỏ

Ta về yêu cỏ hoa

Hát với ngày hoang dã

Bằng nụ cười sơ khai

Thoảng hương lòng hoa dại

Phong trần vương vấn nợ

Ta còn trên bể dâu

Vẫn nghe lòng phơi mở

Những hoang tình vu vơ

Trên ngõ về im lặng

Ơi cánh hoa vàng lay bay trong gió chiều nay

Đã biết bao lần ta nghe câu hát của em

Câu hát thanh bình xua tan bao nỗi bồng bênh

Ta đứng trong chiều nghe ra hương ngát mùa thu

( Hát với cỏ hoa chiều, nhạc 1984)

Nghe mùa thu hương trời xanh tỏa ngát trong tiếng hát của em của nàng thơ hay của những tâm hồn thi nhân là bất tuyệt. Một khi trên cõi ta bà sa mạc hoang vu này vẫn còn sót lại một chút tình thương yêu thoáng hiện giữa lòng người thì chắc chắn mọi sự chưa hẳn là bế tắt tuyệt vọng. Ồ chỉ cần một chút tình yêu thương chân thật cũng đủ cứu vớt cõi người ta khỏi rơi tòm xuống hố hư vô trống rỗng, khỏi biến thành những con người máy không hồn bởi sự sùng bái sai lầm nền cơ khí kỹ thuật của thời hiện đại mà từ đó, vô tình đã giết chết tình cảm, tâm tư  đã làm tan hoang tinh thể sơ nguyên huyền nhiệm của con người. Chỉ cần một nụ cười, một ánh mắt hay một tấm lòng chơn chất thật thà của em thôi là cũng đủ hồi sinh bao cảm hứng rực ngời mới lạ trong tận đáy tim nồng nàn dạt dào xiết bao ý tình thi vị cảm khái :

Em có cả tấm lòng sâu vạn đại

Nên chẳng buồn chi chuyện kỳ hẹn sai giờ

Em cũng xót xa nỗi niềm cỏ dại

Nên yêu đời trong tiếng vọng nguyên sơ

Không biết tự bao giờ em đã đến giữa trần gian này, khiến cho mặt đất ngất say trong cơn rung động choáng váng. Em về đây từ một thế giới ban sơ vừa mộc mạc giản dị vừa vi diệu tuyệt cùng. Thế giới của thơ và họa giao thoa trong tiếng nhạc của trời giữa thiên thu vời vợi. Nơi đây dư vang của huyền thoại quy hồi và em xuất hiện, xuất hiện như một loài hoa thảo lan ngan ngát hương màu phất phiêu dặt dìu siêu nhiên diệu ảo :

Thảo lan ơi em về chi bên suối

Cho rừng xanh thầm hỏi chuyện sương ngàn

Để anh về bên bờ đá rêu phong

Nghe suối hát nhìn em hiền lay nhẹ

 

Chiều ở bìa rừng từng trũng nắng vàng hoe

Lòng rạo rực muốn quỳ hôn ngọn cỏ

Chiều ở trong hồn đọng lại bên khe

Anh vu vơ hát hòa theo giọng gió

 

Về cô lẻ những con đường đây đó

Em thẹn thùng lấp ló những khe nương

Anh một đời rêu cúi tạ những con đường

Từng áo não giữa khung trời băng giá

 

Hôn trời đất hôn cánh rừng dầu dãi

Thảo lan ơi còn suối mát trong hồn

Anh dâng hết tưới lên đồng thiên khải

Để cuối đường hoa dại nở trong tim

Những bằng hữu thân tình, những người em thi ca thâm thiết, những ai ai đây đó đã từng chứng kiến Nguyễn Văn Nho “vu vơ hát hòa theo giọng gió” thì mới cảm hết vẻ đẹp xuất thần nhập cốt phiêu nhiên của chàng thi sĩ kỳ tuyệt. Tiếng đàn guitar lã lướt du dương trên mười ngón tay nhập diệu hòa với giọng hát, giọng ngâm thơ cao vút thuần nhiên khiến cho những thanh âm trầm bổng réo rắt dập dềnh trên giai điệu phiêu bồng như làm va chạm tận đáy hồn thiên cổ, rung ngân từng tiếng lòng phiêu diêu tiêu sái quá đỗi lâng lâng như cung bậc vĩnh hằng Beethoven, Chopin, Tehaikovsky, Schubert, Mozart… Rất nhiều lần rồi, tôi cùng Văn Nho  ngao du lang bạt khắp đó đây trên đỉnh núi Bà Nà Đà Nẵng, ngoài Huyền Không Sơn Thượng Huế hay trong Cửa Đại bên bến sông Hoài phố cổ Hội An, rồi chuếnh choáng lai rai Sài Gòn, lên tận xứ sương mù phố hoa Đà Lạt… Cho nên thường có dịp trực tiếp thưởng thức những suối nhạc nguồn thơ dạt dào lai láng chảy từ một tâm hồn thượng đẳng thăng hoa. Ơi những ngày tháng du ca Đà Lạt, thành phố cao nguyên xanh ngát ngàn thông reo vi vu vi vút, suốt sớm trưa chiều tối hôm nào bữa nọ, chàng nhạc sĩ say ngà ngà đã hát vang trên những đỉnh đồi sương sa chới với :

Với sương mờ phủ ven đồi

Với hàng thông lạnh ngàn đời tịch nhiên

Với lòng ta bạc ưu phiền

Chiều đôi chân mỏi trên miền quạnh hiu

 

Vầng trăng khuyết dọi sương chiều

Chìm con dốc mỏi hắt hiu bóng người

Em về rủ áo đôi mươi

Nhìn trăng phương lạ khóc người đã xa

 

Với ta chìm giữa dương tà

Với hồi chuông gọi đường về tịch liêu

Với hồn hoang của muôn chiều

Và đôi tay vẫy trong giờ biệt ly

Ly biệt chia tay rồi lại trùng phùng tao ngộ khắp hang cùng ngõ hẻm trên rừng dưới biển rộn rã xôn xao. Lưu luyến giã từ Đà Lạt rồi về Huế, tiếp tục dạo khúc cung cầm dọc bờ bến sông Hương cùng bạn bè văn nghệ, những kẻ lưu lạc tha phương vào những chiều mưa lác đác cuối năm trầm ngâm lạnh buốt sầu vu vơ mơ mộng :

Huế những chiều một mình tóc đẫm mưa đông

Hớp tí rượu nồng rồi khẽ ngâm thơ

Mưa qua hồn ủ ấp cơn mê

Huế những chiều dạo với anh em

Lạnh cóng bàn tay tiếng đàn không trọn

Ngồi trút cho nhau từng phiến ưu tư

Huế những chiều một mình đếm ngói bâng quơ

Vẫn tiếng đàn trầm hồn thả đi hoang

Qua sông rồi lại nhớ bên kia

Huế những chiều dạo với anh em

Một chút tình trao sưởi lòng sái nhịp

Và những tàn khuya chung rượu sân ga

Ngày tôi xa tôi xa

Dòng sông xuôi về mấy nẻo

Em còn thương còn thương

Đứng bên từng khóm lá

Nghe vòm cây kể chuyện đời anh

( Huế những chiều đông, nhạc 1981)

Chuyện đời thi sĩ như nước chảy mây trôi, nhạt nhòa tóc rối phôi pha qua muôn trùng vạn lối cao nguyên, hải đảo sơn hà xa ngút mù xa, biết sao mà kể cho hết được phải không ? Thôi thì cứ bồng tênh phiêu phưỡng theo sương ngàn gió núi lên trên tuyệt đỉnh Bà Nà giữa thiên thanh vĩnh thúy để nghe chàng nghệ sĩ cất điệu tiêu dao ca nhã nhạc dậy lừng hạo nhiên chi khí vang vọng xuống chập chùng dưới kia cõi đời phù vân nhân thế :

Về đến đây rồi Bà Nà ơi !

Vườn Tịnh Tâm kia lặng bóng chiều

Thạch Đơn hòn dựng phơi niềm nhớ

Thách cả mười phương chuyện nắng mưa

 

Ngỡ như mình bước giữa đường xưa

Mấy kiếp chờ nhau lạnh mấy mùa

Suối Nai ngơ ngác dòng trong sáng

Vỗ đá hờn kia điệu hát buồn

 

Về đến đây rồi em biết không

Sương tạc hình ai nỗi nhớ này

Không trăng vẫn đứng đồi Vọng Nguyệt

Trừng mắt đêm sâu chuyện kiếp người

 

Suối Mơ vẫn chảy ngoài truông vắng

Người vẫn còn mơ giữa phố phường ?

Bên thác Cầu Vồng ta đứng đợi

Một bóng chim xa chẳng tái hồi

Hát ca đã cái đời cho đến tàn khuya sương ướt lạnh đầy hồn tim bổi hổi, rồi sớm tinh sương vừa mênh mang vừa rộn ràng xuống núi theo gót gió trùng khơi lồng lộng bay ra ngoài biển trời hải đảo Cù Lao Chàm, uống rượu ngâm thơ hạo nhiên chi khí, túy lúy say sưa giữa bao la chập chùng sóng vỗ rào rạt dâng đầy :

Lại về đây biển chiều nay

Chén trà bãi vắng ngồi say nghĩa tình

Đã hừng lại mộng phiêu linh

Giữa ngày hoang dại giật mình nghe ra

Âm vang lời biển quan hà

Nghe ghềnh sóng vỗ gọi tà dương trôi

Ta còn đây cả mộng đời

Với tình huynh đệ với lời thiên thu

Giống như Alexis Zorba ra hải đảo Crete sống triệt để trọn vẹn hết mình, tràn lan ca hát nhảy múa hoan say với cây đàn santuri thì Nguyễn Văn Nho cũng vậy cũng ngất ngây túy lúy cùng với bạn bè, với lãng mạn nàng thơ ngư nữ mặn nồng, dù chỉ dăm ba ngày nhưng cũng đủ thấm thía hương vị khác thường giữa bát ngát đại dương. Rồi chàng rưng rưng vác cây đàn lửng thửng quay về phố cổ Hội An, ngồi lại bên thềm xưa lối cũ nghe rêu phong thiên cổ lên tiếng hát ngậm ngùi, thương nhớ một mùa trăng xa ngái còn thấp thoáng giữa dòng đời lấp lánh long lanh :

Anh lại về đây em ơi

Ngóng mây trời dòng sông chiều vắng

Bước âm thầm đường xưa lối cỏ

Chờ đò sang sông

Hơn một tình yêu trôi đi

Lối thiên đường nằm trong mộng ước

Cánh chim trời ngàn tơ trĩu nặng

Tìm đâu bến bờ

Nhưng dù trời sương băng rơi

Cho dù buồn hơn mưa thu

Cho dầu ta cánh mỏng tơi bời

Và dù đời rong phong phiêu

Ta vẫn cứ như dòng sông qua mọi bến bờ

( Về với chiều rưng rưng, nhạc 1982)

Bờ bến sông Hoài lăn tăn sóng vỗ xô lùa bèo dạt hoa trôi dọc ven triền lau lách sông Thu Bồn qua bên kia cồn bãi nương dâu xanh biếc Duy Xuyên, nghiêng nghiêng mấy hàng cây cau đứng lưa thưa bên rào giậu mồng tơi hoa mướp bướm vàng chập chờn bay lượn vương vương hoa nắng chiều tà, nhà thơ thở nhẹ từng hơi thở nhớ thương da diết thiết tha vô cùng vô tận về người em Hà Huệ yêu dấu nhất đang dạy học trên xứ miền cao nguyên Bảo Lộc xa mù, một người tình vĩnh cửu như dòng sông trí tuệ luôn luôn dào dạt chảy về đẫm ướt những trang thơ :

Ở nơi đó sương có mờ dáng nhỏ

Chiều có vương mây núi thấp trong lòng

Bưu điện mỗi ngày em nhắn nỗi chờ mong

Vai có run lên nỗi niềm gió núi ?

 

Có chiều nào không em âm thầm qua suối

Soi mặt mình thấy lệ ngấn long lanh

Rừng hoang vu cây sầu ngọn tủi cành

Từng dốc lên nghe sỏi hờn đá dỗi

 

Trời ở nơi này lạnh chưa tím bờ môi

Mà lòng anh thì đã mấy đông rồi

Đêm anh qua phà buồn ngắm trăng trôi

Không nguôi được những đêm nằm biển hát

 

Còn bước chân hoang hàng cây chiều xơ xác

Thị thành ơi sông nước với bạn bè

Đi để thấy một đời anh dang dở

Chuyện mình yêu nhau ôi đâu phải tình cờ

Tình cờ sao được phải không em, khi mình kỳ ngộ nhau là nếp duyên tiền kiếp nhiệm huyền. Hãy đáp ứng từng phiến nghiệp đời mê đắm lâm ly, cùng đồng thanh tương ứng những điệp khúc rung ngân ân ái say sưa cho đến tận cùng cảm giác hoan lạc đê mê, để từ đó mà có thể tạo một bước nhảy trọng đại, chuyển nhịp sang cung bậc mới :

Bến chờ chi cho sương nặng bồi hồi

Ngành ngọn ấy suốt một mùa bão nổi

Ta vẫn tang bồng nhưng tóc chừng đã đổi

Theo dòng trôi bỏ lại bụi vô minh

 

Vẫn mực đèn khuya nhưng chuyển rộng điệu tình

Ta nghe tiếng côn trùng hơi thở đất

Một tiếng chim giữa trời đêm phiêu dật

Vẫy tay người cơn mộng giữa chiêm bao

Chiêm bao mộng mị là gì mà thi sĩ đành phải từ tạ những giấc mơ đời hư huyễn ? Tạ từ giã biệt để tiếp tục đăng trình với bầu rượu túi thơ qua những bến bờ thênh thang trên dặm ngàn viễn xứ lênh đênh… “Đi để nhớ những chiều pha tóc trắng. Mắt lưng chừng trông giọt máu phiêu lưu.” Lời thơ Tuệ Sỹ đồng vọng gõ nhịp dưới gót giang hồ phơ phất chân đi.  Đến rồi đi, gặp gỡ rồi ly biệt biết bao lần rồi hỡi những thiền sư, cuồng sĩ, văn nghệ sĩ, hồng nhan, thục nữ, nàng thơ ? Từ cuộc thơ đến cuộc tình, từ cuộc tình đến cuộc mộng rồi từ cuộc mộng đến cuộc lữ mang mang, chàng thi sĩ hào hoa phong nhã lại phiêu phưỡng lên đường bay lượn như con chim đến từ xứ lạ ngứa cổ hát khơi vơi những tình ca thâm thiết nguyệt tận, những sầu ca bi tráng giữa bóng chiều tà sương khói phủ hoang vu :

Để bây giờ trên bốn mùa phố cũ

Đêm từng đêm sầu dội mãi tâm hồn

Từng ý nhạc cũng theo về mộng huyễn

Tháng ngày ơi ngan ngát một phương trời

 

Mời em hát cùng tôi bài nguyệt tận

Dẫu đời em đâu đáng để đau buồn

Vùng sương đọng trong bờ mi tôi đó

Là lời trao còn giữ lại trong tim

Hát khơi vơi vậy thôi như Nguyễn Du vi vu hát “Cùng trong một tiếng tơ đồng. Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm” như Phạm Công Thiện  hát đơn ca “Mùa xuân bay thành khói. Tôi ca hát một mình” như Beethoven lặng lẽ Hòa tấu khúc thứ 9 bất hủ du dương, như Trang Tử nghêu ngao khúc Tiêu dao du hý lộng tuyệt trù, như Lý Bạch ngâm nga “Xử thế nhược đại mộng. Hồ vi lao kỳ sinh” bồng bềnh dọc khắp bãi bờ Trường Giang xanh ngát, như Rainer Maria Rilke hát Ngợi ca nỗi cô đơn ở tận miền tuyết băng Đức quốc, như Apollinaire hát chan chứa nỗi niềm Say đắm ca bên bờ sông Sein huyền mộng Paris, như Holderlin nghìn dặm lưu linh khúc Thần cảm ca trên đường trở về cố hương Schwabbach nghi ngút sa mù, như Rimbaud chuếnh choáng hát du ca trên Con tàu say ngoài ven trời vạn dặm xa xăm nước Pháp ngút ngàn hoang lộ mang mang, như Bùi Giáng nhảy múa hát ca Thơ vô tận vui túy lúy càn khôn giữa phố thị Sài Gòn, như Alexis Zorba ca hát múa nhảy tràn lan Hoan khúc chịu chơi ngoài hải đảo trùng dương bát ngát, như Hàn Mặc Tử tương tư hát tặng Gái quê những lời Thơ điên siêu thần bạt thánh say khướt cả thần hồn… Còn Nguyễn Văn Nho cũng trút hết ruột rà xương xảu máu me ra mà hòa âm tha thiết Da khúc trên đường về qua cung bậc vô thanh giữa nhật nguyệt thiên thu lai láng bồi hồi :

Còn ai bây giờ ngồi kể chuyện khơi vơi

Ngày tháng đó và mây trời bữa nọ

Tôi đã trút giữa giờ thiêng đỉnh ngọ

Chuyện trần gian trên đôi cánh thiên di

 

Tôi về lại giữa lưng chừng mây nổi

Cuộc dừng chân chưa hò hẹn bao giờ

Tưởng đã tắt những nhịp đời bổi hổi

Mà vẫn trong lòng điệu hát vô thanh

Điệu hát vô thanh mà vẫn chan hòa đồng vọng ngân nga vang lừng những âm giai hài hòa tiết điệu phiêu linh như có lần thi sĩ tâm sự : “Dạ khúc trên đường về... Có phải từ đó, thi ca trở về như một con đường cứu chuộc và âm nhạc theo ý nghĩa sâu lắng của danh từ cũng trở về như một phương tiện bi thiết để cấu dệt nên miền quê trong ảo tưởng ? Có phải ca khúc, chiếc cầu nối lại đôi bờ ngôn ngữ với âm thanh cũng giong buồm theo tư tưởng để ngợi ca nỗi chết, ngợi ca sinh ly, ngợi ca những sai lầm ngu xuẩn chính mình, suốt một thời gian chẻ làm tư truyền thống, giá trị, thả phăng mình trong nước lũ mây trôi ?”** Hỏi tức là trả lời, để cho mọi sự cứ vốn y nhiên hiện hữu như thế trong một niềm sâu xa im ắng, lắng nghe dòng sông đời ca hát khoan thai :

Ai đứng trong tàn khuya

Để nghe dòng sông hát rằng

Có ra đại dương mới hay đảo hoang

Từng đêm bão táp

Sương có giăng nhiều thêm

Có phai nhàu thêm cõi lòng

Mới yêu đời sống bằng từng cảm thông

( Tiếng hát dòng sông đêm, nhạc 1983)

Tấm lòng thi sĩ bộc lộ chia sẻ một cách chân thành như vậy đó và dốc hết tài hoa ra để biến đời sống thành nhạc thành thơ, đem lại nguồn vui hoan hỷ cho mọi người, nhưng ở một mặt khác của tồn sinh bức bách, nhà thơ vẫn ngậm ngùi trong nỗi sầu nhân thế bể dâu. Niềm đau sâu thẳm ấy khó thể nguôi ngoai cứ quằn quại khắc khoải, cứ thao thức lùng bùng như bị vây khổn trong một thành vách sương mù ngột ngạt nào đó quá đỗi âm u :

Ở một góc buồn trên mặt đất hoang vu

Tôi ngồi đếm những chiều vàng nhân thế

Từng con sông chảy qua đời ân huệ

Những con đường nghẽn lối trong sương

 

Ở một góc buồn trên mặt đất hoang lương

Tôi chao đảo giữa mù phương lốc xoáy

Đã tê điếng một tấm lòng dàn trải

Ngồi nơi đây sám tội với giang hồ

 

Ở một góc buồn trên thế giới lô xô

Tôi ngồi đếm những dòng người xe cộ

Và dụi mắt giữa bụi mù lịch sử

Tôi giam tôi trong ân nghĩa khôn hàn

Tính mệnh quê hương Việt Nam đang chìm ngập trong dòng sử lịch mịt mù dâu bể tang thương, thi sĩ  cảm thấy hoang mang hụt hẫng, chới với bước đi lạc loài lạc lõng trong chập choạng đen ngòm âm u tăm tối trong  nỗi sầu vạn đại, chẳng biết hỏi ai đây hỡi cội nguồn hun hút dấu bơ vơ :

Hỏi nước cũ bên nguồn xưa có nhớ

Hỏi anh em niềm tri ngộ sơ đầu

Tôi trở về lạc lõng giữa đêm thâu

Chỉ có mưa giăng và điện đường nhàn nhạt

 

Lòng nhúc mỏi từ ngày đầu phiêu dạt

Hỏi quê hương ồ mắt đã vàng hoe

Tôi biết mình lầm lần trở lại đêm nay

Mà có chi đâu một khung trời đã úa

 

Thương một người em rẽ từ ngã ba này

Buổi sáng em đi  có mình ta rưng lệ

Ngõ cũ vườn xưa và niềm đau nhân thế

Hòa quyện trong ta nỗi chết chiều nay

Nỗi chết và sự sống, khổ đau và hạnh phúc, giọt lệ và nụ cười…kỳ diệu thay, tự bao giờ đến bây giờ vẫn cùng song hành khắng khít quyện hòa nhau để từ đó, con người bước qua vượt qua nhịp cầu thanh thản tự do. Vì thế cho nên người thi sĩ tuy đã chạm mặt tột cùng nỗi buồn đau buốt cóng, nỗi sầu bi đổ nát tàn xiêu trong bóng chiều hiu hắt nắng xế vàng vọt của quê hương nhưng trong tận đáy lòng sâu thẳm vẫn còn le lói ẩn hiện, vẫn còn trì ngự một niềm tin tưởng thường tự tại khinh an :

Thân có lạnh giữa bao mùa bão loạn

Lòng vẫn vui trong lời nói đơn sơ

Cành xa xa chim chuyền qua bỉ ngạn

Trong tàn xiêu đời vẫn đẹp vô ngần

Ơi chao ! “Trong tàn xiêu đời vẫn đẹp vô ngần” chính là thông điệp của chàng thi sĩ.  Đẹp như bài thơ thuở đầu đời rung động tặng em, đẹp như tình yêu diệu huyền trong cuộc lữ. Từ chỗ nhận thức rực ngời lửa sáng tạo mới mẻ trinh nguyên đó, tình yêu sẽ đưa con người ta tới một cõi từ ái phong quang mở rộng, là căn bản của một cuộc phát nguyện đại bi tâm. Thương yêu hết mặt đất trần gian, khắp muôn chiều nghìn nẻo hoang liêu. Yêu từng sợi nắng giọt mưa, từng lá cây ngọn cỏ, từng hoa trôi bèo dạt đến những phiến đời tàn phai vàng úa, hiu hắt ê chề... đều yêu thương và yêu thương hết thảy, muốn ôm ấp nâng niu trìu mến vào bao dung rộng lượng ở trong lòng :

Em biết không

Những chiều một mình đứng ở đồng quê

Không nói được...

Những lần nhìn bên kia sông tím thẩm

Anh muốn ôm từng sợi nắng vào lòng

Như thể anh ôm từng nỗi đời héo hắt

Hắt hiu tàn tạ vàng úa từng nỗi đời khổ lụy đã khiến cho thi nhân chạnh lòng trắc ẩn khôn khuây. Thấy và nghe xiết bao não nùng thống thiết, biết nói chi hơn là cảm thương vô hạn chốn trần ai đầy máu lệ xót xa quặn thắt. Lặng lẽ trầm tư từ nỗi cô đơn tối hậu để chiêm nghiệm, lịch nghiệm cõi tồn sinh qua mọi ngõ ngách sâu kín nhất trong tâm hồn, đột nhiên rất nhiều lần nhà thơ chợt sững sờ thảng thốt trước vẻ đẹp đơn sơ của một đóa hoa dại ven đường hay bâng khuâng đứng giữa ngã tư phố thị vàng vọt ánh điện mờ hư vô trống rỗng, rồi đôi lúc cũng rạo rưc đốt lên làn khói thuốc Đà Lạt sưởi ấm sân ga những khuya buồn chờ đợi tiếng còi tàu hụ vang rộn rã và biết hít thở hương gió bình nguyên, thưởng thức rừng đèo heo hút reo vui trong từng đọt lá xanh vàng hoa nắng lung linh... Một mình và chỉ một mình đi theo ý chí mãnh liệt của mình, không nhập vào đám đông, chối từ quyết liệt những bầy lũ, phe nhóm, hội đoàn, đảng phái. Tuyệt đối dứt khoát không gia nhập bất cứ một đảng điếc nào hay một hệ thống ý thức hệ nào cả, nhà thơ cô đơn lẫm liệt, hiên ngang lui về đối diện trực tiếp với chính mình trong niềm cô liêu khôn cùng vắng lặng :

Khi còn lại một mình anh với nắng

Chiều vươn vai chim chóc gọi đàn về

Anh cúi xuống đóa dại vàng trên bãi

Khói đầu sông vi vút chuyện xưa sau

 

Khi còn lại một mình anh với phố

Đèn vàng khuya tiếng chó vọng xa gần

Ngã tư buồn ngó lại thấy bâng khuâng

Anh khẽ hát điệu nhạc gì xa vắng

 

Khi còn lại một mình anh trên bến

Còi tàu vang rờn rợn bước phong trần

Anh châm thuốc thở bằng làn khoi trắng

Để bọt bèo mộng tưởng đọng trên vai

 

Khi một mình tay vẫy phía đồi cao

Gió bình nguyên thổi ngược gọi rừng đèo

Tim tím rụng nắng chiều qua đọt lá

Là biết mình muôn thuở vẫn còn đi

“Là biết mình muôn thuở vẫn còn đi.” Phải chăng đó là sứ mệnh của thi ca hay là bước đi kỳ cùng của cuộc lữ ? Nơi đó chứa đủ mọi dư vang siêu hình của bao niềm hoài vọng giữa dòng đời miên viễn thiên thu. Ra đi tức là trở về. Trở về với chính lòng mình lấp lánh thanh tân, hoàn toàn mới lạ, mới mẻ từ nguyên ủy nguyên sơ. Quy hồi cố quận tâm linh hay quê nhà Duy Xuyên ngan ngát hoa ngàn cỏ nội cũng giống nhau thôi. Ngồi lắng nghe từng cơn gió đời lồng lộng rỗng rang thổi nhẹ nhàng ngoài bờ tre bụi trúc hòa quyện cùng hương trời quyến rũ thơm ngát mộng ngàn thu :

Chừ về lại với ruộng đồng năm tháng

Giọng tre hiền như thuở ấy tôi đi

Và quỳ xuống lần khân cùng khóm chuối

Hôn đất trời vời vợi cõi riêng tôi

 

Cõi riêng tôi có con đường bỏ lại

Nửa đời đi hoang dại mấy phương trời

Hai tròng mắt đục bao niềm sân hận

Xin ngồi đây sám tội với mây trôi

 

Chừ cố quận không nghe lòng viễn xứ

Như ngày xưa trăn trở mộng rừng sâu

Nghe thân thiết giọt sương trời trên cỏ

Thấy lòng mềm như nắng úa phai tan

 

Ơi giọng tre lưu luyến lắm chiều vàng

Ngân nga mãi một bài thơ thân thuộc

Chừ về lại với tâm hồn cỏ mượt

Với mùi bùn hương lúa đã thiên thu

Thiên thu vĩnh cửu chẳng ở đâu xa mà hiện hữu sờ sờ ngay mỗi sát na trước mắt. Thấy ngay tức khắc mặt mũi xưa nay hay bản lai diện mục của mình hay không là tùy cái nhìn trực giác thấu thị của chúng ta mà thôi. Triết gia vĩ đại Nietzsche đã trực kiến được điều đó khi Quy hồi vĩnh cửu qua tác phẩm sấm sét Zarathustra đã nói như thế và rất nhiều thiền sư, nghệ sĩ lớn của nhân loại đã khám phá ra cái bản lai diện mục của chính mình như Huệ Năng, Lâm Tế, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Milarepa, Krishnamurti, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Nguyễn Du...

Từ những niềm sâu lắng nọ, sơ nguyên nào còn vọng lại, sơ thủy nào còn ngân rung thầm kín nỗi niềm trong lòng người em thi ca độ lượng bao dung ? Thi sĩ đi về trên thể điệu vô thủy vô chung, cùng rung cảm cùng chia sẻ đầm đìa bao mộng tình hư huyễn phù du mà vẫn yêu thương vô lượng cuộc sinh tồn. Còn gì bi tráng một cách chân thành như thế ? Xin  tri ân những thuyền quyên thục nữ, những hồng nhan tri kỷ tri âm thầm lặng và cảm tạ những phương trời gió loạn, những bạn bè cảm mộ sẻ chia từng triết lý suy tư :

Xin cảm tạ những chiều rơi cố xứ

Có bàn chân khép lại ngõ hoang mê

Mười lăm năm một đoạn đời lữ thứ

Trắng hồn tôi trên cuộc mộng vô cùng

 

Cảm tạ đất trời cao lượng bao dung

Mưa với nắng nhịp đời lên bổi hổi

Cảm tạ sương ngàn lộ vắng thương khung

Phủ hồn tôi trên tháng ngày nghiệt ngã

 

Ơn các em những mối tình không vẹn

Những phương trời khép lại cuối chiêm bao

Vẫy tay nhé một lần xin khất hẹn

Là lời trao còn giữ lại trong tim

 

Lời cảm tạ sau cùng xin trao gởi

Ơi tha nhân ơi bằng hữu thâm tình

Đời thì rộng nhưng đành thôi áo rũ

Lạy nghìn xưa và lạy cả mai sau

Một khi cúi xuống trải lòng ra cảm tạ, tri ân tất cả trần gian như thế và tự nguyện trở về sống với thế giới nội tâm thâm hậu là thi sĩ mặc nhiên đã thể hiện, bày tỏ một thái độ đứng trước cuộc đời. Bởi tự bao giờ, thi nhân đã thấy rõ tận tường cái mặt mũi xưa nay của chính mình trong một đêm ngắm trăng rằm nơi chùa cổ Phước Lâm ở Hội An. Chỉ một lần duy nhất thôi cũng đủ hoát nhiên hiển lộ một điều chi vi diệu nhiệm mầu độc đáo vô song trong tuyệt cùng quang minh tĩnh lặng :

Trăng im lìm giữa thiền đường

Người im lìm lắng nghe sương gọi thầm

Hỡi mù sa cõi trăm năm

Làm sao che được trăng rằm nguyên sơ ?

Kể từ khi thấy được vầng trăng rằm hay ánh trăng tâm vi diệu ấy, thi nhân đã âm thầm mang về rải khắp nhân gian bằng phương tiện thi ca và âm nhạc như ngụ ngầm chiếu soi lại chân dung của muôn loài vạn hữu của thập loại chúng sinh của anh và em của tình yêu và cuộc đời. Cuộc đời và tình yêu là hai đề tài muôn thuở của con người trên mặt đất muôn nơi. Tuỳ theo cảm nhận, lãnh hội của mỗi một người trong chúng ta mà thấy như thế này hay như thế nọ đó thôi. Ở đây, nhà thơ đã cất lên tiếng hát thi ca quá mộng vào một chiều du xuân thong dong thả nhẹ từng bước chân qua hồ Tịnh Tâm ở Huế, sực nhìn thấy bàu rau muống trổ đầy hoa xinh xắn tinh khôi mới lạ mà thốt nhiên cảm ngộ rộ bừng ra lẽ Nhất Như của vạn vật đất trời cùng tương ứng tương nhập sự đời lý đạo viên dung :

Bóng ai lửng thửng qua cầu

Hoa rau muống nở một bàu tinh khôi

Lòng xuân ngan ngát đất trời

Đạo đời tương nhập trong lời cỏ cây

Khi trăng còn ở đồi tây

Tình tôi là nụ cười này tiễn nhau

Một nụ cười tươi tắn thi sĩ tặng trao cho cuôc đời giữa bầu trời mênh mông Không Tánh xanh ngần. Tất cả muôn loài vạn hữu xưa nay đều nằm gọn trong vũ trụ Tánh Không này, dù đời hay đạo, phàm hay thánh, chánh hay tà, ma hay Phật, vọng hay chân, mộng hay thực, mê hay ngộ…cũng đều nằm gọn ghẽ trọn vẹn giữa lòng Tánh Không mông mênh hoằng viễn đó, như Nguyễn Văn Nho có lần phát biểu : “Ngày nay, Tánh Không luận đả nghiễm nhiên trở thành một luận thuyết đẹp và sâu đến nỗi những trí tuệ siêu việt luôn bị hấp dẫn và họ ngày càng khám phá ra biết bao huyền nhiệm trong mối tương ưng giữa luận thuyết và chiều sâu tâm hồn của những trí tuệ đó, cái chiều sâu không thể định danh và sâu đến nỗi bất khả diễn bày.”*** Hay như thiền sư thi sĩ Tuệ Sỹ nói : “Qua Tánh Không luận của Long Thọ bấy giờ, ngôn ngữ không còn là một hình ảnh héo hắt của thực tại sai biệt và sai biệt. Nó không đi chơi vơi trên thực tại mà đóng vai trò truyền thông như tiếng gọi từ trên một đỉnh núi của tuyệt đối vô tri, từ trên một đỉnh núi nghìn đời bất khả xâm phạm, luôn luôn thách đố bước tiến của con người. Nó đánh mất đi cái cụ thể nghèo nàn trong tầm mắt của phàm phu đến một chân trời rực rỡ của sáng tạo.”****  Như vậy, Tánh Không dung chứa bao hàm cả đạo hay đời, Phật hay ma, chánh hay tà… và khơi mở con đường hân hoan sáng tạo vô lượng vô biên. Rốt lại đều là những trạng thái tân kỳ vi tế vốn xảy ra trong lòng tâm linh hoằng đại bao la mà gần gũi nơi mình, ngay giữa thực tại hiện tiền đây thôi. Tâm thanh tịnh thì ba nghìn thế giới cũng thanh tịnh bình yên nên thi nhân vẫn cứ tự do lãng tử phiêu bồng, rong dạo qua chơi bên những chốn miền không có đâu nơi với điệu cười hào phóng rất mực thong dong :

Lòng im mây trắng ngang đầu

Sóng miên man vỗ nghìn câu tâm tình

Còn chi hơn giữa phù sinh

Nằm quên mộng ước quên mình là ai

Quên ta quên người, gợi nhớ đến bức tranh thứ tám “Người trâu đều quên” trong Thập mục ngưu đồ của Thiền tông. Phải chăng đó là trạng thái vong bặt đối đãi, vô ngại, vô ngã, chẳng còn mảy may ý niệm bản ngã, hoàn toàn không còn chấp ngã, trạm nhiên vắng lặng cái tôi ? Thôi chẳng cần bận tâm làm chi nữa, chỉ thầm cảm nhận tự nhiên như nhiên và sống như thế như thế là tuyệt vời rồi, phải vậy không Nguyễn Văn Nho ?

Có lẽ ở đây cũng nên nhắc đến Huyền Vi và Huyền Vân, hai ái nữ thiên thần của thi sĩ. Trong khi Huyền Vi duyên dáng thùy mị ở nhà nhiếp tâm ngồi thiền định, trì chú Đại Bi thì Huyền Vân đoan trang lại phiêu lãng qua bên kia xứ miền Xingapore sống tự lập với cây đàn piano. Nếu có ai một lần diễm phúc được nghe Huyền Vân ngồi thanh thản lướt nhẹ bàn tay trên những phím đàn bay bổng thanh thoát thì tự nhiên sẽ tan biến hết mọi áo não ưu phiền. Huyền Vi cùng với Huyền Vân. Đẹp như lòng biếc tuyệt trần nhân gian. Hòa âm tâm huyết cung đàn. Làm cho mặt đất ngân vang tiếng cười… Thôi bây giờ, không gì hơn, ta xin ngâm bài thơ cho hai tiểu thư nghe chơi nhé ! Bài thơ Suối nhạc nguồn thơ này ta làm riêng tặng Nguyễn Văn Nho trước ngày chia tay tạm biệt Đà Nẵng, lên đường tiếp cuộc lữ phiêu diêu :

Nhiều chuyến lên đường mây lưu viễn

Rồi những quy hồi bến sông quê

Đã biết bao lần say chuếnh choáng

Hát đi dạ khúc trên đường về

 

Hát với cỏ hoa chiều phiêu hốt

Từ độ bao giờ vẫn ngân nga

Cuộc thơ cuộc mộng lồng cuộc lữ

Nghe thấu sau xưa buốt ruột rà

 

Tận trong lòng thẳm thầm cảm xúc

Ở một góc buồn giọng thơ ngâm

Thấm thía niềm chi mà khắc khoải

Tài hoa lãng đãng với cung cầm

 

Ngâm đi nhân thế sầu dâu bể

Lệ đã tràn sông đẫm mịt mù

Thôi chỉ còn em hòa điệu thở

Và bản tình ca giữa thiên thu

 

 

 

 

* Nguyễn Văn Nho. Lời tựa Bông cỏ nở từ những niềm sâu lắng. Hội Nhà Văn xuất bản, Hà Nội 2002

** Nguyễn Văn Nho. Lời tựa Dạ khúc trên đường về (nhạc) Wildflowers xuất bản, USA 1983

*** Nguyễn Văn Nho. Tản mạn về số 0 và Sunyata. Tạp chí Giác Ngộ 2011

**** Tuệ Sỹ. Triết học về Tánh Không. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1970

Thơ nhạc Nguyễn Văn Nho ( chữ nghiêng ) trích trong các tác phẩm :

Dạ khúc trên đường về ( nhạc) Wildflowers xuất bản, USA 1983

Bông cỏ nở từ những niềm sâu lắng. Hội Nhà Văn xuất bản, Hà Nội 2002

Ở một góc lặng thầm trên mặt đất. Bản thảo

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tâm Nhiên
Số lần đọc: 3928
Ngày đăng: 22.11.2013
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Trong màu xanh vàm cỏ - Hào Vũ
Nhà thơ kiệt xuất Nguyễn Đức Sơn - Tâm Nhiên
Alice Munro, nhà văn Canada đoạt Nobel Văn học 2013 - Hiếu Tân
Hai nhân tài Việt Nam ở thế kỷ XX. - Phan Huy Đường
Luân Hoán nhà thơ đương đại - Võ Công Liêm
CHARLOTTE BRONTË : Đường vào huyền thoại - Đỗ Nguyễn
Lê Quang Đông, xao xác những hoàng hôn truyền thuyết - Ngô Nguyên Nghiễm
Lê Trúc Khanh, một lần mộng đến nghìn thu - Ngô Nguyên Nghiễm
Nguyễn Thụy Long, Bóng chim trên ngọn khô - Ngô Nguyên Nghiễm
Gérard Chapuis Người góp nhặt mảnh vụn thời gian - Trần Trung Sáng