Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.181
123.221.304
 
Cảm thức Tha-Ngã Luận [KÌ 9]
Phạm Tấn Xuân Cao

 

CHƯƠNG III

HỌA ĐỒ BẢN THỂ THỰC TẠI ĐA KHÔNG GIAN

 

 

1.THỰC TẠI MẬP MỜ.

 

1.1 SỰ THĂNG GIÁNG THA THỂ.

 

Triển thời về tha thể hoạch định phỏng chiếu vào những đa thể ưu trương. Tha thể đặt căn nguyên trên tha tính, như thu được từ ưu thế trong hệ hình tha ngã tính. Ở đó, tha thể được biên kiến cho chính tính khởi vong. Khởi vong, vì là có thế mới đảm bảo được sự trình hiện cho tha thể. Khởi vong mang vác vào họa đồ bản thể thực tại có sức căng tràn đầy của tha thể, tha thể hiện diện chỉ trên đương mức khởi vong, để từ đó, tiến đến vạch mốc của sự chỉ dẫn phá đổ tất cả những gì cố kết, coi nó trở thành kinh điển đến mức không thể công phá, thì giờ đây, nói đến tha thể như vạch rõ ra cho họa đồ bản thể sẽ trong một chừng mực nào đó, có khả năng đáp ứng được phần lớn những mục tiêu mà công cuộc diễn giải về họa đồ này sẽ thực hiện. Do đó, nói triển thời tha thể trừu xuất nên dự phóng vào những đa thể ưu trương. Dự tính khởi vong xuất phát từ tha thể sẽ đảm bảo từ đó trình hiện nên các đa thể biểu xung dưới dạng (tính chất) ưu trương. Hoạch định phỏng chiếu như điều gì đó cố hữu và chắc chắn cho tiến trình dự tính khởi vong ấy. Đa thể ưu trương được đảm bảo cho tính hệ quả của họa đồ bản thể thực tại này. Căn tố đó đi từ hệ hình tha ngã tính dẫn lưu qua khởi vong để dật ứng nên thành những đa thể. Đa thể trong sự trình xuất tha thể ấy, khởi vong trên chính chặng đường hội thông cố kết vào họa đồ bản thể thực tại tự tồn này, dưới chiều kích mở ra cho công cuộc dự trình khởi vong – thăng giáng tha thể.

Vì vậy, việc một không trương trong bản thể tôi dao động để hoài nghi về sự hư vô hóa bản thể tôi này, như một hành động ngụy trang cho sự đánh mất chủ thể tính sau những dự trù tha thể hóa chính bản thân, đang từng ngày biến dạng nên những cơ động tồn tục phân minh cho sự hỗn kết xung ý của hữu thể, phải cố gắng thực hiện họa đồ lấp đầy mọi sự kiến lập nên những tiềm tố sung mãn nhất. Phản quang từ sự tựu thành của bản thân cảm thức đã thực hiện một cuộc khỏa lấp đồ sộ tính tự tồn tha thể, do những biến dịch tụ độ chú ý vào những không gian khác xa với không gian cổ điển này.

Không trương dao động chính là quá trình tự hoài nghi về sự tồn tại của chính nó. Dao động đó, không trương tìm đến những gì nó nghĩ là không là nó, hay có gì đó tự vong chính nó hoặc nó bị chính nó (trong dao động) thực hiện chính sự tự vong ấy. Tự vong thụ nạp vào nó hay trong nó phóng tán nên tự vong để nó hoài nghi về việc đảm bảo cho, (trước hết), coi như nó đó để sau này khi tự vong thành công nó sẽ không còn là chính nó nữa. Vì là dao động, cho nên, không trương ở đó/nó sẽ diễn ra những chặng đường hay những biểu hiện linh động nhất. Không trương luôn tìm đến chính tự vong ấy để hiểu hơn về sự có của nó. Không trương, do đó, mà dao động không ngừng trên chính chặng đường hoài nghi về sự tự trị của chính nó trong bản thân của riêng mỗi một chủ thể. Dao động không trương vì thế sẽ không ngừng dự phóng ra những phá vỡ chính cơ cấu nên nó, thành phần dao động để hoài nghi cũng vì vậy mà hoài nghi không ngừng về sự hiện trình khi không mà có ấy. Nói hoài nghi làm nên hư vô hóa chính bản thể tôi này chính là nói đến trong lát cắt của sự tiếp nối tha khởi, dự tính nên sau quá trình tự vong đó như hướng đi để tiếp nhận đang cố gắng thụ nạp và sẽ phải thụ nạp được chính tiến trình tha thể hóa.

Chủ thể, hẳn nhiên sẽ chẳng bao giờ chấp nhận sự tự vong ấy. Cho nên, không trương trong bản thể tôi (dưới chiều kích chủ đạo của chủ thể) thực hiện dao động để hoài nghi về sự hư vô hóa chính nó, chính muốn nói rằng, như thế, ngang bằng dưới hành động ngụy trang cho sự đánh mất chủ thể tính sau những dự trù tha thể hóa chính bản thân (nó). Vì chủ thể tính không chấp nhận tự vong, nên nó ngụy trang bên ngoài những sa thải không đáng có, để như nhìn vào nó biết rằng nó đang tự vong là bất khả. Nhưng nó không hề nghĩ rằng, tự vong đó là không thể không diễn ra, cho dù sự ngụy trang chính nó có kín đáo và tinh tế cỡ nào đi nữa. Ngụy trang như chính nó muốn khỏa lấp để che dấu đi việc hư vô hóa chính bản thân chủ thể, như không hề nghĩ đến điều được tiên liệu trước đây là tự vong xâm kích vào nó thẩm thấu đến tận cùng và triệt căn của mọi cấu tố gia nạp nào, cho dù nhìn dưới chủ quan cũng sẽ cũng chỉ là việc nhìn như nhìn mà thôi. Thăng giáng tha thể luôn đòi hỏi một tiến trình mà sự đánh mất chủ thể tính bắt buộc phải xảy ra. Thăng giáng, vì thế mà đóng góp vào đương lượng bởi dự tính khởi vong có được sau hệ hình tha ngã tính xác lập nên tiến trình của mọi hưng vong bản thể, sẽ chỉ như thế mà trong chừng mực nghĩ đến điều nó sẵn sàng dự liệu chính lộ trình tha thể hóa chính bản thân nó. Thăng giáng đặt ra yêu cầu cho khởi vong, khởi vong đi từ nó để kêu gọi nên tiến trình, mà bắt đầu ở điểm nhấn tự vong. Ngụy trang chẳng bao giờ đứng trước thăng giáng để cố hữu nên điều gì đó tất nhiên, để sau nó những hoạt cảnh cứ thế trở thành lưu dẫn không hề có sự cau có nào. Mà hoài nghi giờ này đã đặt cơ sở cho sự bổ túc nên những cơ động tồn tục.

Biến dạng nên cơ động tồn tục chính là hệ quả của một sự tiếp nối từ sự tự vong bản thân chủ thể. Để rồi, dẫn lưu thành hỗn kết xung ý của hữu thể phải cố gắng thực hiện họa đồ lấp đầy mọi sự kiến lập nên những tiền tố sung mãn nhất. Cơ động tồn tục bị biến dạng đi, do đó, dẫn khởi nên sự tự trình tha thể hóa. Tha thể hóa hội thông vào để từ đó tiến đến thực hiện công cuộc hoại thống. Vì là hoại thống cho nên mới biến dạng thành cơ động tồn tục. Hoại thống dẫn lưu thành họa đồ, mà họa đồ đó, lấp đầy mọi sự kiến lập nên những tiền tố sung mãn nhất. Hoại thống phá vỡ kết cấu để cơ cấu hóa. Hoại thống chính là cách cố gắng để hữu thể nhìn nhận về bản chất của mình. Tha ngã tính cứ kiến lập nên để tha thể kết tập thành (những bản lề của nó) cơ động tồn tục. Hoại thống chẳng bao giờ đưa đến điều gì đó, coi như nó không cứ lý chứng thực cho mọi dự tính chẳng bao giờ có được điều kiện hưng thịnh một cách yếu đuối đến thương hại ấy đâu. Hoại thống được nhấn mạnh đến như chính điều mà mọi tình hình lấn loát vào cơ động tồn tục được suông sẻ và một khi được kiến lập nên những tiềm tố sung mãn nhất rồi thì chính luc đó nó sẽ thực hiện cho cơ động tồn tục dưới khía cạnh/mức độ đương biến thuần thành nhất. Có hoại thống nên mới có cơ động tồn tục, mà có cơ động tồn tục thì mới xuất hiện hay hiển trình nên họa đồ lấp đầy mọi sự cố gắng/nỗ lực để tha thể hóa tát cả mọi đối tượng. Cơ động tồn tục có được cơ sở vững chắc là hoại thống mà hoại thống ấy luôn được hợp xướng trong mọi lưu dẫn để định hình họa đồ bản thể có những căn tố biểu sinh thích đáng nhất. Tiền đề cho mọi cuộc hợp lưu đến độ tràn trề vào hưởng cảnh miên tục này không gì khác đi ngoài hoại thống.

Từ khởi vong để rồi đi đến hoại thống, sự tựu thành của bản thân cảm thức đã thực hiện được điều mà quả thật rất xứng đáng cho vai trò của chính nó. Tựu thành ấy, đã thực hiện một cuộc khỏa lấp đồ sộ vào tính tự tồn tha thể do những biến dịch tụ độ chú ý vào những không gian khác xa với không gian cổ điển này. Tựu thành cảm thức chính là mức độ chín chắn của cảm thức thông qua khỏa lấp mà tha thể hóa được tự trình nên. Tựu thành cảm thức là cách mà cảm thức thể hiện tự nó trong tiến trình biến dịch tụ độ chú ý ở những điểm nhìn khác nhau. Ở đây, trước hết, vì có biến dịch của tụ độ nên mới có khởi vong, để rồi tựu thành cảm thức diễn ra ngày một mạnh mẽ hơn nữa, nên mới có khỏa lấp vào những tính tự trị đáng ra/đáng phải có trong những không gian khác xa không gian cổ điển này. Do đó, hoại thống chớm nở từ chính sự hoài nghi bản thể tôi mà bước đầu là dao động không trương chủ thể tính. Khởi vong, hoại thống, tựu thành là cách thức mà thăng giáng tha thể đệ trình ra, để từ đó xác lập nên chính sự thăng giáng đó là một tiến trình không thể phá bỏ được, vì cứ liệu nào rồi cũng phải xây dựng tren chính sự thăng giáng ấy mà thôi.Việc ném một đối tượng nào đó vào một năng trường bất kì thì cũng chỉ là việc chọn lựa ngẫu nhiên trong biên độ của chính sự thăng giáng tha thể ấy. Thăng giáng tha thể thực hiện nên mọi hưởng cảnh của chính tất cả các không gian tính chứa đựng đối tượng, mà trong đó kể cả đối tượng biểu thị ý nghĩa cho chính các đối tượng khác. Nhấn mạnh đến đối tượng đó là bổ túc cho cơ sở từ đó nó hiển trình nên họa đồ này có được sự hợp tác lâu bền và vững chắc hơn. Mọi cách thức thăng giáng tha thể là mọi mức độ hiển trình minh bạch hóa cho họa đồ bản thể thực tại này, một bản thể thực tại tự tồn của những tha thể.

Thế mới nói, về tri nhận thôi thúc nên siêu việt tính của bản thể tôi luôn ẩn tàng một diện mạo hoài nghi khả nhiễm mang màu sắc ước độ của sự kết luyện chủ-tha thể tính. Tri nhận thôi thúc nên siêu việt tính chính là cường hóa bản thể tôi lên đến mức độ bung tỏa của hưởng tưởng ngẫu phối, lấy cơ sở không gì khác trên sự kết luyện chủ-tha thể tính. Hoài nghi vào sự kết luyện đó, để viện dẫn những căn nguyên luôn trong từng ngày bổ túc không ngừng nghỉ vào tận bên trong sâu thẳm của tận huống mọi phương cách khế hợp, đảm bảo cho tiến trình khả nhiễm mang màu sắc ước độ sự kết luyện đó được (bị) hoài nghi đến. Thôi thúc nên siêu việt tính chỉ là gượng gạo mà thôi chứ thật sự thì, tự bản thân, nó không muốn hướng đến trạng thái đó bao giờ. Siêu việt tính là điều gì đó mà mọi căn nguyên dự phóng khó có được cách thức chế ngự thông suốt, do đó, hoài nghi về biểu sinh của nó là tất yếu. Siêu việt tính không dễ dàng trong một cách gì đó mà có thể quy chụp được nó hay nói cách khác là xác lập nên được nó. Siêu việt tính là cách thức tới hạn của riêng dự tưởng mà thôi. Siêu việt, nghiễm nhiên là có, nhưng nói đến nó là vô nghĩa, vì không đáng phải lao tâm/lao lực vào trong nó quá nhiều. Cũng như vậy, hoài nghi khả nhiễm đến sự kết luyện chủ-tha thể tính là cách thức để mọi yếu tố kiến tạo nên từ đó, được đảm bảo trên tuyến tính tha thể hóa một cách không còn gì bằng. Thăng giáng tha thể luôn cần đến, ít nhất ra hay tối thiểu là một sự hoài nghi chính đáng, đúng đối tượng. Thăng giáng dao động trong sự hoài nghi đó, khi khởi đi từ nó mọi cách thức dự phóng tiến đến các hệ quả, coi như đó là cần thiết đối với nó. Sự kết luyện chủ-tha thể tính được đặt ra nhằm hôn phối cho căn túc cơ sở hệ quả hướng đến từ chính sự thăng giáng tha thể (hay nói cách khác, từ chính lộ trình tha thể hóa ấy).

Như vậy, tính biến nhập di mãn cho biểu tượng tha thể tính bên ngoài cảm thức bất biến của bản thể tôi. Do đó mới có sở tính. Sở tính mang điều ngự trị trong những cung cách xác lập của các đa đích tính, ở biểu trưng tha thể khi di mãn tính biến nhập nên những cừu xuất tha thể. Tính biến nhập là cách thức để hoại thống căn cứ trên đó tràn lan sang các biên vùng rộng lớn hơn. Nó xác lập mọi quy tắc lồng vào nhau đến độ thẩm thấu bão hoà vô hạn. Tiết điệu của mọi trường hợp trong bước quy kết thăng giáng tha thể nhờ có biến nhập di mãn mà thành hình là cũng do đó. Có thể gọi mọi thao tác hưởng tưởng di mãn ra bên ngoài trong chủ thể, cũng sẽ luôn được đương lượng một cách ngang bằng với biến nhập thực hiện quá trình đáng ra nó phải thực hiện như thế mà thôi. Biểu tượng tha thể tính, những cái đó, chính là hướng đích trong tiềm độ của tính biến nhập, không gì khác, chính là như vậy. Mọi căn tố biểu sinh nên bên trong cùng các thao tác dựng xây thành hình của/trong công cuộc xác lập mọi kiện tính, để biến nhập di mãn có cơ sở thì cũng luôn luôn được câu thúc trong mọi phối cảnh từ chính thăng giáng không ngừng nghỉ, của các quy tắc đặt cơ sở cho biểu tượng tha thể tính bên ngoài cảm thức bất biến bản thể tôi. Ý chí khởi vong luôn muốn hướng đến mục đích tối thượng của chính nó đó là tận hữu của chủ thể tính, thì giờ này, tính biến nhập sẽ trong lộ trình thăng giáng chứa đựng tha lực mạnh mẽ nhất, khi đó, tận hữu sẽ là một sớm một chiều mà thôi. Sở tính tham chiếu về lại tính biến nhập cũng là lúc thăng giáng vượt cấp đi đến trên chặng đường mang vác đầy đủ mọi cách thức xác lập, cho ý chí khởi vong có được quy mô thông tính rộng rãi hơn. Mọi hạn độ của ý chí khởi vong tung khai thì sản sinh nên biên độ của thăng giáng được bung toả không ngừng, trong gia bội khả thích dụng mọi đối chứng đến cơ cấu hoá toát yếu tha thể tính.

Cho nên, có thể nói rằng, tuyến tính thời trường của bản thân không gian cổ điển đã ủy nhiệm cho cảm thức công cuộc kiến lập nên những yếu chỉ tạm thời, mang tính hằng cố từ đó được nâng lên như một tự tồn của tha thể tính. Tuyến tính thời trường có được vì nó luôn được cảm thức đảm bảo cho. Mọi phỏng tác nào vào bên trong thời trường thì cũng dự liệu trong mức độ khai tính có ứng đệm của những hệ quy chiếu liên thuộc trong bản thân không gian cổ điển. Tha lực luôn giam giữ nút thắt của mọi sự kiện kìm nén, để tránh bung toả không đúng chiều hướng các trở lực đang luôn luôn ngày nào cũng củng cố sức gia công ngăn chặn một cách yếu đuối. Có thể khi mà bản thân không gian cổ điển đã uỷ nhiệm cho cảm thức kiến lập nên những yếu chỉ tạm thời thì cũng chính lúc đó mà cảm thức chứa đựng kiến lập hay chiều hướng/xuất kiến lập sẽ luôn là đảm bảo trong đương mức tác chế, mọi phương hướng định hình nên cố gắng nhắm đến các yếu chỉ tạm thời đó. Trên lộ trình thăng giáng của mình, tha thể thường vấp phải những biểu xung hoạt lực đoản phân có sức cản trở không kém gì những gấp nếp xù xì gồ ghề của đường đi nước bước mọi nhịp điệu khởi sinh, nên mới chế tác mọi dự phóng hướng đến những yếu chỉ tạm thời đó. Mà không chỉ có vậy, lúc kiến lập nên những yếu chỉ tạm thời thì cũng là lúc mà mọi sự kiện diễn ra trong thăng giáng cũng luôn được dự liệu một cách nhìn nhận dưới khía cạnh coi như là không kém suông sẻ đi. Khi việc xác lập nên những yếu chỉ tạm thời dần dần được hình thành một cách có đồng bộ thì lúc đó, nó (bước tiến ấy) như nâng lên một tự tồn của tha thể tính. Tha thể tính biểu xung gián đoạn qua các yếu chỉ tạm thời cũng là một tính chất không kém phần quan trọng của việc câu thúc mọi phân lãnh xăm soi vào bên trong cái được gọi bằng tha thể tính, luôn chứa đựng những gì đó cản trở bất khả quy, luôn là điều mà coi như bình thường, bởi vì, nó lung linh trong thăng giáng vậy mà.

Bằng với mức độ hòa hợp ý thức tính chủ thể, thì mọi vẻ tiên liệu một cách tiền niệm về những khả năng xảy ra sau một giới hạn các biến cố ngẫu nhiên sẽ làm thành tính gia bội hóa cho tự tồn tha thể. Tự tồn tha thể biểu hiện trong những cuồng lưu dự tưởng chính mọi cảm tác từ gia bội hoá, mà trở đi nên trên cơ sở mỗi kết tập có chủ đích hướng định đến bất kì khả năng nào đem lại. Đi từ mọi công cuộc phát tiết nên cơ chế phản ứng lưu hoạt trong tiềm độ bão hoà, ngang bằng các phương cảnh bí nhiệm ở mặt biên các vùng phụ cận tiếp hợp lại với nhau. Khi đó, chính lúc mà những khả năng xảy ra sau một giới hạn các biến cố ngẫu nhiên từ đó đánh đố cho tự tồn tha thể, như định mức không gì khác đi ngoài cách thức chế tác nó. Có ở những chừng mực mà cũng đôi lúc khi chính dự thuộc liên đới vào mọi hoạt lực thì cũng đồng thời với cái được gọi là màu nhiệm kỳ bí, khi không lặp lại ở một đồng phôi nào giao kèo ở các vị trí không có sự lặp lại, cũng như ở nơi chốn nào đó, mà không tìm được sự dự phối các ngẫu tượng biến thiên thì với mức mức độ hoà hợp ý thức tính chủ thể, tác động sẽ là hướng đi đa đích tính nhằm dụng hữu các hưởng cảnh luôn phối tận vào vô hạn. Mức độ hoà hợp ý thức tính chính là cách mà mọi công cuộc trong mỗi bước tiến thăng giáng tha thể, chứa đựng các diễn trình hoại thống đang luôn kích xuất đến/vào mọi điểm tập quy chính đáng, và coi đây là đồng phôi trong mọi dự tưởng giao cấu thêm nữa, cho đến khi thăng giáng trở nên trùng phùng thì cũng chính là thời điểm mà sở tính của mỗi thành phần nhược trương bị đẩy lùi ra xa, đi vào tận biên mặt của đoạ vong. Đoạ vong cứ thế mà nhồi nhét trong mọi tình huống luôn có được câu thúc không ngừng nghỉ về lúc chạm vào biên vùng của thế tính thăng giáng tha thể. Biến dịch tha ngã tính mới ngay lúc này khả nhiễm không ngừng trên cái cách tiên liệu ấy được đảm bảo cho. Gia bội hoá tự tồn tha thể và dĩ nhiên là trong thăng giáng của chính nó, luôn là mọi tiêu thức phương chỉnh có hiệu đính cao thượng không hề ngại ngùng gì cả.

Để rồi, ý chí luận lí không gì khác hơn là phân định ranh giới cho cuộc tồn lưu bản thể. Vì thăng giáng luôn dàn trải trong mọi cách thức biến điệu khó nắm bắt, nên thăng giáng truyền dẫn biến dịch tha ngã tính vào các miên trường khả dĩ cho sự tồn đọng bản thân tha thể tính ở các lược dẫn lưu đồ kiện tính. Trong khi mọi cách thức chế lập nên nó đòi hỏi luôn luôn là thuyết phục để nhằm đảm bảo cho công tác dật ứng nên chính nó, cũng là lúc khi mà mọi tình huống khơi dẫn nên/thành, cũng là lúc mà sự nhập cuộc của ý chí luận lí thể hiện được cách thức biên biệt hoá phân định/rõ ràng hơn hết. Mọi lưu đồ lạc lõng trong khi phân định ranh giới cho cuộc tồn lưu bản thể dựa vào thăng giáng ấy, trên ý chí luận lí là tất hữu khả tất hữu một cách có chủ ý, về phía tồn hoạt bên trong cũng như bên ngoài, hứng lấy mọi cách thức xác lập chứng lý cho ý chí luận lí không ngừng biện bạch về thăng giáng hội thông đến hoạ đồ bản thể. Mọi phóng tác đến tồn lưu bản thể cũng luôn là lộ trình biến điệu của các đặt định đến những cấu nạp cấp cho nó, lúc nào cũng chứa đựng một cách đầy đủ ý nghĩa cả. Khi phân định ranh giới thăng giáng diễn ra cũng là lúc mà tồn lưu bản thể được hôn phối đến mọi khả tác thành nên tất cả mỗi một cầu ứng nào đến nó. Thăng giáng biểu hiện tồn lưu trong lúc mà hoại thống hưởng ứng ở những khía cạnh cảm thức, đảm bảo cho nó mang định tính phối lực đến các năng trường chứa đựng các biến thể, không nhằm cách điệu cho mọi khả chứng tính đối với công cuộc gạn lập nên ranh giới tồn lưu bản thể. Khả chứng tính phân định ranh giới vương vịn vào đó cũng là lúc mà thăng giáng biết mình trong tiềm độ phối tận chạm đến các sơ đẳng mức độ thể lý, có trong nó, để chỉ là cố gắng diễn giải đến trong tình huống căng tràn và đầy ắp niềm tin cho công cuộc hưởng tưởng biến dịch tha ngã tính.

Vì thế, phương pháp nhập thể để mang lại yếu tính của một không gian bất kì quy chiếu nên bên trên sự linh động của toàn bộ vùng không gian, mang tính giới hạn lại nơi bản thể cố hữu tôi. Bản thể cố hữu tôi là lụn bại và băng hoại đến tột cùng tha hoá, tận mạt của mọi cách đặt để những thiếu khuyết đáng chỉ trích và luôn bị/phải chỉ trích đến không nghĩ lại một đường hướng nương nhịn. Bản thể cố hữu cực đoan, bảo thủ đến mức độ mà tận cùng của sự đình trệ, nó bất cập vì thiếu sót của nó là không thể kể hết, và một tai hại lớn nhất của nó là luôn cố ngăn cản công cuộc phỏng tác, đến sự tự trị các biểu xung tha thể. Biến dịch tha ngã tính dẫn đến thăng giáng tha thể, do vậy mà đạp đổ bản thể cố hữu tôi là hệ quả hướng đích không thể thực hiện như thế. Khi mà bản thể cố hữu tôi phỏng tác những ảo niệm nhằm che lấp đi, để đè nén thăng giáng về lại dòng chiều hướng phân định đơn cực cho chính nó mà thôi, cũng là lúc khởi vong kiểm toả nó, nên thăng giáng không thể không xảy ra cho dù nó có bao nhiêu cố gắng cũng bằng thừa, vì một khi xuất hiện khởi vong thì hệ quả thăng giáng là bất biến không thể không xảy ra được. Giờ này thăng giáng lại có thêm phương pháp nhập thể nữa, để mang lại yếu tính của một không gian bất kì quy chiếu nên nó thì cũng chính vào lúc này, mà sự linh động của toàn bộ vùng không gian đồng thời được tham dự nên. Phương pháp nhập thể là cách thức mà thăng giáng tha thể rơi vào các phân vùng không gian, mà ở đó, nó thực hiện sự loại bỏ những tạp dị bất thường nhằm biến đổi hoàn nguyên từ mức độ hiệu chỉnh nên bất kể các giao phó nào, từ thăng giáng đi vào tận những phân vùng ấy. Cho nên, phương pháp nhập thể chính là phương pháp đưa tha thể đến nơi nó cần đến là đầy đủ ý nghĩa và trọn vẹn mọi khía cạnh cầu thị trong nó một sự đáp ứng trong toàn thể các phương cách bổ nhiệm, ở những tình huống mà gạn lọc nào đến nó, cũng luôn là hôn phối để hội thông không ngừng nhằm đưa đến hưởng cảnh yếu tính các không gian mà thăng giáng tha thể rẽ ngoặt đi vào.

Đôi khi bằng những hành động mơ hồ bởi chưa được tái cơ cấu trong nội bộ không gian liên thuộc của thế giới đa vùng, nên tự bản thân cảm thức không thực hiện một cuộc dẫn nhập vào sự cáo chung của ý thức tính nơi chủ thể được. Tái cơ cấu trong nội bộ không gian liên thuộc, với mức độ sắp xếp chính chúng đã luôn đưa đến mọi phương thức khoả lấp vào việc gạn lọc tính minh bạch/tường cho cảm thức. Như vậy, trở nên tỉnh lược bớt được cầu kì mọi hình thái biểu hiện cách thức diễn dạt đến thông hiểu về cực tính hạn độ, trong điềm tĩnh không khỏi ưng chuẩn mọi phong cách hưởng lực của đệ trình tha thiết, từ các dẫn khởi đi đến chứng thực cho mọi cầu sinh tiềm phục nào đến các hành động mơ hồ. Thăng giáng cho nên không thể không mơ hồ. Cơ cấu trong nội bộ không gian liên thuộc nhằm khởi tác nên bên trong/trên/dưới/ngoài mọi điểm nhìn nhận/xem xét về đối tượng, khi chính lúc mà đối tượng cứ luôn phập phồng trong thăng giáng ấy. Lúc mà câu thúc nào gia nạp không ngừng vào mọi đình trệ ngự trị trong suốt những bó buộc, khó lòng dàn xếp đi đến mỗi mức độ câu thông nối ghép ngoài các đặc tính thông dẫn về lộ trình thăng giáng tha thể. Liên thuộc của thế giới đa vùng là bước chạm đến cung bậc réo rắt nhất của bản sonate ưu trương, nhưng không kém phần trầm bổng thanh thoát. Mọi cuộc biểu kiến để dự tính nên/đến trong chừng mực tiềm lực, mà câu phối nào về đến tất cả hạn độ định xuất cho ra thế giới đa vùng, cũng là điều dễ hiểu khi chọn lựa thao tác nhấn mạnh đủ sức hoạt tải của thăng giáng, lan toả vào trong các bước/mức độ phủ trùm mọi con đường ngăn cản, trước bước tiến của vô cùng các loài sâu mọt, khó nắm giữ chút gì đó là riêng tư hay là sáng rõ ở những điểm nhấn câu thúc đi lên từ chặng đường, của công cuộc biểu sinh nào cũng vậy, và đều là sự tự trình hướng đích đến thể đa nhiễm khả chứng tính cho lộ trình thăng giáng đó luôn được diễn ra không ngừng nghỉ.

Tiên nguyên của hệ hình thế giới đa vùng, không gì khác đi nữa, trong hệ quả hướng đến lộ trình cáo chung chủ thể tính. Mọi tiềm mặc thông tính luôn vượt rào và tràn qua các biên vùng đặt định ở đó như yêu cầu chứng lý cho mỗi một sự tự trị có đủ cơ sở của sự hợp thức hoá mọi công cuộc trợ ứng, đến lộ trình tham dự tha khởi ý hướng tính nơi cơ cấu tha thể hoá. Thăng giáng tha thể là cách thức đặc tả tha thể trong biến dịch tha ngã tính mà cáo chung chủ thể tính là hệ quả tất hữu. Tha ngã tính biến dịch trong trường đoạn giả năng hư cấu của mọi tiềm độ phục căn, biểu sinh đương lượng hoá/tính trên nền mức độ hoà hợp bản thể thực tại này. Tha thể thăng giáng trở nên chứa đựng trong bản thân nó đầy rẫy những dữ kiện của phương thức khoả lấp các khoảng trống không đáng có, ở mọi phương thức luôn tính đến để bù trừ cho biến dịch tha ngã tính. Không loại trừ đi cơ sở mà phỏng tác bất kể nào hướng vào cái được tập kết là vô vọng, ở cuối chiều kích đương biến trên thăng giáng tha thể cũng là hồi kết để cáo chung chủ thể diễn ra. Tiềm mặc luôn thông giám cho một hội dẫn của công tác bảo trợ dự tính minh phục, tiềm tàng khắp nơi, hay mọi phương vùng yêu cầu chứng lý cho mỗi một sự tự trị có đủ cơ sở để sự hợp thức hoá mọi công cuộc trợ ứng đến lộ trình tham dự tha khởi ý hướng tính. Về lại thăng giáng tha thể để cơ cấu hoá biến dịch tha ngã là mọi phỏng tác về lại cơ cấu biến dịch ấy, đầy ắp và dâng trào lên đến tột độ hay định thông tính luôn vượt rào và tràn qua. Mọi cách thức hướng đích nằm trong đa phương vùng hứng lấy điều quy phục khi mọi cách tác chế để đầy đủ dữ kiện tiến đến quy phục cơ cấu hoá tha thể, trước mức độ thăng giáng của chúng là minh chuẩn cho mọi tự phát cấp cấu không ngừng nơi/đến phong cách cơ cấu biến dịch đầy màu sắc ấy. Một khi mà tiềm mặc thông dẫn đến độ bão hoà cũng là lúc thăng giáng chìm vào cực tính biến dịch.

Cho nên có thể nói, bản thể tôi là mức độ thuần thành của miên tục được giới hạn lại trong phân vùng có sự hạn định về mặt tiếp xúc trên vũ trụ cổ điển. Bản thể tôi là đặc cách của miên tục miên trường nhằm phân bố các chủ điểm dự tính phát huy được sức căng của mỗi ý hướng từ đó (tức là tại vị trí của bản thể tôi – xét như nó đang ở trong một hệ tĩnh). Mức độ thuần thành của miên tục, miên tục ở đây là miên tục của thực tại hiểu dưới khía cạnh miên trường, nói thuần thành tức là sự thoái trào có ở bản thể tôi không khi nào được nhắc đến/tới cả. Bản thể tôi không đồng nhất/đồng nghĩa/đồng nguyên với chủ thể tính. Bản thể tôi là mức độ gia tăng của hữu thể theo hướng đi vào, còn chủ thể tính lại là mức độ gia tăng của hữu thể theo hướng đi ra. Cơ cấu bản thể tôi luôn được dựng xây và đặc cách khứ hồi từ chính định tính của hữu thể, mà đích thân hữu thể, được xây dựng ở đây, đều đã bị hoà tan theo biến dịch tha ngã tính với mức độ kết tập thăng giáng tha thể mạnh mẽ như thế, cho nên, định tính của hữu thể không còn là cái cách mà hữu thể “truyền thống” vẫn nghĩ. Chính vì lẽ đó, mà bản thể tôi được hiểu như là hệ quả tức thời của công cuộc thăng giáng tha thể nói riêng và là hệ quả khứ hồi trong giai đoạn ngắn của lộ trình biến dịch tha ngã tính nói chung, do đó, tự nó mà độ định tính của bản thể tôi coi như hiểu được nó thì cần phải và luôn như thế, nếu như nói nó giới hạn lại trong phân vùng có sự hạn định về mặt tiếp xúc trên vũ trụ cổ điển. Bản thể tôi này khác bản thể tôi khác nhưng cả công cuộc, cả lộ trình đều luôn tiến tới quy trình hợp thức hoá mọi đối tượng. Bản thể tôi cũng vì thế mà đa màu sắc trong tương tục của mọi cái gì đó, mà nói cụ thể hơn là đi ra-đi vào, tuỳ ý, theo cách hiểu của ai đó, bất kì.

Với tha thể là cái mang những ước định khi chính sự hoài nghi về một khả năng kiến lập nên những chủ thể khác chủ thể dang thực hiện quá trình hoài nghi đó. Được cảm thức biến điệu trong một đạo hàm và rồi kết quả của phép tính đạo hàm đó sẽ hiển trình ra một lượng xác suất tồn hợp cho mỗi một khả năng xảy ra có thể có của một chủ thể khác chủ thể đang thực hiện quá trình hoài nghi ấy. Tự phát nên song song với quá trình dự phóng của chủ thể đang hoài nghi một cách triền miên về sự kiện có đó của chính mình trong những bối cảnh thực sự khác nhau. Để nhằm cô lập đi mỗi mức độ chủ thể mang tính khử trừ trong không trương cảm thức, sẽ phát động ý hướng tính được dàn nạp gia bội hóa sự gia bội đang gia tăng trên định lượng gia bội phức hợp biên bỉ sơ thủy, mang định mệnh tồn vong chủ-tha thể tính trong sự lựa chọn chính bản thể.

Tha thể mà trong tồn vong của nó không được tách bạch những gì đâu đó là thật sự cặn kẽ. Thăng giáng hỗ trợ cho tha thể để nó có thể tác chuyển nên không hề điều gì đó là lãnh nhận một cách dè chừng cả. Mọi cái đều là những bổ túc để chúng ta có thể hiểu hơn/thêm về tha thể. Chính trong dao động biểu hiện khác đi bằng thăng giáng ấy, mà chúng ta gọi tha thể là mỗi một cộng tồn vào điều gì đó không thể không phân lập nên được. Cái khó khăn nhất không phải là cái biết được một điều gì đó như nhận diện nó là tha thể, mà là cái khó khi biết được các trừu xuất dự hướng về chính nó (tức tha thể) mới là cái cách thức được lập nên một cách thực sự không hề dễ dàng một tí nào cả. Đôi lúc, khi mà mọi nỗ lực trong cách hiểu về tha thể lại là tác nhân tai hại khiến chúng ta không sao có thể hiểu về nó được, mãi mãi. Chỉ khi để cho sự trừu xuất về chúng cứ tiến diễn một cách chậm rãi, điều độ là khả năng xâm nhập vào thăng giáng cũng như hiểu hơn về tha thể sẽ luôn được an ủi phần nhiều (hơn).

Cảm thức biến điệu chạm đến hưởng cảnh mà mọi phóng tác luôn luôn được đề cập là mang đến sự hiển trình của tổ hợp đại lượng xác suất có trong khi chủ thể thực hiện quá trình hoài nghi ấy. Thăng giáng tha thể góp vào ở đây, cố ý đem lại cho minh bạch tính hiển trình của cảm thức biến điệu đó. Thăng giáng luôn bổ túc một cách khả dĩ đến/đối với cảm thức biến điệu không ngừng ấy. Biến điệu cảm thức vì là duy trì ở sức chứa đựng không ngừng nghỉ của dự phóng đến hưởng cảnh, tất nhiên, ở đó bằng với thực tại các phân vùng. Hưởng cảnh mà cảm thức biến điệu để mọi phóng tác đề cập đến, khi nào cũng đem lại mọi sự dự tính không ngừng nghỉ, để các đồng phôi giao cấu vào chồng chất trạng thái sẽ được thăng giáng tha thể đưa ra ánh sáng. Hành động phủ quyết của bất kể một tiên liệu nào, đề cập đến cảm thức biến điệu trong biên độ phân vùng khai tịch luôn không đưa đến cho nó một phân định là cô lập hay không. Mọi quan niệm không những là đặt căn bản/cơ sở cho mọi thứ tổ hợp xác suất có trong khi chủ thể thuộc diện hoài nghi, luôn mang trong mình tất hữu hệ quả của quá trình thăng giáng không ngừng nghỉ của tha thể. Thăng giáng không ngừng, vì vậy mà sự hiển trình của tổ hợp đại lượng xác suất có trong khi chủ thể thực hiện hoài nghi sẽ là căn túc bền vững. Mỗi tiềm độ không ngừng của thăng giáng thì cũng là sức tái tạo của cảm thức biến điệu đó. Cảm thức chứa đựng định tính biến điệu thì sẽ luôn khi nào cũng vậy, chạm đến hưởng cảnh hiểu như là trạng thái chồng chất đối tượng khả dĩ. Chồng chất trạng thái đối tượng khả dĩ sẽ luôn được khai tịch trong thăng giáng tha thể, khế hệ nào đó diễn ra trong thăng giáng cũng luôn là tương ứng cho mọi/mỗi/toàn bộ phân vùng khả dĩ cho thăng giáng, được hiển trình mọi tiên nguyên biểu sinh có phỏng tác đến các chấm định không ngừng, hiểu như là di mãn ngưng trùng.

Sự kiện có đó của chính mình trong những bối cảnh khác nhau, mà ở đó, cách thức xây dựng mang tính điển hình cho công cuộc xác lập nên/đến họa đồ bản thể thực tại này, dưới cái nhìn tha thể hóa trong đạo lộ thăng giáng không cùng của chính nó. Có đó của chính mình như mình đây đang ì ra giữa đó. Ì ra như một vật hóa. Sự kiện có đó của chính mình trong những bối cảnh khác nhau so với thăng giáng tha thể trong biến dịch tha ngã tính có gì không tương đồng? Chỉ khi hiểu một cách cụ thể (đơn giản) như thế thì đạo lộ thăng giáng của tha thể sẽ trong một chừng mực nào đó, tự tin hơn trong cách hiểu về chính nó chăng? Không hẳn là mà ở đó, chỉ như cung cách biểu hiện ra thôi tha thể cũng chứa đựng ý nghĩa không ngừng nghỉ (hết) về nó rồi. Thăng giáng, do đó mà thịnh hành trong vỗ số sắc thái cộng hữu liên tục không ngừng. Chính vì sự kiện có đó của mình mà đạo lộ thăng giáng không ngừng biểu hiện, vì nó (bản thân) không ngừng được sức dự phóng vào. Do vậy, mà thăng giáng đã xác lập nên họa đồ bản thể thực tại này, không gì khác, cũng như thế trong chính bản thân nó là tương đồng với chính quá trình tha thể hóa. Tất cả chỉ là những gì đó đang đi ra mà cũng ở đó nó đi vào. Cứ đi ra-đi vào như vậy mà tất cả mọi đối tượng đều luôn được lấp đầy trong công cuộc tràn qua của lộ trình thăng giáng tha thể, ước định trên chốn chặng sự kiện có đó của mình. Mình đây, mà có đó tức những mình khác cũng đang có đó, xung quanh mình ấy. Khả thể đưa ra đây/đến đó, sẽ dễ hiểu hơn khi nhìn nhận về công cuộc thăng giáng tha ngã tính thế chỗ cho tha thể thăng giáng. Chuyển tiếp là cần thiết vì không một lộ trình nào mà lại không có sự liên đới với các bước/bộ phận/giai đoạn/thành phần chính nó, ở đó nó biểu hiện cũng chỉ là trong phạm vi, không gì khác, thăng giáng không ngừng mà thôi.

Tha thể hóa trong lộ trình thăng giáng của mình luôn mang tính khử trừ mọi cách thức xây dựng/dàn xếp nên có đó, ở mỗi một phỏng chiếu đang còn đọng lại cho nó chút luyến tiếc hoang mang, như khi không có gì để khơi gợi ra cho nó tồn tại trong các phân vùng an toàn hơn chính lúc đó, mà sự lựa chọn chính bản thể sẽ là cách thức giải quyết có hiệu quả nhất. Tiên nguyên nào rồi cũng định đoạt trong tự tồn mà thôi, và cho dù có bao cố gắng đi nữa hay là nhiều hơn thế thì mọi cảm tác phóng chiếu vào tự tồn không được coi là nung nấu điều gì đó hắc ám, mà thật sự luôn luôn là quang minh trên từng chi li biểu hiện. Lộ trình thăng giáng của tha thể qua các mắt xích mà hội thông với trạng thái chồng chất các đối tượng khả dĩ, có như thế lộ trình mới luôn tăng vọt không ngừng các chỉ số đảm bảo an toàn, trong mức giới hạn khẳng định tính minh bạch cho các cấu trúc trong chính lộ trình hay mỗi một cung cách nhìn nhận về bất kể một đạo lộ nào, coi như là phân nhánh của trạng thái chồng chất đó sẽ là tiên liệu cho các đoạn hợp lưu có thể trao đổi thông tin tức thời với nhau. Phân vùng an toàn hơn chính là thông dẫn của thăng giáng tha thể rò rỉ một cách êm đẹp vào đó, như chính cách thức thông dẫn ấy đã đáp ứng được căn nguyên sơ khởi của chính quy thăng giáng tha thể vào lại/đến/trong mọi thẩm thấu dật ứng nguyên tuyền, mọi tác chế lấm lem biến điệu đang nhào nặn nên các bó trạng thái hiểu như đó là đã lan tỏa đến tận cùng trong đương mức hội dẫn thông tính của các tha thể, sở hữu riêng mình ở các chốn chặng phân vùng minh nhiên toàn cục, để rồi họa đồ từ đó phát tiết thăng hoa không ngừng như trong cấu tố định hình có quy/cung cách lập trình sẵn của sở tính khả tất hữu tha thể.

Vì thế mà, những mức độ thăng giáng của cảm thức luôn dàn nạp tha thể vào vũ trụ cổ điển ở vi phần không gian hoàn toàn không giống nhau. Tha thể thăng giáng biểu hiện trong những cương vực mà vũ trụ cổ điển luôn hiển trình vào tính chất hội thông với các không gian khác không gian cổ điển của vũ trụ cổ điển. Ở đây, thăng giáng cảm thức được lưu hoạt không ngừng nghỉ, từ đó, mà theo cũng khía cạnh của nó để dự chiếu theo từng mẫu mực của thăng giáng tha thể. Thăng giáng cảm thức điều phối thăng giáng tha thể. Cảm thức thăng giáng dựa trên sức khả cường của thời trường trong nó, để tính biến điệu diễn ra một cách có liên đới chặt chẽ với các vi phần không gian khác nhau. Ở vũ trụ cổ điển, mà mức độ cấu góp của nó lúc nào cũng không ngừng được bổ túc theo nghĩa gia nạp từ thăng giáng của cảm thức. Cảm thức cũng có thể hiểu theo dưới góc độ, mà ở đó, nó xảy ra sự thăng giáng là tính chất coi như không là mới mẻ/bất ngờ cho lắm. Khi dàn nạp tha thể, cảm thức luôn biến điệu ở những trùng ngưng thăng giáng của mình, vào tính chất hội thông đến các vi phần không gian đó. Điều mà thực sự coi như là phản ứng của cảm thức đối với tha thể cũng luôn chú ý đến việc dàn nạp không ngừng  ấy. Có thể khi dàn nạp cảm thức thăng giáng biến điệu xảy ra tình trạng quá tải, nhưng không vì thế mà dẫn đến/làm thành biến cố gây ra sự trục trặc ở chính lộ trình dàn nạp. Ngưỡng cửa dẫn vào các vi phần không gian không vì thao tác chợt đến chợt đi của thăng giáng mà cứ đột sinh từng đoạn nhảy cóc, để từ đó lùi lại, ta cảm nhận, như quá trình vừa mới xảy ra đó được xem xét dưới mức độ lan toả không ngừng nghỉ. Trên cơ sở hoàn toàn không giống nhau ở các vi phần không gian, vì thế mà mức độ thăng giáng tha thể cũng coi như đó là tiên nguyên của tính biến điệu chính nó.

Để rồi, đa không gian vẽ ra một viễn tượng cơ trình thiết tạo cho sự đồng bộ tuyến tính biện minh thành những cơ cấu tha thể. Cơ cấu tha thể là lộ trình cũng như hệ quả của tiên nguyên biến dịch tha ngã tính. Cơ cấu tha thể cơ cấu vào tiên nguyên đó, để hoạch định nên hướng đi của mình, coi như đáp ứng được tất cả các yêu cầu đề xuất và điều phối từ chính tiên nguyên ấy. Biểu sinh của tiên nguyên, vì thế, mà cơ cấu tha thể linh động trong tính chất hợp quần của mình. Biến dịch tha ngã tính hôn phối ở những ngã rẽ coi/mường tượng như chính ngã đường đó xuất hiện tính chất rò rỉ. Do đó, cơ cấu tha thể là sức vóc hiển trình của đa không gian chia chẻ viễn tượng cơ trình thiết tạo cho sự đồng bộ tuyến tính biện minh thành chính cơ cấu tha thể, để cơ cấu đó hiển trình không ngừng đến đa đích tính không gian mà thôi. Đa không gian không lôi kéo về mình bất kì một điều gì đó mang tính chất vụ lợi mà cũng khi vẽ ra, tức là trong lúc đó, viễn tượng cơ trình thiết tạo cũng là sắp đặt (cố kết) đến những dàn nạp ngẫu phối tiệm cận vô hạn. Mọi đối sánh mang tính chất cầu thị nào cũng là mục đích nhắm đến của cơ cấu tha thể, vì như thế, nó liên quan đến chính đặc tính đồng phôi của các tha thể đồng bộ trong cơ cấu đó mà thôi. Để rồi, mọi cách thức xác lập của các tha thể trong cơ cấu ấy sẽ làm thành cơ trình thiết tạo cho sự đồng bộ tuyến tính từ đề hướng biến dịch tha ngã tính gieo rắc nên. Biện minh thành những cơ cấu tha thể, do đó, đa không gian bảo toàn nguyên tắc thắng vượt mình (bản thân nó) đến/dự trù hoạch định nên các ngẫu phối như biên kiến tiếp nối (hội thông) trên cơ sở của các biến cố. Thắng vượt để đi đến cơ trình thiết tạo luôn đẩy lùi ra xa mọi cái nằm ngoài mong muốn của chính nó, cũng chỉ vì che chở cho tính tự trị được cơ cấu hoá tương nguyên với lộ trình thăng giáng tha thể.

Do đó, thấm nhập phân vùng đa không gian phác họa nên viễn tượng phục sinh được định mệnh hóa cho sự tồn vong tha ngã tính. Nơi những điều khẳng định phi biên biệt hoá với cung cách của tự hữu ngẫu nhiên mang sự hoàn trộn vào đa thành phần tổ hợp tha thể tính. Định mệnh tồn vong của đối tượng được biểu xung qua hệ hình chi phối nên các đối tượng, hiểu như dưới khía cạnh của kết cấu nền tảng. Có ý chí khởi vong, cho nên, định mệnh tồn vong luôn thăng giáng theo mọi cách thức biểu hiện, cũng như xác lập cho mọi cơ chế tiên khởi tự trị. Tự trị dẫn dắt/đưa vào ở góc cạnh ngoại lệ chăng, tức là trong hệ hình của đối tượng tự trị tham gia vào đó chỉ như là yếu tố thứ cấp? Định mệnh tồn vong thăng giáng đi thì chỉ một mình đối tượng không làm được. Chỉ khi xuất hiện tính tự trị mới dẫn đến phác hoạ viễn tượng phục sinh vào các phân vùng đa không gian hiểu như dưới hành động thấm nhập. Mọi cảm tác nào cũng là bí nhiệm hết sao? Dĩ nhiên, sự có mặt của tính tự trị không làm nên điều gì không rõ ràng cả. Chỉ lúc mà thấm nhập vào cũng là lúc khởi tác tự tại tính. Tự trị là tiếng nói của cái cần được (cần phải lên tiếng). Vì mọi góc khuất trong lịch sử truyền thống đã bỏ quên tính tự trị. Lãng quên đó thật sự đáng buồn hay con người thật sự không biết gì đến chúng? Tự trị luôn cần cho đối tượng vì chỉ có tự trị đối tượng mới là nó, như là nó, để sự nhìn nhận về nó đảm bảo được định mệnh tồn vong của nó gắn chặt vào các thăng giáng tha thể. Hệ quả hồi sinh nào cũng thiết đặt không ngừng vào trạng thái chồng chất các đối tượng khả dĩ. Vì chồng chất trạng thái nên tự trị, do đó, cũng khởi phát không ngừng cho ngẫu sinh ra (thành) những cương mục không gian, như vậy, tự trị có thể xét đến coi nó là lạ lẫm thì có thể chấp nhận được chăng? Không có bất kì điều gì ngăn cản tự trị mà hiển minh nên định mệnh tồn vong đối tượng được minh nhiên cả, chỉ là trong cách nhìn nhận đối tượng mang nghĩa tự trị bao vây quanh nó. Khi đó, tất cả đều bừng tỉnh hẳn ra và đó là sự thật.

Cung cách tự hữu chính là tiếng nói của tha thể, khi tận hữu của chủ thể đến hồi kết một cách thật sự cáo chung, để rồi từ đó nó khoả lấp vào các khía cạnh khai tịch của phổ hữu. Cung cách tự hữu vì vậy mà bổ sung không ngừng vào tự tại tính đích thân các đối tượng, coi như nó chính là tiếng nói của tha thể cũng không xem như đó là khó hiểu cho lắm. Cung cách tự hữu là khởi tác từ ý chí tự tại, mà bấy lâu nay bị xoá nhoà khỏi đối tượng (trong trạng thái chồng chất đối tượng khả dĩ). Tự trị, vì thế mà trở thành ý chí bộc phát mạnh mẽ của cung cách tự hữu. Tiếng nói của tha thể ngang bằng với cung cách tự hữu phát sinh tự trị. Phát sinh cảnh tính để định hình nên tự trị thì cũng đồng thời mà cung cách tự hữu đem tiếng nói tha thể dẫn lưu đến không cùng/ngừng/tận. Khi tận hữu chủ thể đến hồi hiển minh cũng là giai đoạn mà chủ thể bước vào cáo chung chính nó. Lúc đó, khoả lấp vào các khía cạnh khai tịch của phổ hữu (hiểu như là dự phần của tính hữu) sẽ không ngừng bổ túc cho cung cách tự hữu đó diễn ra một cách suông sẻ. Mạch lạc có được trong đường hướng của nó là lúc mà thời điểm tiếng nói tha thể nhấn mạnh đến được một cách mạnh mẽ nhất. Khi chủ thể cáo chung thì thăng giáng tha thể có phần nào đó dịu đi để ổn định trạng thái sắp xếp cho đối tượng khả dĩ len lỏi vào vị trí của chủ thể để rồi thay thế nó. Khoả lấp đó làm đầy đi bởi guồng sống của nó tràn qua tất cả, do vậy mà tách bạch hoá nên một sự nảy bật lớn ở vị trí cố kết tha thể vào đối tượng chứa đựng mọi khoảnh khắc lãng mạn nhất của công cuộc chuyển giao ấy. Không thể cau có để rồi đón đợi nó như điều gì mà tận hữu chủ thể đi đến cáo chung thành một hồi kết thật sự. Khai tịch phổ hữu từ đây trở đi mang màu sắc đưa đón để lĩnh hội mọi biểu hiện, không là gì khác đi ngoài thăng giáng tha thể tân biên.

Như vậy, tái cơ cấu không gian nơi quá trình tồn vong của đa không gian luôn chỉ định cho sự biên biệt hóa thường hằng tính của tha thể bên trong bản thân chủ thể. Tái cơ cấu không gian làm nên một bước đi tiếp theo từ điều gì coi như là có trước. Mang tính chất tái sinh, cho nên cơ cấu không gian biểu hiện thành chỉ định ngẫu sinh nào cũng là mang thao tác không khó để như định tính hoài nghi có thể có, về chúng/nó. Quá trình tồn vong của đa không gian được tái cơ cấu nên từ đó mà hưởng ứng các dâng trào không ngừng nghỉ của khả năng tái sinh. Cơ cấu tha thể trong thăng giáng nếu như không tái sinh thành phần (ít nhất ra là vậy) thì sẽ được hình dung như điều gì nào/thế? Quá trình tồn vong của đa không gian chỉ định, mà chỉ định cho điều gì bất kể có đúng không? Biên biệt hoá thường hằng tính bên trong bản thân chủ thể sẽ thế chỗ cho khoảng trống đứng trước câu hỏi ấy. Biên biệt hoá thường hằng tính đưa đến khả năng tái cấp cấu không cùng mọi biểu sinh lãnh nhận hưởng ứng vào các chồng chất. Biên biệt hoá ấy mà linh động thì cũng dễ hiểu. Linh động nữa thì cũng do vậy mà chỉ định cho mọi phỏng tác vào các biến cố có được dự tưởng tiên nguyên vào phân vùng sở tính cũng chính chất cho chúng dựng xây nên biên biệt hoá thường hằng tính tha thể. Bên trong bản thân chủ thể sẽ luôn khơi gợi đến biên biệt hoá thường hằng tính mà thôi. Trong cung cách chồng chất trạng thái của mọi đối tượng khả dĩ, mọi phủ nhận đều là bất cập. Có thể trong cung cách cảm tác dự hướng đến các sai lầm là đều quy chiếu theo luồng lạch phép tắc trở nên héo mòn/tàn lụi. Đối chất nào mà gieo rắc vào khả năng cầm cự cố kết đến sống động chồng chất trạng thái cũng luôn hiểu hiện qua các thăng giáng không ngừng. Gia tăng mà cố chấp cản trở nó, hiểu như tái cơ cấu không gian nơi quá trình tồn vong tương đồng của đa không gian, do đó, mà thăng giáng luôn biểu hiện từ các chỉ định tự bản thân bên trong thăng giáng chứ không là gì khác đi, hay là một yếu tố ngoại lai nào đó chi phối cả.

Vì thế cho nên, hoài nghi về tính tiệm vị của mỗi hệ hình không gian chứa đựng thường hằng tính của tha thể thoát xuất khỏi chủ thể biên kiến một thái cách ứng xả tinh lọc cho chu trình toàn chuyển về sự minh chiếu khải thị, có liên quan đến chính lộ trình thăng giáng tha thể. Lộ trình thăng giáng tha thể lúc nào cũng đều dao động trong chính bản thân của sự thăng giáng là tất nhiên. Nhưng không chỉ thăng giáng không cùng để rồi mọi thứ đâu rồi lại về đó. Thăng giáng tha thể có thể nói là bước xác lập hoạ đồ bản thể thực tại đa không gian cơ bản nhất, vì thế mà làm rõ nó sẽ là công việc được mang đến với yêu cầu/đòi hỏi rất cao. Thăng giáng tha thể hiểu như chính tiềm năng mà hoạ đồ bản thể biểu hiện. Cho nên, hoài nghi về tính tiệm vị mỗi hệ hình không gian của toàn bộ hoạ đồ là một điều kiện thiết yếu cho tinh thần chống toàn cục mà thôi. Cũng có thể hiểu như chính thăng giáng càng lên cao với những chập chồng dao động không lường trước được, tức là cộng hưởng xảy ra ở đây trên một giá trị kết quả khó có thể lường trước, vì vậy mà mọi cách thức để coi như đó là xác lập chính bản thân thăng giáng tha thể luôn đệ trình đến các chu trình định xứ là như thế. Thăng giáng, tự bản thân, nó là một chu trình định xứ như bao chu trình thành phần nào khác. Cả thảy tất tần tật mọi thứ dựa vào thăng giáng thì lúc nào cũng luôn chấp nhận mọi yêu cầu như tiên quyết cho các gán ghép sau đó xảy ra. Thăng giáng biểu hiện qua chỉ điểm hoại thống trong một ngày nào đó tiếp cận, được đến/với tiềm mức vượt qua của các hạn định một cách bình tĩnh thì điều đó luôn đáng được khâm phục triệt để. Cũng có lúc thăng giáng trì trệ vì các yếu tố ngoại vi tác động đến, cho nên nó luôn cần mức độ ấn kí hoài nghi tạo ra động lực, để chuyển tiếp hay nói chung là lưu hoạt trong không cùng đến/trong mọi quy tắc xử  sự chính bản thân nó.

Chu trình toàn chuyển về sự minh chiếu khải thị là sát hạch cho các phối hưởng phù sinh phức tạp hữu tự tha, nó tạo nên phức tại dưới khía cạnh quan sát nó ở trường hợp (phần lớn) noạ tính hàm thị. Chu trình toàn chuyển là chu trình định xứ dự hướng về lại đối tượng mang cơ cấu tha thể. Minh chiếu khải thị là cách thức làm sáng rõ mọi lộ trình hợp quy trong cơ cấu tha thể, để tự chúng hiện ra như cơ chế tha thể hoá chính bản thân. Phối hưởng phù sinh mang lại cho cơ cấu tha thể những điều lượng gia bội vào thăng giáng hiểu như chính động lực để thăng giáng, từ đó trở thành yếu tố căn bản cốt lõi/nền tảng của cơ cấu tha thể. Phối hưởng phù sinh còn là cách thức mà tha thể hoá tự động lan toả một cách lạm phát không thể ngờ tới, khi đó cơ cấu tha thể phóng vọt một cách không thể tương thông với. Phức tạp hữu tự tha là cách nhìn nhận về tha thể trong lộ trình tha ngã tính tràn đầy phức điệu của các quy chuẩn khó nhận xét, luôn luôn khử trừ mọi khai căn nhòm ngó vào ngôi nhà riêng chính nó. Phức tạp hữu tự tha nghiễm nhiên từ đó mà trở thành đối tượng của biến dịch tha ngã tính vận hành (lưu hoạt) trong sức động câu phối không ngừng, đến mọi chỉ dẫn hoại thống được đặt ra như một yêu cầu bức (cấp) thiết đối với/về phía chủ thể. Từ chính chu trình toàn chuyển để dẫn khởi nên sự minh chiếu khải thị chính là sát hạch cho các phối hưởng phù sinh phức tạp hữu tự tha. Đó như một liên hồi của các công đoạn mà thiếu một trong các thành phần cũng là tội lỗi khó kiểm chứng nổi. Từ đó, đã dẫn đến một mức độ hiệu dụng cuối cùng trong khía cạnh quan sát nó (tức chu trình ấy) tiến đến giới hạn định quy noạ tính hàm thị (cương mục mà trong đó mọi biến cố sự kiện ngẫu sinh nào cũng luôn gia nạp nên chính/vào trong bản thân sự thăng giáng một cách ngang bằng, linh hoạt và nhẹ nhàng).

Vì vậy, dàn nạp những định mệnh cho chủ thể muốn khiêu khích bên trong nó những xác suất cộng gộp nên mức độ thuần trí tinh khiết về tổ chức cơ cấu bên trong bản thân chủ thể, khi nào cũng sẽ là một phát lộ hồi quang phân định những ấn tượng từ mức ấn kí lưu vong của vô cùng những tha thể bên ngoài chủ thể. Định mệnh chủ thể coi như đó là mức độ tồn vong biểu hiện với dự tưởng mạnh mẽ đến một phân đoạn quyết liệt, đối với những gì sẽ cất tiếng trả lời trong một đáp án cuối cùng. Chủ thể mang định mệnh chứ không hẳn là những bội số khả thể chấp vào mình đặc tính (hệ quả) ấy. Chủ thể, ở đây, là chủ thể lưỡng điệp tham thông nhằm đột phá mọi cấu nạp vào trong, tức là bên trong (với nó) dật ứng thành các hiệu ứng khơi sâu sắc thái kiến lập cộng tố. Cái mà được gọi là bội số khả thể chính như cách thức mà mỗi một điều khoản dự hướng đến nó cũng phát tiết nên cung cách thông dẫn đến mức độ tồn sinh, như thế, nói định mệnh của nó, hiểu như dưới khía cạnh khả thể mang định mệnh ở ngay lúc này há chẳng phải là mâu thuẫn lắm sao? Khi mà định mệnh chủ thể được dàn nạp cũng chính là lúc tự nội vi sẽ khiêu khích về/đến những phân lượng xác suất cộng gộp bên trong bản thân nó, nhằm hướng mức độ thuần túy minh giải từng phân lượng ấy, khó có thể được cho ra đời một hệ quả rõ ràng. Công bằng mà nói thì khiêu khích như thế không có hại, vì mọi phân lượng xác suất như thế cần phải bị khiêu khích để có thể coi như đó là một bước chọn lọc những đối tượng căng tràn các yếu tố nhất định, đối với mục đích mà mình cần. Trên kia đã nói về khiêu khích như thế là không rõ ràng, tuy nhiên, sự cần thiết của cái không rõ ràng, ở đây, trong bước nghịch đảo lại là một phát lộ hồi quang không thể không rõ ràng cho được.

Phát lộ hồi quang phân định những ấn tượng từ mức ấn kí lưu vong của các tha thể thực hiện theo chiểu sự đáp ứng được hoàn nguyên sở tính khả hữu. Mức ấn kí lưu vong của các tha thể là mức độ biểu hiện một cách hình dung tính về lộ trình thăng giáng tha thể trong một khía cạnh nào đó là sáng rõ nhất. Lưu vong của các tha thể hiểu như là định tố của khả thể xuất phát từ vô số những ý chí tha khởi bên trong chủ thể. Các tha thể, vì thế, khi nói đến mức ấn kí lưu vong của chúng, cũng là lúc mà chúng ta nhận định về chúng với những/trên nhiều bình diện hay khía cạnh khả giải, cho mọi bộ quy tắc có sắp đặt không ngưng nghỉ và hoàn toàn là lưu động trong vô số các thăng giáng từ tha thể, hiểu dưới dạng gia bội tự phát. Để rồi, chính các ấn tượng được phân định từ tiến trình phân đoạn phát lộ hồi quang dẫn đến mức ấn kí lưu vong của các tha thể đã được hoàn nguyên sở tính khả hữu theo chiểu sự các cái. Chiểu sự đề hướng về đối tượng mà như thể là tất nhiên đảm bảo tính hoàn nguyên của đối tượng dù thuận chiều hay ngược chiều gì đi nữa. Hoàn nguyên sở tính khả hữu như lui lại/về đến các biến phần đặt định ở những phân vùng, mà tại đó các khả thể được sinh sôi nảy nở trên chính địa phận của mình không hề lo lắng gì đến sự cường sát của các yếu tố ngoại lai. Định hình nên mức ấn kí lưu vong của các tha thể sẽ bằng với hoàn nguyên sở tính khả hữu tha khởi tính tha thể. Trong đương lượng ấy, việc hoàn nguyên sẽ bổ túc đến cho thăng giáng tha thể, để rồi thăng giáng tha thể hướng về lại sự tác động để hình thành nên mức ấn kí lưu vong của các tha thể và cuối cùng phát động trên cơ sở cấu tố đến chính mọi đạo lộ chia tách việc cấy ghép tha khởi, vào trên chính họa đồ mang một biểu hiện hàn lâm lãng mạn nhất.

Thế mới nói, giới hạn siêu việt tính của khả thể biến nhập một cách tự tồn vào biểu tượng ngoại biên. Ở những tha thể đang di mãn một cách bất khả kháng cho hành động chống lại mọi trực tính đang đến độ thu hồi sự tiền minh nhẫn nại, được toàn chuyển để thực sự từ đó nâng lên thành kết phần đảm đương mọi sự phóng trợ không tiêu tốn giảo hoạt tính vào thời trường. Thăng giáng tha thể luôn câu thúc đến giới hạn siêu việt tính của khả thể là điều hiển nhiên. Đó như là một giá trị tới hạn từ chính sự thăng giáng ấy. Bất kì một cuộc xâm nhập khả nhiễm nào, vào đạo lộ thăng giáng cũng khoác lấy đến một giá trị tới hạn như thế, hiểu dưới khía cạnh giới hạn siêu việt tính của khả thể. Giới hạn siêu việt tính của khả thể biến nhập một cách tự tồn luôn nhằm vào trong thăng giáng, để từ đó đi tìm mọi biểu hiện của mình/từ mình/ở mình/do mình/tại mình. Biến nhập một cách tự tồn là thụ nạp đương lượng ngang ngửa bằng với chính mọi đồng phôi giao cấu đầy ngoạn mục của sự khởi vong chủ thể tính. Biến nhập tự tồn nhưng phải luôn là hướng đến biểu tượng ngoại biên. Biểu tượng ngoại biên như chính dự kiện mà tất cả khai tịch hưởng ứng đến luôn là trở về với chính nó. Bằng với mọi câu thúc/chỉ dẫn/liên kết/hội thông nhằm tìm đến bất kì một phân đoạn quyết xác trong cách trình bày ở phía chúng (tức khả thể) luôn đòi hỏi mọi sự trù bị liên hiệp phân vùng như bao bọc bởi liên đới tích tụ dẫn về lại. Mức độ điềm nhiên của chúng là mức độ có đòi hỏi và do đó giới hạn siêu việt tính được hình thành như giá trị tới hạn từ phía chúng cũng là một điều dễ hiểu. Cho dù, ở bất kể các mức độ trong lộ trình thăng giáng tha thể, cũng đều luôn hưởng ứng cho một trị số nhất định nhưng hứng lấy cho nó (từ nó mà thôi, hiểu theo cách hiểu cổ điển cũng như vậy cả) sẽ bằng với chính phân đoạn từ đó tha thể đi ra.

Sự phóng trợ không tiêu tốn giảo hoạt tính vào thời trường là nguyên thường của công cuộc xâm nhập toàn cục đầy màu sắc của thăng giáng tha thể, khả lãnh ứng đến khởi vật dưới khía cạnh nhìn về như một tiến trình. Màu sắc tha thể thăng giáng chứa đựng các cung bậc của chính tiến trình thăng giáng. Nguyên tắc khả lãnh ứng đến khởi vật được điều hướng cho thăng giáng chu chuyển toàn bộ của mình đến đối tượng là khởi vật. Dưới khía cạnh nhìn về như một tiến trình đầy đủ khỏa lấp cho màu sắc thăng giáng qua các mức độ tha thể hẳn sẽ luôn luôn chu chuyển toàn vẹn. Do đó, sự phóng trợ không tiêu tốn giảo hoạt tính vào thời trường được hiểu như cách thức đóng vai trò là dự kiện sắp đặt dàn nạp vào thời trường hướng tính đến đạo lộ bền vững. Tất yếu đều chuyển tiếp trên mọi tiên nguyên dự phóng vào mọi bao quát từ đó ngã ngũ thành chủ đạo. Trong cách thức được coi là nguyên tắc khả lãnh ứng đến khởi vật, dưới khía cạnh nhìn về như một tiến trình, cũng không là gì đi nữa, ngoài những gì đi ra và đi vào (hay nói như ngôn ngữ của David Bohm là “cuộn vào-giở ra”). Khả lãnh ứng, cho nên, hội thông cũng luôn luôn tương liên biến điệu ngang bằng với mọi thông số của cảm thức thực hiện công cuộc phát truyền không gian. Phân bổ vào mọi ngóc ngách cũng đều sẽ được và phải lấp đầy chỉ một khi thông qua việc đi ra và đi vào ấy. Mọi cái đều được lấp đầy bởi chính việc đi ra và đi vào thực hiện như một tiến trình tràn qua. Nó khỏa lấp tất cả cho nên hiểu như dưới khía cạnh khả lãnh ứng cũng là điều được bổ sung như một căn tố điềm nhiên như thế, sẽ cùng hội thông và gia nạp không ngừng nghỉ về mọi phương hướng trên chính tiến trình tràn qua của khả thể. Khả thể có tràn qua, để rồi thăng giáng tha thể có được động lực dao động không ngừng, coi như là nguyên tắc khả lãnh ứng đến khởi vật không tiêu tốn giảo hoạt tính vào thời trường.

Do đó, tồn vong của tha thể tính bên trong chủ thể là bước phóng trợ quy xét khả dĩ cho cuồng lưu phát lộ nên quy trình phóng tán tha tính vào thời trường. Cuồng lưu phát lộ đối với thăng giáng là cũng chỉ trong vòng tới lui một mức độ hiện diện. Cuồng lưu phát lộ hoạch định các chỉ dẫn sẵn có của mọi thể nhập tất hữu có quy xét trên chính đạo lộ của mọi lộ trình thuộc hữu. Các biểu hiện đi ra cũng luôn là đi vào trong chính cuồng lưu phát lộ. Mọi biểu hiện của từng phân đoạn ở các mức độ thăng giáng sẽ tương ứng với chính bước phóng trợ quy xét khả dĩ có liên quan. Cuồng lưu phát lộ dễ làm cho người ta lầm tưởng ở một vị trí, mà tại đó, có cái gì đang lưu hoạt, chảy trôi nổi một cách bất ngờ như chính biên kiến về công cuộc tràn qua của khả thể. Cách thức dự kiện cố định vào trong nó thông qua cuồng lưu phát lộ, khi nào cũng là đối tượng bị định hướng cố kết đến sự đi vào và đi ra ấy. Mọi tồn vong tha thể bên trong chủ thể là bước quy xét khả dĩ cho cuồng lưu phát lộ đó. Tồn vong tha thể tính là điểm chỉ dẫn sơ khởi cho việc định hình nên tha thể. Tha thể tính với chủ thể tính đối sánh nhau trong từng mức độ tương ứng với mỗi phân đoạn trên tiến trình hiện hoạt tràn qua của khả thể. Tồn vong tha thể tính bên trong chủ thể là bước tương liên có kế hoạch hẳn hoi tham chiếu về khả năng định vị của chính các giá trị tới hạn trên mức độ thăng giáng tha thể. Bờ thửa của các quy tắc tương ứng với chính những trị số dị thể ấy. Nói nó dị thể tức là muốn nhắm đến cung phần đoán định của/ở một số khác biệt, được đem lại trong xác suất mà chính điều đó đã thể hiện rất rõ ở phân vùng biến cố sự kiện thiết tạo không gian. Cái có sẵn, lúc nào cũng là đầy ứ, không những chỉ ngoài ta nhìn ngắm nó là toàn bộ đều đặn, mà cũng chính trong lúc đó, nó đang luôn là tổ hợp chất chồng với những thăng giáng, hiểu như dưới khía cạnh trở đi của cuồng lưu phát lộ.

Để trên một đồng bộ, dữ kiện sẵn có của hệ hình đa không gian là ý hướng tính về tha thể. Đa đích tính chính là những tiêu thức của ý hướng tính về tha thể. Dữ kiện của đa không gian luôn là sẵn có, đối với, ở đó. Hệ hình đa không gian được hiểu như bội số gia nạp các không gian tương thông vào với nhau, để đảm bảo cho nó mang/chứa đựng những tính chất làm nên hệ hình. Nói đến dữ kiện của hệ hình đa không gian là muốn nhấn mạnh đến tính chất đa thể của chính sự kiện tương đương với nó là thăng giáng tha thể, biểu hiện như dưới biểu hiện của khả thể. Dữ kiện, mà là sẵn có, cho nên, nói dữ kiện sẵn có là muốn nói đến không hề khác đi trong chiều hướng phân lập mỗi phương vùng chứa đựng/ẵm trọn các cộng hữu liên tục vào với nhau. Từ đó, dẫn đến một hệ quả dữ kiện sẵn có của hệ hình đa không gian là ý hướng tính về tha thể. Ý hướng tính về tha thể biểu/thể hiện qua thăng giáng tha thể, vì thế mà nói ý hướng tính nhắm về phía tha thể cũng là cách xây dựng hay trùng tu lại các dữ kiện có sẵn đó, của hệ hình đa không gian. Chính vì điều đó, mà đa đích tính được đưa ra và khi đa đích tính được đặt ra thì cũng là lúc mà ý hướng tính về tha thể bày biện nên các tiêu thức. Lúc ấy, vì là đa đích tính được hiện trình, cho nên, phong cách nó bộc lộ cũng là truy nguyên về chính những tiêu thức đó, để trong một chừng mực nào đó lột tả được bất kể mỗi dự tính, mang kiểu đa đích nhằm vào tiêu thức coi như đó cũng là một điều dễ hiểu. Khi mà mọi thông số cố kết đến được trong vòng mỗi một sắp đặt đều có hết là trước tiên thì thăng giáng tha thể cũng nhờ vào đó mà thêm một phần được minh bạch hơn. Ý hướng tính về tha thể chính xuất phát từ dữ kiện sẵn có của hệ hình đa không gian, từ đó làm thành cơ sở bảo hộ mọi công tác có thể hiểu về lộ trình thăng giáng tha thể.

Như thế, có thể nói rằng, tích tụ phù ứng nào cũng mềm dẻo bên trong sự thoái trào hoàn trộn tiếp nhận xuất diễn mang dự phần cung ứng nên những lược đồ lưu động. Bởi ý định minh tàng biên bỉ không cố kết lại được một cách sâu sắc. Khi thực hiện hành động ngụy trang trước sự kiểm duyệt quá kĩ càng của ý thức tính nơi chủ thể, để trong một điều động thành hình tha thể nào đó, ta có khuấy động được một mức độ biểu trưng cho hư vô hóa đi tính chủ thể đó, ngang bằng với mỗi một khả lượng vi cấu cho tha thể. Tích tụ phù ứng tất nhiên sẽ đầy ắp và bao chứa mọi biểu quyết xuất phát từ các khía cạnh bất thụ nhận là dối trá. Tích tụ mà có trong thăng giáng nói như thế có thể đồng ý chăng? Tích tụ không chỉ tích tụ phù ứng, mà tích tụ, ở đây, nó còn là phù ứng nữa. Do đó, tích tụ phù ứng nào xảy ra trong thăng giáng cũng đều là hiện minh cho mức độ hội thông sáng giá cho ra ở đó các dữ kiện thích đáng. Nói rằng, tích tụ phù ừng nào cũng mềm dẻo bên trong sự hoàn trộn tiếp nhận biểu hiện ra trong khía cạnh đảo ngược (đảm bảo sự hoàn trộn) cũng sẽ luôn thâu tóm trong mọi tầng bậc di mãn dẫn dắt đến các mức độ thăng giáng, để cho nó được dao động ổn định hơn. Và cách thức tiếp nhận đó, còn mang dự phần cung ứng nên những lược đồ lưu động chính là cứ lý chứng thực cho đạo lộ thăng giáng ấy, đã thăng giáng trên chính những vi phần khỏa lấp từ bản thân nó, để cho mức độ biểu hiện hay lưu tâm trên một khả năng đến tính chất của nó là mang tính chất nền tảng (tức ổn định). Lược đồ lưu động chính là trường hợp mà phần lớn những sự rò rỉ đi ra từ chính quá trình thăng giáng ấy, đã phác họa nên hay nói đúng hơn là đã hoạch định ra một cách cẩn mật nhưng không kém/mất đi phần quang minh.

Tận trong sâu thẳm của ý định minh tàng biên bỉ khi không cố kết lại một cách sâu sắc, để ngụy trang trước sự kiểm duyệt quá kĩ càng của ý thức tính nơi chủ thể, do đó, đã tham chiếu nên viễn tượng vô lực tính chứa đầy ước độ vong ngã. Ước độ vong ngã là sự đi từ sự kiện khởi vong của chủ thể tính. Vong ngã đi từ khởi vong, cho nên, nói nó vong ngã cũng là hoàn toàn hợp lý trong cái gọi đến nó kèm theo phần ước độ. Tận trong sâu thẳm của ý định minh tàng biên bỉ hiểu như là ý chí khởi vong đã được dấy lên một cách mạnh mẽ, hướng định đến chính ước độ vong ngã ấy. Ý định minh tàng biên bỉ (sơ thủy) mang cứu cánh tính hướng trọn các khai thác đầy thuộc tính, để biên kiến đến cũng chỉ trong vòng ý chí khởi vong mà thôi. Ý định đó, đã một khi không cố kết lại sâu sắc thì trơn tuột của nó sẽ vượt qua tất cả mọi sự ngụy trang (cho dù là khéo léo nhất) nhằm hướng đến một chung quy cho mỗi một tại thân, phân định từ phía chủ thể tính ngụy trang thời khắc cáo chung nó (tức chủ thể tính). Khi không muốn nói về sự ngụy trang mà sự kiểm duyệt vẫn cứ phát động trên những lược đồ cải lương, nhằm thao túng thì chính khi đó, không còn cách nào khác, ý định minh tàng biên bỉ sơ thủy sẽ thực hiện một cuộc vượt rào ngoạn mục. Tự bản thân bên trong nó có chứa đầy ắp cơ sở cho công cuộc tràn qua ấy, cho nên, rất có thể và phần lớn khả năng tràn qua của nó sẽ thành công. Cũng bởi vì ý định ấy, đã tham chiếu nên viễn tượng vô lực tính, mà viễn tượng này, tự bản thân nó đã là một dự kiện đồng đẳng cho vai trò hoạch định hệ hình tha ngã tính với lý do bắt buộc mọi yêu cầu, đối với nó là đều dẫn dắt/đưa đến chính cái mà ta gọi là ước độ vong ngã. Luôn là như thế cho một sự vững mạnh của hệ hình tha ngã tính. Vong ngã có, mới không lo gì cho chuyện thăng giáng tha thể có diễn ra hay không.

Khả lượng vi cấu cho tha thể là trạng thái triển hệ tính mọi thụ năng tha khởi tiến đến cách thức xác lập nên một hạn độ đầy tràn, trong trạng thái suy biến không gian cổ điển. Trạng thái suy biến không gian cổ điển là khoảnh khắc tinh tế khó nhận thấy, lúc đó, chúng ta sẽ thực sự (cảm nhận) như chúng ta đang không còn ở trong một không gian cố định, mà bản thân chúng ta ở đó, trước kia, là chủ thể tính truyền thống gắn liền với không gian cổ điển của vũ trụ cổ điển. Trạng thái suy biến không gian, do vậy mà đã thực sự câu thúc đến được hay hiểu như kiểu dẫn dắt đưa vào bên trong, để làm đầy những lưu độ dư thừa ở các phân vùng luôn ngày nào cũng cần có sự tiếp biến ở đó. Suy biến không gian cổ điển đồng nghĩa với phát động nên vô số các xung lượng rò rỉ đi/tỏa ra từ các mấu chốt, coi như đó là then cài cửa ngoạn mục. Suy biến không gian cổ điển ở trong trạng thái ấy, nó đồng thời, nói như kiểu lúc nó có thì cách thức xác lập nên một hạn độ đầy tràn, đi từ sự thụ năng tha khởi chứa đựng đầy rẫy những ý chí mãnh liệt. Thụ năng tha khởi như là lời chấm dứt cho mọi yếu tố còn sót lại của chủ thể tính. Tha khởi được nhắc đến, cho nên, bằng cách thức thừa hành của mình mà thăng giáng tha thể sẽ có được động lực cứ thế mà diễn ra không ngừng, coi như đó là điều thực sự sáng suốt đối với chúng ta (chúng ta mang nghĩa toàn thể, toàn thể của cái toàn thể, tức là, nó chứa đựng đầy tràn các đối tượng hiểu như đó là tha thể hay bao quát trong hai từ khả thể). Để rồi, chính thụ năng tha khởi lại được đặt trong quan hệ với khả lượng vi cấu cho tha thể cừu xuất ra trạng thái triển hệ tính tương ứng với nó trên từng đương lượng và mức độ. Khả lượng vi cấu là thành tố cơ bản nhất của cái mà ta sẽ nhắc đến sau đây: cộng hưởng tham chiếu.

Vì vậy, biện biệt trong tác động quy chụp của tha ngã tính dẫn đến sự cáo chung toàn bộ đối với những hệ hình cơ sở. Từ việc khẳng định về mức độ kiện trản nơi tính hệ thống được tối ưu hóa bởi cảm thức của chủ thể, được dự phóng vào bên trong không trương của tâm hệ thuần túy, nhằm mục đích làm nên một cuộc lật đổ có được từ sự hoài nghi chính yếu quy hồi tác động bổ sung của các quá trình diễn tiến trong miên tục của thời trường. Do dự ngang bằng với sự đồng bộ hóa toàn thể, trên đương lượng ở những mức độ hiệu năng của chính sự phóng xuất từ thực tế của bản chất bên trong tâm hệ mỗi chủ thể. Nhằm định hình một tác động chung cuộc xây dựng bên ngoài bản thể mình, một khả tất tính cho toàn bộ mức kiện trản của những tha thể, được gạn lọc từ sự phối xuất ở những điểm nhìn định quy nơi chủ thể tính mang tác động bài xuất khi tiệm cận đến sự cáo chung bên trong nó. Mà càng ngày nó càng cảm nhận được một cách sâu sắc, và rồi tương ứng với những diễn trình cho sự kiện đệm xung ấy, chính là tác động thích ứng của những tha thể được cảm thức phóng xuất nên từ bên trong tâm hệ đó, thụ nạp nên một toàn cục tự tồn cho chính sự khả nhiên của các mức độ ý hướng tính tha thể. Thì khi từ cơ sở của cái gọi là cộng hưởng tham chiếu sẽ là cách thức mà căn cứ vào đó ta có thể hiểu rõ hơn về thăng giáng tha thể. Có đó của những công bội trong cấp số nhân mỗi một sự nảy bật của các khả thể, hiểu như dưới khía cạnh tha thể, đi tìm phân vùng định đoạt và đặt căn túc ngự trị chính mình nơi đó. Cũng có thể nói rằng, cộng hưởng tham chiếu một khi nhập cuộc mới đưa đến thăng giáng một cách đồng bộ như vậy. Sự đồng bộ của thăng giáng không gì có thể hiểu rõ được khi chính thông tin chứa đựng trong cộng hưởng tham chiếu không chịu bung vỡ ra hay thất thoát đi. Cái khó là việc xác lập đâu được phân đoạn trong đó thông tin từ cộng hưởng tham chiếu đi ra từ đó, nắm bắt trở nên mang tính thích đáng hơn thì như thế còn đọng lại điều nan giải.

Các quá trình diễn tiến trong miên tục của thời trường luôn dự phóng vào khong trương của tâm hệ thuần túy, dưới khía cạnh cảm thức luôn muốn nhấn mạnh đến mức độ kiện trản, nơi tính hệ thống được tối ưu hóa tự bên trong cảm thức. Tính hệ thống được tối ưu hóa là cách mà cộng hưởng tham chiếu biểu hiện mọi/đầy đủ tính chất của mình. Cộng hưởng tham chiếu là cốt yếu của chủ thể nhìn nhận về thế giới đóng vai trò là trung tâm dọi phóng ý hướng tính đến đối tượng, mà đối tượng ấy chính là hệ hình đa không gian. Cộng hưởng tham chiếu thực sự được đặt cơ sở cho tính hệ thống được tối ưu hóa tự bên trong cảm thức là trường hợp, mà mọi đề xuất được dự kiến đến đều nằm trong dòng chảy lien tục trong vô hạn. Thì khi đi từ sự đặt định đối với cơ sở cho tính hệ thống ấy là cách mà mọi hiểu biết của chúng ta sẽ từng bước khế hợp với mọi điển hình hóa đầy lạc quan của các yếu tính năng biểu. Chỉ định chỉ là cách chống chế của cơ chuẩn thuần túy muốn đặt ra, nhằm đưa đến yêu cầu xác lập đến mọi bổ túc đóng vai trò mong muốn trong nó ý chỉ tiên khởi phục sinh chốn chặng nào, cũng là tùy ý và đầy đủ mọi phương thức hay điều hướng mà nó hoạt động. Các quá trình diễn tiến trong miên tục của thời trường sẽ trong một chừng mực nào đó, có thể thụ nạp được các thông tin bức xạ từ cộng hưởng tham chiếu trên chính quy trình tương tác (hoài nghi về tương quan). Thế cho nên, để một đòi hỏi như cái cách mà chúng ta hướng định đến được để cho ra đâu là phương thức, đâu là đường hướng để xác lập cộng hưởng tham chiếu là một yếu cầu hết sức cần thiết. Trong khi thực hiện những gì ý đồ ngụy trang chính bản thân mình cộng hưởng tham chiếu đã không ngờ trong đạo lộ thăng giáng tha thẻ có một phần (nếu không nói là toàn bộ) chứa đựng những khía cạnh tương đồng với mình.

Mức độ hiệu năng chính sự phóng xuất ngang bằng với sự đồng bộ hóa toàn thể đó, tóm lại, đã đưa đến tiên nguyên thăng giáng có được những biểu hiện bổ túc không ngừng cho hệ hình tha ngã tính. Mà bổ túc ấy, có được hay tiên nguyên thăng giáng có được cũng chỉ có thể thông qua cộng hưởng tham chiếu mà thôi. Vậy thì thử đặt ra một câu hỏi ở đây là tại vì sao chúng ta lại nhấn mạnh đến cộng hưởng tham chiếu như vậy? Cộng hưởng tham chiếu đi ra từ bất kì một phân vùng nào đó, trên thực tại/trong thế giới, mà ở đó hiệu năng qua các mức độ thăng giáng tha thể sẽ đi vào công cuộc đồng bộ hóa toàn thể. Mức độ thăng giáng không hề lặp lại chính mình cũng như cộng hưởng tham chiếu luôn gia tăng các trị số ở mức thuần thành, có như thế mới có được vận động là điều thật sự dễ hiểu. Địa hạt của hai chiều hướng đi ra-đi vào ấy, không là thật sự được chú thích một cách cặn kẽ mà là cách thức vạch ra để đi từ hay căn cứ trên cơ sở tham chiếu cộng hưởng, nhằm dự phóng về phía thăng giáng tha thể, để nó được thực hiện một cách coi như đó là đầy tràn mọi sáng giá khả quan. Đồng bộ hóa toàn thể luôn tìm đến hay nói trong ngôn ngữ mang tính nghiêm túc hơn là dự phóng thì cộng hưởng tham chiếu chính cách thức được vạch ra, cho đồng bộ hóa toàn thể khả dĩ mọi cấu tố/căn túc/cơ sở/nền tảng/tiên nguyên nào về họa đồ bản thể, thông qua thăng giáng đóng vai trò như lộ trình dẫn khởi luôn là điều đáng được nhắc đến, dưới cái luôn coi như đó là đồng bộ. Và thật sự, rộng mở cho/dưới mọi chiều hướng cố tìm đến quy tắc ngang ngửa của mục đích luôn đem lại sự ngang bằng hay như chính mức độ hiệu năng thăng giáng tha thể là tiềm mức của tiềm mức chính tham chiếu cộng hưởng, hẳn sẽ lại xét đến điều đó trong tiến/chặng tiếp theo mà việc tham chiếu cộng hưởng được nói đến đủ để thấy được sự rối rắm nhưng không kém phần quan trọng của nó trong chính những gì là cần thiết cần đến nó.

Khả tất tính cho toàn bộ những mức độ kiện trản của tha thể luôn đòi hỏi đến dự kiện phân minh, cho chính công đoạn kết tập sự định hình tha thể thế chỗ/vị trí chủ thể. Cộng hưởng tham chiếu tham dự vào, để rồi khả tất tính cho toàn bộ những mức độ kiện trản, do đó mà tăng cường đến thăng giáng, hơn nữa sẽ là điều đáng được chú/lưu ý, ở đây, thông qua những mức độ kiện trản của tha thể, ta mới có thể bố trí được một cách tốt đẹp việc định hình sức lực cho cộng hưởng tham chiếu nhắm đến thăng giáng tha thể. Khả tất tính được nhấn mạnh ở đây, mà từ đó, được cất công đi xây dựng cho mức độ kiện trản của tha thể cũng là điều đòi hỏi sáng suốt ở dự kiện phân minh cho chính công đoạn kết tập sự định hình tha thể thế chỗ/vị trí chủ thể. Sự kết tập ấy, đã điều xuất cho dự kiện phân minh chính công đoạn kết tập sẽ định hình tha thể, từ đó làm nên đương lượng đầy tràn thao túng mọi bước đường cảm hóa xuất phát từ cộng hưởng tham chiếu. Sự định hình tha thể thế vị trí chủ thể là cách mà tha thể muốn thực hiện điều gì đó, mà đúng với bản chất của thực tại mang nguyên nghĩa họa đồ này mà thôi. Tiên nguyên họa đồ, cho nên sự định hình tha thể sẽ rất khó để mà chối bỏ được và điều đó đã được biểu hiện qua chính những gì mang tính phổ cập một cách sáng rõ rồi. Điều mà các mong ước mang các tiềm lực trỗi dậy cũng luôn là kết tập có cơ hội vượt qua để đi vào, trong khi đó tham chiếu cộng hưởng lại đi ra, như tìm đến một sự cân bằng linh hoạt. Dự kiện phân minh nào cũng luôn đề bạt đến mức độ kết tập thông suốt và không tính đến sự loại trừ, ở bất kì một giả thiết đặt định nào cả. Điều mà mọi phương thức đặt ra là cố gắng của cộng hưởng tham chiếu liên tục, cùng thăng giáng tha thể biểu hiện một cách rành mạch đồng thời linh động nhất.

Tác động thích ứng của những tha thể được cảm thức phóng xuất từ bên trong tâm hệ thụ nạp nên một toàn cục tự tồn dật ứng, luôn luôn là trở về trên chính sự khả nhiên của các mức độ ý hướng tính tha thể. Mức độ ý hướng tính tha thể trong công cuộc xác lập họa đồ bản thể thực tại, để tiến hành bổ sung cho cảm thức tha ngã thêm phần đậm nét, qua biểu hiện trên chính lộ trình thăng giáng của tha thể là thật sự quan trọng. Bởi trong hệ hình đa không gian, thăng giáng tha thể được thực hiện, coi như từ đó chúng ta ném các tha thể vào các phân vùng không gian khác nhau, mà ở mỗi vị trí ấy, chúng sẽ sớm định hình nên thế giới tương ứng cho chúng. Thăng giáng tha thể kết tập trong nó mà thật sự cộng hưởng tham chiếu tham dự vào sẽ là nguyên tắc đòi hỏi sáng giá nhất. Khi nói đến cộng hưởng tham chiếu tham dự  vào thì hiểu được nó hay mường tượng một cách mơ hồ, cũng có thể xem như đáp ứng yêu cầu cơ bản cho mọi điểm nhìn mang tính liên quan đến với chính sự thăng giáng của tha thể. Tha thể thăng giáng, vì thế mà họa đồ bản thể thực tại cũng sẽ dao động theo đúng với lộ trình thăng giáng tha thể, khi chúng ở vào các trị số biên độ khác nhau. Nói họa đồ bản thể, cho nên khi hiểu được thăng giáng tha thể ta sẽ có được phương thức nhìn nhận họa đồ bản thể thực tại này, trong một cung cách đề xướng về/đến nó là một toàn cục tự tồn. Toàn cục tự tồn có nghĩa gì cho thăng giáng khi tha thể là bất định cố dĩ cho mọi khả biến. tất nhiên, dưới chiều hướng của mọi biểu hiện tính lưu động của thăng giáng, cũng luôn là chiều hướng ta có thể sử dụng cộng hưởng tham chiếu vào, để từ đó làm rõ hơn cho chính thăng giáng tha thể. Một toàn cục tự tồn đem lại chính hệ quả xuất phát từ tính chất thăng giáng tha thể, để rồi trên đề hướng ấy mà mọi dự phóng trong hệ hình tha ngã tính mới có được thêm nhiều màu sắc lấp lánh một cách thật sự không thể không lãng mạn hơn được.

 

Phạm Tấn Xuân Cao
Số lần đọc: 1962
Ngày đăng: 30.04.2014
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Giải phẫu sự u sầu - Nguyễn Hồng Nhung
Thấy bệnh và thấy tánh - Hồ Dụy
Khi " Lòng Nhân Ái " bị tê cóng, bại liệt! - Nguyễn Anh Tuấn
Bản chất con người - Võ Công Liêm
Cảm thức Tha-Ngã Luận [KÌ 8] - Phạm Tấn Xuân Cao
Cảm thức lưu vong trong tiểu thuyết của Milan Kundera - Trần Thanh Hà
Cõi thế là hình ảnh hóa thân đi từ tử cung cứu chuộc - Võ Công Liêm
Dục tính trong tiểu thuyết của Kundera - Trần Thanh Hà
Tri thức thức tỉnh: về màu sắc - Nguyễn Hồng Nhung
Cảm thức Tha-Ngã Luận [KÌ 7] - Phạm Tấn Xuân Cao