Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.149
123.225.541
 
The Leap/ Nhảy-Vọt
Nguyễn Quỳnh USA

A.     INTRODUCTION. The period of time from November 2013 through June 2014 had occupied my mind with complex working proposals, mainly the scholarly exchanges with some universities, on-going creative endeavors, and classroom responsibilities. Then unexpectedly came about a health problem in my family, of cardiologic and pulmonary symptom requisite for intensive care and medical follow-ups. In spite of such incidents, deadlines of professional projects have never in reality slipped away, instead intensified my will like a test of determination congenial with character, not actually inborn but being accustomed to starkly unfavorable apathy of life.

 

MỞ ĐẦU. Khoảng thời-jan từ tháng Mười-Một 2013 tới tháng Sáu 2014 là lúc bận rộn với nhiều việc fải làm, như trao đổi với với một số đại-học, đam-mê vào chuyện sáng-tác đang còn zang-zở, rồi lại có việc sinh-tử xảy ra bất ngờ trong ja-đình về bệnh-tim, bệnh-fổi fải cấp-cứu ngay. Tuy-nhiên, tôi vẫn nhớ những chuyện fải làm đúng hạn-kì. Xét ra những zồn-zập ấy lại làm tăng í-chí và lòng qủa-quyết của tôi, coi như vốn-zĩ thói-quen, chứ không fải sinh ra đã có, vì chẳng qua đời người như Nguyễn Zu đã nói “Đã đầy vào kiếp fong-trần!” 

 

Now that, although in relaxation, but anxious of my trip to the United Kingdom where I will come to present my paper at the 14th International Conference on August 4, 2014 at Oxford University.1 I am happy to “leap” forwards, metaphorically, yet mentally uplifted in particular, for having completed The Leap, one of my major painting projects, in oil color, having an odd dimension of 8 feet by 6 inches.

 

Jờ đây, tuy trong thư-zãn, tôi lại thấy lòng nao nức với chuyện sắp đi Anh để trình-bày bài của tôi trong Đại-hội Quốc-tế kì 14 vào ngày 4 tháng Tám tại Đại-học Oxford.1 Tôi sung-sướng được “nhảy-vọt về fía-trước,” nói ra cho có vẻ mĩ-miều mà thôi, nhưng thực ra tinh-thần tôi fấn-khởi vì tôi đã hoàn tất xong bức tranh sơn zầu Nhảy-vọt, có kích-thước khá lạ đời, 8 bộ Anh và 6 fân Anh.

 

                           THE LEAP/NHẢY-VỌT                                                

 

Perceptually, at the onset, The Leap did not come to my mind when I picked up a scrap-panel disposed of at the university campus dumpster. I saw it with my sense and then immediately thought of an inlet winding through coconut hamlet. I began dreaming of arresting its properties – the shade, the mirror-like texture of water, the boulders, look-alike fine sandbank, and then some gusty wind that tosses my hair and brandishes a color picture of some city of Mediterranean landscape on the water surface, which form up ripples but frowns up them because they fail to pin the picture down.

 

Ngay lúc đầu, tôi chẳng có í jì về tấm-tranh Nhẩy-Vọt, khi tôi thấy một tấm-ván gỗ người ta bỏ đi để ở cạnh thùng rác trên khuôn-viên Đại-học. Tôi tò mò nhìn nó và ngĩ đến một jòng suối chảy quanh xóm zừa. Thế là tôi mơ thấy tất cả những jì vương-vấn jòng nước ấy – thấy bóng mát, mặt nước trong như gương, những tảng đá, lối đi cát mịn, và rồi một làn-jó thổi tóc tôi, thổi luôn đi cả một bức hình-mầu có fong-cảnh thành-fố ở Địa Trung-hải xuống nước. Mặt nước gợn những đường vòng, nhưng zường như thất vọng vì không nhận chìm đưọc bức hình xuống đáy sâu.

 

As the flux of images set on me, it follows the tale of “memory” manifests, so different from that captured intentionally in slow motion to layout places and times; namely the product of “remembrance”. I could not discover the Leap but only to insist on some poignant perception and stipulate the putting and fitting together of imageries of the beauty near and far by showing how things of remembrance resurrect to some degree one day I may be able to reading Marcel Proust’s In Search of Lost Time (À la recherche du temps perdu). Such that The Leap is not supposed to be promised to the pleasure of greatest masters’ because the utmost best of my The Leap cannot touch the heel of their poorest qualities so I have never had a slight expectation the laudation of my painting could be received.

 

Khi những hình-ảnh trào-vọt đến tôi, tôi thấy chúng như câu-chuyện đến từ kí-ức, khác hẳn những jì zo tôi cố gắng lôi ra từ hồi-tưởng, chầm-chậm cho thấy nào là nơi-chốn, nào là thời-jan. Tóm lại, chúng là những hình-ảnh tới từ hoài-niệm. Tôi không thể khám-fá ra tấm-tranh Nhảy-vọt mà chỉ jữ lại í-niệm thâm-trầm rồi ziễn-tả ra bằng cách đưa những hình-ảnh đẹp xa-gần lại với nhau, tức là làm cho hoài-niệm fục-sinh để hi vọng có ngày tôi có khả-năng đọc được cuốn Đi Tìm Thời-jan đã mất (A la recherche du temps perdu) của Marcel Proust. Thế thì bức-tranh này không thể bén gót thiên-tài bởi vì ngay cái đẹp nhất của bức-tranh cũng còn thua xa cái tồi nhất trong tác-fẩm của họ. Cho nên, tôi đâu zám mong có ngày tranh của tôi được thế-jan khen-ngợi.

 

What did one like and see in one’s childhood? Assuming that bamboo and papaya hemmed the main street of a hamlet of which many sections turned deep and impassable streams during flood season so not that one’s poor feet as a little child, but that, in fact, being fundamentally fragile in heart and mind gave one a sense of dread of death. How acutely one may know of those streams since one grew up? In retrospection such streams had merged into a single one for a vanishing point of many avenues now confronts one’s consciousness. If one could not jump over a fairly great length of a stream without any trouble, wresting from wet and mud, due to step-missing; then one could not frog-leap without ravaging the marks of wholly-saneness – flowers, rocks, reflection of a Southwest landscape, and even floating things. 

 

Such a dilemma would express to one’s self-abasement owing to which one may learn to solicit criticism and then turn over a new leaf, with self-respect toward accomplishment.

 

Khi còn bé, ta thích cái jì và đã thấy cái jì? Cứ cho là ta thấy hai bên con đường chính trong làng um tùm tre trúc và đu-đủ. Về mùa lụt, nhiều đọan-đường ngập nước khó đi, như thế không chỉ vì đôi chân nhỏ bé cùa ta, mà vì tâm-tư của ta hồi đó mong-manh sợ chết. Thế rồi khi lớn lên hiểu biết của ta sâu-sắc thế nào? Nhớ lại mà coi ta thấy cuộc-đời có nhiều ngọn-suối zồn về một điểm, để trở thành một jòng-suối mà thôi. Nếu ta không thể nhảy qua một con suối rộng vì sợ hụt chân bị ướt-át ngã xuống bùn-lầy, thì ta cũng không thể nhảy theo kiểu ếch vì những bước nhảy ấy có thể làm hư những vết trong-lành – như hoa, như đá, như một fong-cảnh hoang-zã miền Tây fản chiếu trong jòng nước, và cả những những jì trôi nổi lênh-đênh.

 

Ưu-tư ấy có thể cho thấy ta còn hèn-kém. Nhưng nhờ biết mình hèn-kém ta mới đón-nhận fê-bình và cải tiến cuộc-đời, biết tự-trong rồi mới vươn tới thành-công.

 

Since no single principle as logical equation of wisdom guiding one to enlightenment, one may glean from various sources and look into their essentials, such as the question of truth, of man and Be-ing (Seyn), namely natural life 2 All together they stipulate the core of humanism and harmony through the source of memory and remembrance.

 

In his Besinnung, 3 Heidegger has a poem titled The Leap (Der Sprung). It runs as follows:

 

Der Sprung                                                      The Leap

M. Heidegger                                                    English Translation by P. Emad and T. Kalary

 

Nimm, wirf und birg                                           Take, throw and shelter

und sei der Sprung                                            and the leap

aus weitester Erinnerung                                   from the most remote memory

zu einem ungegründeten Berzirk:                       into ungrounded realm:

 

Trag vor dir her                                    Carry below you

das Eine Wer                                        the one ‘Who’ ?

Wer ist der Mensch?                             Who is man?

 

Sag ohne Unterlalass                            Say without fail

das Eine Was?                                     the one ‘What’?

Was ist das Seyn?                                            What is be-ing?

 

Missachte nie                                       Never disregard

das Eine Wie?                                      The one ‘How’?

Wie ist ihr Bund?                                      How is their concord?

 

Mensch, Wahrheit, Seyn                               Man, truth, be-ing

erwidern aus der Steigerung                          respond out of heightening of man’s ownmost:

                                                                        of the sway of truth and be-ing

 

 

ihr Wesen zur Verweigerung,                unto refusal.

darin sie sich verleihn.                          Wherein they are granted to themselves.

 

 

Chúng-ta hiểu đâu có nguyên-lí nào zạy khôn trên-đời để đi về jác-ngộ, cho nên ta tần-mần tìm kiếm đó đây những câu hỏi về chân-lí, về con-người, và về nguồn-sống-tự-nhiên. Những câu hỏi ấy vạch ra nội-zung hòa-đồng nhân-bản, rất có thể thấy ở suối-nguồn kí-ứchoài-niệm.

 

Trong cuốn Thức-tỉnh (Desinnung), Heidegger có một bài thơ tên là Nhảy-vọt, làm rõ những điểm trên, như sau: 

 

 

Der Sprung                                                      Nhảy-vọt

M. Heidegger                                                    Bản Việt-ngữ zịch thoát theo í, của Nguyễn Quỳnh

 

Nimm, wirf und birg                                           Nhận lấy, ném đi, rồi ấp-ủ

und sei der Sprung                                            để rồi nhảy vọt ra từ

aus weitester Erinnerung                                   kí-ức rất xa-xôi

zu einem ungegründeten Berzirk:                       vào một chốn không có cỗi-nguồn:

 

Trag vor dir her                                    Mang theo bên mình câu hỏi

das Eine Wer                                        về Ai kia?

Wer ist der Mensch?                             Ai kia có fải là Người hay không?

 

Sag ohne Unterlalass                            Luôn luôn fải đặt câu hỏi

das Eine Was?                                     về Cái-jì đó?

Was ist das Seyn?                                Cái-jì đó có fải là Nguồn-sống-tự-nhiên không?

Missachte nie                                       Đừng quên đặt câu hỏi

das Eine Wie?                                      Làm sao?

Wie ist ihr Bund?                                 Làm sao có sự hoà-hài jữa Con-người và Nguồn-sống?

Mensch, Wahrheit, Seyn                      Con-người, Chân-lí, và Nguồn-sống-hiển-nhiên

erwidern aus der Steigerung                 là cõi sâu-kín nhất của Con-người: tức là biết chối-bỏ

                                                                cái mong-manh của chân-lí và nguồn-sống

ihr Wesen zur Verweigerung,                khi chân-lí và nguồn-sống ấy zo cái mong-

darin sie sich verleihn.                          manh lay-động vật-vờ mà ra.

 

 

June 29, 2014.

 

NOTES/CHÚ-THÍCH

1.      Quynh Nguyen, How to build a World Politics: A necessitated and Integrated Community of Mankind. Date and time of Presentation: August 4, 2014, at 11:40 am, room 6. Governance and Change, the 14th International Conference on Knowledge, Culture and Change in Organization. This Conference will feature papers of about 150 international scholars, predominantly from the USA and the UK  (Có khoảng 150 học-jả quốc-tế, đa-số đến từ Hoạ-kì và Anh)

2.      Seyn (Be-ing) is neither godly nor worldly, yet is unavoidable for man, inexplicable, outside power and powerlessness. Please read Heidegger’s Besinnung, pp. 83 – 86 for complete exposition of the concept of Seyn, such as “Das Seyn – nichts Göttliches, nichts Menschlichess …Das Seyn fordert jetzt … Seyn – gewinnt im seynsgeschichtlichen …Seyn – metaphysisch ein gleichgültiger blosser Schall…

Xin đọc những trang 83 -86 và hơn nữa trong cuốn Besinnung để thấy rõ ngĩa chữ Seyn trong tư-tưởng của Heidegger.

3.      Heidegger, Martin, Besinnung, Vittorio Klostermann, Frankkurt am Main, 1997.

Nguyễn Quỳnh USA
Số lần đọc: 2862
Ngày đăng: 01.07.2014
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Duy Ninh và nghệ thuật Thủ ấn họa - Trần Trung Sáng
Tranh Mặc Họa Trung Quốc - Nguyễn Hồng Nhung
Bức Chân dung "Thiếu phụ" màu xanh - Trần Trung Sáng
Thế hệ mới họa sĩ trẻ Đà Nẵng - Trần Trung Sáng
Nguyễn Sáng – danh họa có tranh được công nhận bảo vật quốc gia - Trần Trung Sáng
9 họa sĩ 1 cuộc Rong chơi - Trần Trung Sáng
Tranh Không Đề 1, 2, 3 , 4 của Dương Đình Sang - Đinh Cường
Bộ tranh Fractus 2000 - Phan Nguyên
NƠI DỪNG CHÂN VÀ KHỞI ĐẦU … - Trần Trung Sáng
Huyền bí - mystery-II-64x84 cm – Dầu - Hồ Hữu Thủ
Cùng một tác giả
Suy-Tư Hai (triết học)
Một Tí “Rilke” (tiểu luận)
Khoảnh-Khắc (tiểu luận)
Nắng Hè (tạp văn)
Fôi-Fa (tạp văn)
Bến-Xưa (tạp văn)