Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.147
123.225.590
 
“Mới” – Bài thơ tình tuyệt hay nhưng rất ít người được biết!
Hoàng Cầm

Nhà văn Triệu Xuân

 

Nhà thơ Hoàng Cầm, tác giả của bài thơ nổi tiếng Bên kia sông Đuống, và rất nhiều bài thơ hay khác. Thế mà có một bài thơ tình tuyệt hay, làm năm 1953, đã in trên một tờ báo ở Hà Nội năm 1958 (tờ báo này sau đó… đình bản). Rất ít người được đọc bài thơ này! Một người bạn của tôi kể:” Khi tôi vớ được tờ báo kia, bài thơ đã gây ấn tượng quá mạnh, tôi phải chui vào đọc lén ở trong… nhà tắm! Đọc hai lần là tôi thuộc ngay, thuộc rồi không bao giờ có thể quên được nữa!”.

 

Bài thơ được viết ra từ năm 1953, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang ở giai đoạn ác liệt nhất. Hoàng Cầm sáng tác bài thơ cách nay 48 năm,  nhưng bố cục, ngôn từ rất hiện đại, nó như một cuốn tiểu thuyết cô đặc lại. Trong kho tàng thơ kháng chiến, nếu chọn ra mười bài thơ tình hay nhất thì bài thơ sau đây phải nằm trong số đó:

 

MỚI

 

Đôi vợ chồng mới cưới

Sáng dậy giặc bủa vây

Đôi lứa xuống hầm bí mật

 

Tiếng cuốc bổ miệng hầm bần bật

Như qủy nhập tràng

Nậy nắp áo quan

Dựng người còn sống

Một mũi kim luồn nhanh qua xương sống

 

Người vợ lao lên

Một tràng đạn tiểu liên

Im lặng

 

Mười năm sau

Người chồng đi lấy vợ

Anh nói như người say

Trên vai mềm vợ mới:

“ Một suối máu hôm qua

Nở thành em hôm nay

Yêu nhau sao cho vừa

Cho xứng với tình cao cả ngày xưa”

 

Người sống nói nhiều

Người chết không nói nữa

Từ nơi vô cùng chỉ gật đầu cười nụ

Trên nắm xương gửi lại đã tàn dần…

 

Đúng chất Hoàng Cầm, tình cảm nén chặt, càng nén càng như chực bùng lên, dữ dội. Ngôn từ thì cô đặc như cao, quá kiệm lời, chỉ có 123 từ kể cả tựa đề! Điệu thơ tưng tửng, tưng tửng nhưng lại cứ như mũi khoan xoáy vào tâm hồn, tấm lòng người ta. Bài thơ Mới đúng là một cuốn tiểu thuyết đã được rút gọn đến tận cùng, không thể nào gọn hơn được nữa: Chồng là bộ đội, vợ là du kích. Giữa hai trận chống càn, họ cưới nhau. Đêm tân hôn chưa trọn thì giặc bất ngờ bủa vây. Họ xuống hầm bí mật. Bọn giặc có kẻ phản bội đã cuốc đúng hầm của họ. Tiếng cuốc  bần bật như qủy nhập tràng nậy nắm áo quan để dựng người còn sống. Trong tình thế ấy, con người không khỏi run sợ: Một mũi kim luồn nhanh qua xương sống. Sự sợ hãi tất yếu nhưng chỉ trong khoảnh khắc mà thôi. Ngay sau đó, người vợ tung nắp hầm lao lên quyết tử với giặc. Tại sao lại là vợ chứ không phải chồng? Người phụ nữ Vệt Nam vốn có truyền thống anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang, sẵn sàng hy sinh cho tình yêu, cho chồng, cho con, cho Tổ quốc. Người vợ đã thuyết phục chồng để lao lên, hay là đã giành phần hy sinh để cứu chồng? Không ai biết đích xác, tác giả không kể lại đoạn đối thoại ở dưới hầm của đôi vợ chồng mới cưới. Chỉ biết rằng, khi người vợ bật nắp hầm lao lên thì một tràng đạn tiểu liên đã xối xả biến người nữ du kích anh hùng ấy thành suối máu. Suối máu chảy tràn xuống người chồng, dòng máu ấm nóng ngập tràn, cuồn cuộn yêu thương, dòng máu anh hùng… Mười năm sau, những mười năm chứ không phải là ba năm sau khi mãn tang, người chồng đi lấy vợ. Mười năm ấy, anh đã sống trong nỗi đau vô cùng vô tận. Thế nên khi đi lấy vợ, trong đêm tân hôn, Anh nói như người say. Trên vai mềm vợ mới: “Một suối máu hôm qua. Nở thành em hôm nay. Yêu nhau sao cho vừa. Cho xứng với tình cao cả ngày xưa”!Tưởng như không còn lời nói nào chân thành hơn, tha thiết hơn trong giây phút đó. Tình yêu mãnh liệt mười năm trước không bao giờ chết, nó bất tử, nó hóa thân vào tình yêu mới. Hạnh phúc hôm nay đã phải đổi bằng bao nhiêu mất mát đau thương. Những người đang sống phải sống làm sao cho ra sống, cho xứng đáng với sự hy sinh của những người đã khuất. Người sống nói nhiều. Người chết không nói nữa. Từ nơi vô cùng chỉ gật đầu cười nụ. Trên nắm xương gửi lại đã tàn dần… Hai câu đầu của đoạn cuối bài thơ như triết lý về sự tất yếu. Câu cuối cùng của bài thơ vẫn là một nốt nhấn đau thương. Thế nhưng nụ cười của người nữ du kích anh hùng năm xưa thì còn mãi mãi với đất trời sông núi cỏ cây, còn mãi mãi với thời gian, với kiếp người, để nhắc nhở, để nâng đỡ và hy vọng…

 

Thành phố Hồ Chí Minh, Ngày tình yêu 14-2-2001

 

Hoàng Cầm
Số lần đọc: 3303
Ngày đăng: 03.05.2005
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Giấc mơ - Vương Huy
Xin chút buồn tan - Thu Nguyệt
Đà Lạt khô - Thu Nguyệt
Ký họa Tháp Mười - Vũ Tuấn
Trong bóng hoàng hôn - Vũ Tuấn
Ngóng sao - Võ Tấn Cường
Bài thơ gởi Huế - Huỳnh Thanh Hồng
Không đề - Huỳnh Thanh Hồng
Đối diện - Bùi Văn Bồng
Tình vỡ - Ngũ Lang