“Nếu như mỗi bài thơ đã là một định nghĩa về thơ thì
liệu mỗi bản dịch không chỉ định nghĩa lại mà còn là một định nghĩa khác về thơ?
(Đ.Q.)
Hai chữ “Tiệp Khắc” thân quen
Thay cho “Séc và Slovakia”, trong tên bài tôi dùng chữ cũ “Tiệp Khắc”. Hai chữ hết đỗi thân quen và tự hào của cái thuở ban đầu 60 năm trước cho tới thời hoàng kim trong giao lưu văn hóa, chính trị và xã hội giữa hai đất nước Việt Nam và Tiệp Khắc những năm 1980. Đó cũng là tuổi đời, là đoạn đời đẹp nhất mà Nàng thơ Tiệp Khắc dành cho người dịch và biên soạn cuốn tuyển thơ mà bạn đọc đang cầm giữ trên tay.
Bia Tiệp; Pha lê Tiệp; và Hiến chương 77 - Cách mạng Nhung 1989 - Tổng thống Václav Havel. Đó là 3 hình ảnh đầu tiên về Tiệp Khắc trong thời đương đại.
Với văn nghệ sĩ, còn là Liên hoan phim quốc tế Karlovy Vary; là Antonín Dvořák - nhà soạn nhạc quan trọng nhất của mọi thời kỳ, có tác phẩm From the new world từng theo những bước chân đầu tiên của loài người chinh phục Mặt trăng; là Franz Kafka - nhà văn gốc Do Thái viết tiếng Đức, người tạo nguồn cho chủ nghĩa Hiện sinh; là Milan Kundera - nhà văn nổi tiếng nhất của Tiệp Khắc hiện đại; và là Jaroslav Seifert - công dân Tiệp Khắc đầu tiên với tư cách nhà thơ đoạt Giải Nobel về Văn học năm 1984. Thật tự hào cho 18 triệu chủ nhân của 2 ngôn ngữ Séc và Slovak trên toàn thế giới.
Trong hàng ngũ các Đặc sứ Nàng thơ Đông Âu & Nga đang xuất hiện trở lại Việt Nam vào các năm qua như Tạ Minh Châu của Ba Lan, Thụy Anh của Nga, Nguyễn Hồng Nhung của Hungary, Phạm Kỳ Đăng của Đức… đang có thêm Do.honza Đỗ Ngọc Việt Dũng của Tiệp Khắc.
“Làm sang làm sáng”
Trong các công việc viết bài để tham dự cùng tác giả vào một cuốn sách, riêng tôi thấy thoải mái nhất khi được viết lời Bạt. Khó và dễ. Khó, phải “làm sang làm sáng”([1]) tác phẩm. Dễ: dù dài hay ngắn, bạt là phụ thêm những điều như các góp ý chân tình mà hữu dụng, chặt chẽ mà cụ thể hoặc về cả cuốn sách hoặc chỉ ở vài chi tiết([2]); tức là được tự do về nội dung, cách viết. Khó: độ thoải mái sẽ tăng khi tác giả là văn hữu hoặc người thân, dễ sa bẫy “mèo khen mèo”. Dễ: vì là bạt, nếu tài hèn hay phóng bút quá lố thì độc giả cũng sẽ thể tất cho.
Vậy thưa ngay: đây là lần thứ hai người viết được có bài về tác phẩm của một bạn văn lại cũng là một người anh em họ của mình. Cuốn trước: tiểu thuyết 3 cuộc đời - Chuyện Tây Ta, Nhà xuất bản Lao Động năm 2012; và nay Tuyển tập thơ Séc & Slovakia, NXB Hội Nhà văn, 2014([3]).
Dịch giả Việt-Tiệp
Tự bản chất, mỗi bài thơ đã là một đơn vị nhiều ý nghĩa; ngay trong cùng một văn hóa, một ngôn ngữ cũng đã có nhiều cách hiểu một bài thơ. Do vậy, việc dịch thơ thường bị coi là bất khả thi. Nhưng cũng tự bản chất, như một yếu tố của văn hóa, thi ca có tính giao lưu; mà dịch thuật chỉ như một cái giếng lộ thiên cho các dân tộc khác tới cùng hân hưởng nguồn-thơ của dân-tộc-nguồn. Ai sẽ là người đào giếng, khơi mạch nước ngầm? Chính là các dịch giả tri âm tri kỷ. Bao đời nay, giữa thế giới thi ca nhân loại, hàng ngàn dòng thơ đã được hiển lộ trong ánh mắt của những kẻ yêu thơ ở mọi vùng đất nước rất xa khác nhau.
Giờ đây, dường như lần đầu tiên và có phần chậm trễ, đang tới với bạn đọc tiếng Việt là một tuyển dịch hệ thống và cụ thể dòng thơ Séc - Slovakia từ cuối thế kỷ 19 đến nay, qua chừng 40 tác giả tiêu biểu với gần 150 bài thơ.
Trước Do.honza Việt Dũng, phải nói là ít thấy người dịch tiếng Việt chuyên tâm dịch thơ và giới thiệu cuộc đời, sự nghiệp của các thi sĩ Tiệp Khắc. Nếu có, chỉ với một số ít tác giả nổi tiếng (như J. Neruda, V. Nezval…) được “quá giang” trong một tuyển chọn nào đó về thơ thế giới. Khoảng hai thập niên nay, theo chúng tôi được biết chưa đầy đủ, có 2 dịch giả nối tiếng và chuyên nghiệp đã là chủ nhân của 4 “bộ sưu tập” tiếng Việt cho thi ca Tiệp hiện đại: đó là Dương Tất Từ (chuyên gia hiếm có chuyên dịch văn học Tiệp từ 40 năm nay; Giải thưởng dịch giả châu Á đầu tiên năm 2009 của Hội Nhà văn Cộng hòa Séc), và Diễm Châu (nhà thơ kiêm dịch giả tiếng Pháp chuyên chú chuyển ngữ hàng chục dòng thơ trên thế giới, trong đó có thơ Tiệp Khắc). Dương Tất Từ có 2 dịch phẩm thơ: tập Thành phố tội lỗi - thơ Tiệp Khắc thế kỷ 20, NXB Thế Giới, 2000; và Seifert: Làm thi sĩ([4]); tuyển thơ và hồi ký, NXB Văn Học, 2007. Còn Diễm Châu có tập Thơ Vladimír Holan([5]), NXB Trình Bầy, 1992; và nhiều thơ dịch từ một số nhà thơ Tiệp Khắc đương đại, như J. Seifert([6]), A. Bartušek…([7])
Yêu thơ từ lâu và yêu tiếng Tiệp khi ở tuổi trưởng thành, Do.honza Việt Dũng vốn không phải là dịch giả chuyên nghiệp theo nghĩa sống với văn chương như một thứ nghề. Anh vừa chính thức gia nhập làng văn Việt Nam vài năm nay. Tôi cũng mới đọc thơ, truyện của Dũng được dăm năm; còn việc dịch thơ chỉ nghe nói sơ sơ, qua dăm dòng thông báo trên mạng. Tức là “cơn mê” dịch thơ Tiệp Khắc trong anh lặng lẽ cả chục năm rồi. Mở tập bản thảo dày cộm và kỳ khu, tôi “choáng” mà không ngạc nhiên. Bởi biết chủ nhân của nó yêu đất nước, văn hóa và con người Tiệp Khắc đến mê đắm([8]). Đó là “Tổ quốc thứ hai của chàng”. Vị Đại sứ Cộng hòa Séc tại Việt Nam, ông M. Klepetko từng nói trong buổi ra mắt sách 3 cuộc đời - Chuyện Tây Ta: “Gọi Do.honza Đỗ Ngọc Việt Dũng là người Việt hay người Czech đều được.”([9])
Đọc dịch phẩm này, chúng ta thấy văn hóa và thi ca Séc đã vào anh sâu, nhuyễn. Lời ý thơ được chuyển dịch trầm bổng bám theo nhịp điệu thơ Việt mà vẫn du dương dẫn bạn đọc đến tinh thần của nguyên bản. Vì người dịch chủ trương phá thi điệu thơ Séc nên độc giả hay gặp phải các chỗ bí vần thơ Việt. Để khắc phục điểm yếu tất yếu đó, Do.honza như đã tìm ra sự thông đồng giữa hai ngôn ngữ Việt-Séc vốn rất khác nhau về gốc gác, cũng như sự giao thoa giữa hai tình cảm dân tộc vốn không trùng nhau về phong độ. Anh đã khiến chúng ta cảm nhận được thơ Tiệp Khắc trong từng tác giả, trào lưu, thời kỳ. Ở đây, điểm nhìn của người dịch không thuần túy từ một người Việt rành tiếng Tiệp. Đọc một vài bài hay toàn tập sách này, có thể ai đó khác thị hiếu hoặc khắt khe khi thẩm định thơ chuyển ngữ, song tôi tin là họ đã thấy vẻ đẹp và sự ẩn mật của cái gọi là thi ca. Thế là dịch giả và các tác giả trong Tuyển tập… “ăn tiền” rồi!
Do.Honza như muốn dốc tận cùng tài sức đặng trả ơn tiếng Việt và tiếng Séc. Trên bình diện quốc gia, Tuyển tập đang làm cho hai Nàng thơ của hai đất nước trở thành bạn hữu thật sự. Đang mang tới các bạn yêu thơ, những người làm thơ và quan tâm đến thơ, trong đó có tôi, một địa chỉ đầy ý nghĩa về văn hóa và hữu ích về nền thơ Tiệp Khắc trong 100 năm qua.
Nhân ngày 2/9 vừa qua trên truyền hình VTV4 vị Phó Đại sứ Cộng hòa Séc tại Việt Nam, Karel Šrol cho biết bản thân ông và Bộ ngoại giao Séc trong khi theo dõi văn hóa Việt-Séc chưa thấy ai vừa đủ tiếng Séc lại có khả năng thơ hòa nhập đến thế.
Và như trong bài tựa cho cuốn sách, nhà nghiên cứu Việt học Ondřej Slówik Nam nhận định: “Quyển sách Tuyển tập thơ Séc & Slovakia do bác Honza dịch là một tác phẩm rất đặc biệt tổng quát thơ ca bằng tiếng Tiệp từ thế kỷ 19 đến nay. Kể tới bây giờ, chưa bao giờ có người Việt nào dịch thơ Tiệp kỹ như thế này.”
Trong bài bạt cho một tuyển dịch khác([10]), chúng tôi đã mạn phép đề xuất một loại barem dịch thơ:
“Nếu dùng ba tiêu chí Tín, Đạt, Nhã từng rất thân thuộc và khả dụng trong dịch thuật, nhưng theo hai hướng đi ngang và đi lên Tín --> Đạt --> Nhã, ta tạm cho rằng: Tín là đúng nội dung và văn bản của bài thơ cùng phong cách, ngôn ngữ của nhà thơ (Tín: 6-7 điểm). Đạt là truyền thi cảm và chuyển hóa ít nhiều nhịp điệu (Tín + Đạt: 7-8 điểm). Nhã là như một tác phẩm thơ của ngôn ngữ đích (Tín + Đạt + Nhã: 9-10 điểm).”
Theo cách đó, và dù không có khả năng đọc nguyên tác tiếng Séc - Slovak, chúng ta có thể cho rằng người chuyển ngữ Do.honza đã chọn cách dịch Tín mà vươn tới Đạt trong sự cố gắng rất cao để có Nhã. Hầu hết các bản dịch trong tuyển tập đều có nội dung của vấn đề thơ và đạt tính thơ về nghệ thuật. (Xem tiếp phần Hoa Tiệp đất Việt, bàn về các bản dịch hay trong tập sách).
Tóm lại, Tuyển tập thơ Séc & Slovakia là ấn phẩm nhiều ích lợi. Hữu ích là tiêu chuẩn cao nhất cho các tác phẩm tuyển chọn.
“Các nhà thơ - chính là người định hình ý thức dân tộc của chúng tôi.”
Đó là quan điểm của J. Seifert từng sáng rõ trong Diễn từ Nobel Văn chương 1984([11]). Chúng tôi sẽ trích dẫn hơi dài, bởi khó có thể ngắn hơn nếu muốn hiểu người Séc nói về mình, về thơ ra sao:
“Nhiều người, nhất là người nước ngoài, thường hỏi tôi: làm sao có thể giải thích tình yêu lớn lao mà dân tộc chúng tôi dành cho thơ ca; làm sao ở chúng tôi có thể tồn tại không chỉ lòng quan tâm đến thơ ca, mà là cả một nhu cầu đối với thơ ca. Có lẽ, chỉ có thể giải thích rằng đồng bào tôi có một năng lực hiểu thơ ca lớn hơn bất cứ dân tộc nào khác. Theo tôi nghĩ, đó là một hệ quả của lịch sử dân tộc Séc chúng tôi trong suốt 400 năm qua, và đặc biệt là sự phục sinh dân tộc của chúng tôi vào đầu thế kỷ 19. Việc mất độc lập về chính trị trong thời kỳ Chiến tranh ba mươi năm đã khiến dân tộc chúng tôi bị mai một thành phần tinh hoa nhất về tinh thần và chính trị của mình.”
“Tuy nhiên, vào đầu thế kỷ 19, cuộc Cách mạng Pháp và thời kỳ Lãng mạn đã khai mở trong chúng tôi những nguồn xung lực mới, khiến dân tộc tôi một lần nữa lại quan tâm đến những lý tưởng dân chủ, đến ngôn ngữ và văn hóa của mình.”; “Thơ ca là một trong những thể loại văn học đầu tiên của chúng tôi được hồi sinh.”;
“Ðiều đó giải thích sự tôn sùng ở nước tôi đối với thơ, và uy thế cao vời mà suốt trong thế kỷ trước người ta vẫn gán cho thơ. Nhưng không phải chỉ trong thế kỷ trước thơ mới đóng vai trò quan trọng. Thơ cũng nở rộ huy hoàng cả vào đầu thế kỷ này và trong thời kỳ giữa hai cuộc thế chiến, qua đó trở thành phương thức quan trọng nhất để biểu hiện nền văn hóa dân tộc của chúng tôi trong Thế chiến thứ hai, thời kỳ mà nhân dân chịu nhiều thống khổ và chính vận mệnh dân tộc chúng tôi ngàn cân treo sợi tóc.
Mặc cho mọi hạn chế từ bên ngoài, mặc mọi thứ kiểm duyệt, thơ đã thành công trong việc tạo lập những giá trị mang đến cho con người niềm hy vọng và sức mạnh. Cả sau chiến tranh - 40 năm trở lại đây - cũng vậy, thơ chiếm một vị trí rất quan trọng trong đời sống văn hóa ở nước tôi. Dường như sứ mệnh tiền định của thơ, thơ trữ tình không chỉ là nói với con người một cách gần gũi nhất, một cách thân thiết đến cùng cực, mà còn là nơi ẩn náu sâu thẳm và an toàn nhất của chúng tôi, nơi chúng tôi tìm sự cứu rỗi trong những nghịch cảnh mà thậm chí đôi khi chúng tôi không dám tìm tên gọi.”;
“Các nhà thơ, các nhà trữ tình chính là người định hình ý thức dân tộc của chúng tôi, nói lên khát vọng dân tộc của chúng tôi trong những thời đại đã qua và vẫn đang tiếp tục định hình ý thức đó cho mãi đến ngày nay. Dân tộc tôi đã quen hiểu mọi sự thông qua cách trình bày của các nhà thơ.”
“Nhìn bằng con mắt nhà thơ, đó là một điều tuyệt diệu. Nhưng... có phải hiện tượng này cũng có mặt trái không? Liệu sự thừa thãi thơ ca cũng đồng thời là sự phá vỡ sự cân bằng văn hóa không?”; “Tôi thừa nhận rằng ngay cả với chúng tôi, từ xưa đến nay - đặc biệt trong những thời kỳ phong bế về chính trị -, ngôn ngữ thơ ca thường chỉ là một thứ ngôn ngữ phụ, ngôn ngữ thay thế, một ngôn ngữ chỉ dùng khi cần thiết, chính vì nó vẫn là cách tốt nhất để diễn đạt những gì không thể nói bằng cách nào khác. Nhưng, dẫu vậy đi chăng nữa, vị trí thống ngự của thơ ở đất nước chúng tôi từ lâu đã nằm trong tâm thức của tôi, điều đó càng đúng bởi chính tôi sinh ra đã là nhà thơ và suốt đời vẫn là nhà thơ.”
Người Việt, thơ Việt - hơn ai hết, hơn gì hết - rất đáng ký tên chung dưới những dòng chữ máu và hoa đó!
Các khuynh hướng thơ Tiệp Khắc
Trong Tuyển tập có gần đủ các trường phái, trào lưu trong sáng tạo nghệ thuật thơ hiện đại thế giới: Lãng mạn, Tượng trưng, Hiện thực, Siêu thực, Hiện sinh, Vô sản, Hiện thực xã hội chủ nghĩa… Cho dù đa số các tác phẩm được chọn mang giai điệu trữ tình và dịu dàng tưởng như thuần cổ điển. Cho dù với một số tác giả ở hẳn trong các khuynh hướng siêu thực, tượng trưng nhưng cũng được chọn các tác phẩm và được diễn dịch “trữ tình hóa” theo phong cách truyền thống vốn là sở trường của người dịch.
Khác hẳn với thơ Bắc Mỹ / Mỹ - Canada, với sự tiến triển đều đặn của mình thơ châu Âu từ cuối thế kỷ 19 đến nay là loại thơ dễ đọc với độc giả Việt Nam vốn từng tiếp nhận trực tiếp thơ hiện đại từ “lò” thơ Pháp. Thơ Tiệp Khắc là tiêu biểu của nền thơ châu Âu trong vẻ thân thiện về tư duy và đậm cảm xúc về ý niệm.
Phần tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp văn học của các tác giả được trình bày kỹ càng, đa dạng. Cả về dung lượng lẫn nội dung đều có thể xem như phần độc lập của cuốn sách. Có không ít tiểu sử tác giả (như O. Březina, J. Neruda, K. Hlaváček) được giới thiệu như các bài tổng quan xinh xinh. Gần 40 chân dung thơ là cả xã hội, chính trị, văn hóa Tiệp Khắc trong một thế kỷ được thu nhỏ.
Qua Tuyển tập, độc giả thấy nổi trội nhất là dòng thơ trữ tình Tiệp Khắc bao gồm ảnh hưởng từ trào lưu Lãng mạn “gốc” cho đến mọi phong cách lãng mạn sau đó cho đến nay. Vì thế có thể gọi đây là tập thơ tình yêu.
Khuynh hướng thứ hai từng làm nên sức mạnh và vị trí thơ Tiệp Khắc trên trường quốc tế là dòng thơ Tượng trưng, được nảy sinh và phát triển đồng thời với trào lưu chung của Pháp và thế giới hồi cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20. Với nhiều tên tuổi nổi danh thế giới như: O. Březina – “được xem là một trong những hiện tượng lớn nhất của thơ ca thế giới”([12]), rồi đến J. Vrchlický, S. Antonín, K. Hlaváček…
Khuynh hướng siêu thực Séc có hai người “khổng lồ” dẫn đầu là V. Nezval, J. Neruda.
Chủ nghĩa lãng mạn hồi sinh có K. Erben là đại diện.
Mạch thơ Ngôn ngữ tạo hình mới có tên tuổi lớn là V. Holan.
Khuynh hướng Hiện sinh với O. Fischer, J. Kainar…
Nền thi ca vô sản qua J. Wolker là đại diện tài ba nhất.
Dòng thơ đương đại Tiệp Khắc với các tên tuổi: M. Válek, J. Simon, J. Žáček, V. Hrabě, H. Krchovský…
Dường như chỉ còn khuynh hướng Hậu hiện đại là không có mặt, nếu không tính P. Horáková mang đôi chút tâm thức sáng tác ngoại biên hóa.
Do tính chất đối lưu của các thi pháp nên không chỉ ở thơ Tiệp Khắc việc xếp đặt tác giả vào các trường phái luôn luôn bị bấp bênh, trừ một vài trường hợp rõ rệt. Danh sách trên chỉ tiện dụng cho các độc giả đang làm quen với thơ Séc - Slovakia.
Thơ Tiệp Khắc nói gì
Không có nhiều đề tài qua thơ được chọn vào Tuyển tập. Người biên soạn có thiên hướng tình yêu (nam nữ, tổ quốc, gia đình), về thiên nhiên, về sự sinh tồn và nhân sinh... Chúng ta phần nào nhận ra, trong thể trữ tình, thơ Tiệp Khắc nghiêng về diễn tả sự việc đời thường với cảm xúc nhẹ, lắng. Tình tứ không mạnh mẽ, thê thiết như thơ tình của Nga. Không dữ dội và sắc cạnh như thơ Đức. Không cụ thể, triết lý thoáng hài hước như thơ Ba Lan... Chất lãng mạn Tiệp Khắc có lẽ dựa trên cảm xúc tương lai mà không quên trực giác hiện tại khi nhìn về cổ điển? Thơ là người. Thơ Tiệp Khắc thể hiện bản tính người Tiệp Khắc an hòa, dễ tính, có phần giản dị; biết lánh đau thương để tìm chỗ tồn tại.
Dù ở thời kỳ, khuynh hướng nào, tạng thơ trong Tuyển tập quả là theo phương châm: “Thơ không viết ra để các nhà thơ và nhà phê bình văn học tiêu thụ với nhau trong một cái nồi úp kín mà ở đó cái gì đó đang lên men mốc giống như Viện hàn lâm Pháp… Thơ viết ra dành cho bạn đọc”. Đúng như nhận định của Seifert nêu ở trên: “Dân tộc tôi đã quen hiểu mọi sự thông qua cách trình bày của các nhà thơ.”
Tuyển tập như một “tập đại thành” xinh xắn về tình cảm và tình yêu của người Séc -Slovakia để bạn có thể tin cậy dùng làm quà tặng trong Ngày lễ tình yêu. Và viết đậm lên đó câu thơ của khôi nguyên Nobel văn học 1984 Jaroslav Seifert từng thảng thốt: “Nàng thơ muôn năm, tình yêu muôn năm!”
Các nhà thơ Tiệp Khắc - Ai là ai…
Tuyển tập là chân dung kép về các thế hệ trữ tình Tiệp Khắc dọc thế kỷ qua. Một bức ảnh chung của đại gia đình các tác giả thơ hiện đại Séc - Slovakia (dù phần Slovakia còn rất ít ỏi). Mỗi người mỗi kiểu thơ, và đều là thơ Tiệp Khắc chính hiệu. Không lẫn được.
Bằng tình yêu chân thành và sinh động, Do.honza Việt Dũng đã chọn lựa giữa cả ngàn được gần 40 nhân vật cùng hành trang ngôn ngữ Séc - Slovakia của họ, để mời họ “nhập tịch” vào xứ sở Việt Nam trong tiếng Việt đáng yêu này.
Đây cũng là lần đầu tiên, độc giả đại chúng cũng như giới văn học chuyên nghiệp Việt Nam có được một tuyển chọn tiểu sử văn học cùng đôi nét đời thường của các đại diện thi ca hiện đại Tiệp Khắc.
“Bàn về thơ, tuy cần chú trọng về quy cách, nhưng làm thơ thì phải gốc ở tính và tình.” Chu Thần Cao Bá Quát bảo vậy, từ xưa. Tính và tình ở mỗi thi sĩ Séc - Slovakia có thể thấy phần nào qua tiểu sử văn học. Để minh họa cho tính và tình trong thi phẩm đi kèm.
Ví thế, tập sách (bản song ngữ) sẽ cần thiết cho những người Việt muốn hiểu sâu hơn về ngôn ngữ Séc - Slovak qua thơ, về những sự giống, khác nhau trong một câu thơ giữa tiếng Việt và tiếng Séc hay Slovak. Phép so sánh được làm trên tác phẩm của những nhà thơ Séc - Slovakia, trong đó có một số tên tuổi lừng lẫy và đa số là những tác giả làm nên một nền văn hóa xuất sắc nhưng chưa có dịp được biết tới ở Việt Nam.
Cũng như trong mọi xứ thơ khác, mỗi thi sĩ Tiệp Khắc là mỗi mảnh đời tư và gia thế, mỗi nghề nghiệp và quan điểm. Như người thường, họ đều có sự sống cái chết không ai giống ai. Trong xã hội Tiệp Khắc thế kỷ 20 với quá nhiều thăng trầm, nhiều người an lành suốt đời với dòng văn nghệ chính thống; lắm kẻ chọn vị thế loài lề trọn kiếp; cũng nhiều vị giao lưu trung tâm - ngoại vi. Cái quý của họ là luôn trong tư cách thi sĩ, tác phẩm của họ có tên chung: thi ca Tiệp Khắc. Dẫu có nơi có lúc bị dập vùi. Đúng nghĩa, họ là những người thơ, của một đất nước thơ.
Mời bạn đọc ngắm nhanh lại các nét mặt sáng rỡ giữa những người thơ đó, trước khi thưởng thức lại một số sáng tác thi vị nhất của họ.
Vítězslav Nezval (1900-1958):
“Nhà thơ Séc có tên tuổi, nhà văn và nhà biên dịch, đồng sáng lập viên Chủ nghĩa thơ ca và là nhân vật đứng đầu chủ nghĩa Siêu thực (Surrealismus)”;“A. Rimbaud, G. Apollinaire và các bản dịch của các nhà thơ Pháp (….) đã ảnh hưởng nhiều nhất đến tác phẩm của Nezval.”
Với người viết bài này, trong thuở đầu đời khi vừa biết thơ tình và biết yêu đã may mắn được đọc bài thơ nức danh Nezval qua bản dịch “dịu dàng quá, dịu dàng không chịu nổi”([13]) của thi sĩ kiêm dịch giả tài hoa và tinh tế là Tế Hanh: bài Lời từ biệt và chiếc khăn. Dạo đó với tôi thơ Tiệp là Nezval, là Lời từ biệt và chiếc khăn. (Xem tiếp phần sau).
Jan Neruda (1834- 1891):
“Nhà thơ nổi tiếng Séc và nhà báo của thế kỷ 19”; “Có cuộc đời cảm thấy không được đánh giá và từ đó phát triển theo hướng quan hệ tiêu cực với mọi người. Ông có vấn đề với rượu. Phần lớn cuộc đời sống trong khó khăn.”;“Là người sáng lập tiểu phẩm, là nhà báo được ưa chuộng, đặc biệt các tiểu phẩm được đọc nhiều nhất.”; “Thơ Neruda chứa đầy những hoài nghi và bi quan, mà đôi khi đi vào các giới hạn của thuyết hư vô. Ngôn ngữ làm việc của tác phẩm Neruda phong phú, sử dụng archaismy, các dạng ngữ pháp cũ và đảo lộn. Thường xuyên phân nhịp đảo ngược. Nêu bật sự kiện bằng cách lặp lại các biểu hiện.”
Bạn có biết? Một thi nhân người Chile, khi chưa thành thiên tài thế giới đã quá mê Jan Neruda của Tiệp Khắc mà chọn bút hiệu là Pablo Neruda!
Jaroslav Vrchlický (1853-1912):
“Nhà văn, nhà thơ, nhà soạn kịch, biên dịch, giảng dạy văn học đại học”,“một trong những thành viên đầu tiên của Viện hàn lâm khoa học Séc”; “được đề cử giải Nobel văn học.”
Sova Antonín (1864-1928):
“Nhà thơ trường phái ấn tượng quan trọng nhất của Séc”; “Đạt được danh tiếng trên toàn thế giới.”
Otokar Březina (1868-1929):
“Nhà văn, nhà thơ Séc; bằng công trình thơ của mình ông đã hoàn thiện chủ nghĩa hình tượng Séc dẫn tới sự chuyển biến chung của văn học Séc.”; “Điều thú vị là ông đã 7 lần được đề cử (1916, 1917, 1918, 1920, 1921, 1925, 1928 và 1929) giải Nobel về văn học.”;
“Những thử nghiệm tác phẩm văn học đầu tiên của ông trong các năm 1883-1887 thuộc nhóm giá trị khó nhất của chủ nghĩa hình tượng văn học châu Âu. Březina hoàn toàn phù hợp với các lý thuyết hình tượng, nhận thức các sự kiện tôn giáo chỉ như là biểu tượng và sáp nhập chủ yếu cho tính xuất chúng và giá trị cái đẹp.”
Karel Hlaváček (1874-1898):
“Nhà thơ, nghệ sỹ, một đại diện có tên tuổi của Séc, biểu tượng của chủ nghĩa tượng trưng”; “không thành đạt lắm trong cuộc sống, cả đời phải vật lộn với vấn đề tài chính”; “Sokolské sonety: Bộ sưu tập thơ đầu tay. Phần lớn là những vần thơ danh từ chung, nhưng ở đây cũng có những đặc điểm của chủ nghĩa ấn tượng và suy đồi”; “Pozdě k ránu - Muộn màng tới sáng: Bộ sưu tập thú vị bởi cấu trúc âm hưởng và giai điệu, đạt được bởi việc lặp lại từ và vần điệu đặc biệt; (…) cố gắng sử dụng những âm thanh của từ cho người đọc thấy được tâm trạng. Nhiều lúc cho thấy khung cảnh thiên nhiên không thực trong quá trình chuyển đổi của ngày và đêm. Những bài thơ u sầu và buồn bã. Bộ sưu tập là ví dụ điển hình của chủ nghĩa tượng trưng Séc.”
Otokar Fischer (1883-1938):
“Nhà sử học nghệ thuật, giáo sư ngôn ngữ Đức tại trường Tổng hợp Karlova, nhà phê bình, lý luận sân khấu, dịch giả, nhà chỉ đạo kịch bản, dịch giả nổi tiếng nhất của các tác phẩm văn học Tây Âu. Vốn ngôn từ của ông được đánh giá là phong phú, hoành tráng nhưng đồng thời dễ hiểu”; “đã dịch các tác phẩm W. Shakespear, R. Kipling, Molièr, F. Villon, H. Heine… Bản dịch có ý nghĩa lớn nhất là Faust của Goethe, đến nay vẫn được coi là diện mạo tối hậu của tác phẩm kinh điển này. Các tác phẩm thơ của ông đến nay gần như bị lãng quên.”
Jiří Wolker (1900-1924):
“Nhà thơ, nhà báo và nhà viết kịch người Séc; một trong những thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Séc năm 1921.” (Wikipedia)
“Là người đại diện tài năng nhất của nền thi ca vô sản.”; “nhìn thấy một thế giới đầy mâu thuẫn, trái ngược, thế giới của đói nghèo và đau khổ, cần được thay đổi. Quá trình trưởng thành được ông gọi là ‘giờ phút nặng nề’, ông xuất hiện như một cậu bé, mà tại đó một mình ông không thể làm gì được thế giới và hoàn toàn bất lực”;“Wolker trong linh cảm trước cái chết gần kề đã tự viết dòng chữ để khắc lên mộ mình: ‘Nơi đây yên nghỉ Jiří Wolker, nhà thơ, người từng yêu thế giới và cho sự công bằng của nó mong muốn đấu tranh, nhưng trước khi có thể tuốt trái tim của mình ra chinh chiến, anh chết trẻ ở tuổi hai tư!“
Jaroslav Seifert (1901-1986):
“Nhà thơ, nhà văn, nhà báo, biên dịch Séc; đồng sáng lập viên Chủ nghĩa thơ ca”; “học nhiều trường trung học nhưng không tốt nghiệp vì hay bỏ học. Trong thời gian đó ông lang thang đến các quán bia Praha sáng tác thơ để đổi lấy bia.”;
“Tác phẩm đầu tiên xuất bản năm 1921, cùng năm đó ông vào Đảng cộng sản Tiệp Khắc. Trong những năm 20 được đánh giá là đại diện chính của nền nghệ thuật tiên phong Tiệp Khắc. Tháng 3 năm 1929 cùng 6 nhà văn thơ hàng đầu khác của Đảng bị khai trừ khỏi Đảng cộng sản vì đã ký vào Manifest sedmi (Tuyên ngôn bảy người) phản đối việc bolševich hóa trong lãnh đạo mới của Đảng cộng sản Tiệp Khắc.”; “1968-1970 là Chủ tịch Hội nhà văn Tiệp Khắc. Năm 1976 nằm trong những thành viên đầu tiên của Hiến chương 77. Vì sự tích cực của mình trong giai đoạn gọi là ‘bình thường hóa’ ông bị buộc phải nghỉ hưu, ẩn dật. Trong giai đoạn này ông đã định hướng hơn trở thành nhà bất đồng chính kiến, các tác phẩm thường xuyên được xuất bản ở ngoài luồng kiểm soát.”
“Năm 1984 ông được trao Giải Nobel về văn học”; “Mặc dù là sự kiện rất lớn, song các phương tiện truyền thông chế độ lúc đó chỉ đưa tin rất sơ lược. Đầu năm 1986, Jaroslav Seifert qua đời. Tang lễ nhà nước tại Rudolfinum bị đe dọa leo thang thành biểu tình chống chính quyền, do đó từ các khâu chuẩn bị lễ tang Bộ Nội vụ đã loại bỏ gia đình. Nghi lễ giáo hội được tổ chức tại nhà thờ Břevnov, Thánh St. Markéty dưới sự giám sát của an ninh quốc gia.”
Viện Hàn lâm Thuỵ Điển trao giải Nobel cho Seifert để vinh danh văn nghiệp “thơ ca chứa đầy sự tươi mới, nhạy cảm và giàu sáng tạo, biểu hiện một hình ảnh rõ ràng của tinh thần và sự đa dạng không thể khuất phục của con người”.
Vladimír Holan (1905-1980):
“Là một trong những nhà thơ và nhà biên dịch nổi tiếng nhất CH Séc thế kỷ 20. Tác giả với trí tuệ phản chiếu, thách thức hình ảnh thơ và thiền định đặc biệt giàu trí tưởng tượng, thường sử dụng ngôn ngữ riêng ‘Tạo hình mới”.
“Cùng thời với V. Nezval, J. Seifert, K. Biebl, F. Halas và K. Taige”; “M. Kundera đã gọi họ là ‘những thi sĩ của thế hệ sinh cùng với thế kỷ, chòm sao lớn nhất của toàn bộ lịch sử thi ca Tiệp. Có thể nói cuộc đời và thi ca của V. Holan gắn chặt với những biến động xã hội, những thăng trầm, những đổi thay dữ dội của đất nước ông trong gần trọn một thế kỷ. Nhưng, bất luận trong hoàn cảnh nào, với ông, mục đích sống của nhà thơ thật minh bạch: “(…) Là vì hàng triệu người trong chúng ta vẫn chưa trở thành người, và tôi vẫn còn có thể thấy quá rõ những đôi môi đau đớn ấy, những đường hằn khủng khiếp ấy của đói khát, nghèo đói và nhục nhã tàn tệ”. (theo Ý Nhi; Chú thích 5)
Josef Kainar (1917-1971):
“Năm 2007, tên ông được đặt cho trường trung học ở Hlučín, nơi ông từng học tập”; “Chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh. Các tác phẩm được đặc trưng bởi sự mỉa mai, châm biếm, ca khúc và khả năng kết nối lời với âm nhạc.”
Miroslav Válek (1927-1991):
“Nhà thơ Slovakia, ký giả, nhà biên dịch, người tổ chức văn hóa, nhà chính trị, người đại diện có tên tuổi của thi ca hiện đại Slovakia”;“1969-1988 là Bộ trưởng Văn hóa”; “1971-1976 là đại biểu quốc hội liên bang”;“1989 là Chủ tịch Hội nhà văn Tiệp Khắc”; “tự nguyện rời bỏ chính trị trước tháng 11/1989.”
Václav Hrabě (1940-1965):
“Lớn lên trong một ngôi nhà nhỏ ở Lochovice Beroun, cha là công nhân đường sắt”; “Người đại diện tiêu biểu duy nhất cho Thế hệ Beat tại Tiệp Khắc”; “khi còn sống không được chứng kiến bất cứ tác phẩm nào của mình. Tất các các cuốn sách đó được phát hành sau khi ông chết bi thảm khi chưa đầy 25 tuổi”;“Năm 2001 trường trung học Hořovice được đặt tên danh dự là Gymnázium Václava Hraběte.”
Karel Sýs (1946-):
“Hiện nay là Trưởng ban biên tập phụ chương văn học báo Haló Obrys-Kmen”; “Là một trong các nhân vật xuất sắc nhất trong các nhà thơ đã đi vào văn học những năm cuối 60, khẳng định trong thập kỷ tiếp theo và trong những năm 80 là những nhân vật thống trị thơ ca chính thống, kể cả chính trị văn hoá”; “Hình ảnh hoang vu kể cả sự tuôn trào vần thơ litanic và từ ngữ, những lời lăng mạ, và các mối đe dọa trực diện thể hiện niềm tin của nhà thơ về sự cần thiết khôi phục lại chính quyền đúng đắn của chủ nghĩa Cộng sản”;“Sau 11/1989 (Cách mạng Nhung) ông bị mất vị trí ưu ái của mình trong văn học Séc do vậy đã chuyển sang đối lập mở với thời đại mới.”
Josef Simon (1948-):
“Bộ trưởng Bộ công nghiệp máy, phó Thủ tướng chính phủ Tiệp Khắc 1968-1981; Đại sứ tại Rumania; 1985-1986 nghiên cứu Chính trị văn hóa tại trường Đảng cao cấp của Bộ chính trị Đảng Cộng sản Tiệp Khắc.”
Vladimír Křivánek (1951-):
“Nhà thơ, nhà văn, sử học, nhà phê bình, giáo sư đại học, biên tập và dịch giả”; góp phần kiến tạo và chỉnh sửa bốn tuyển tập hàn lâm ‘Lịch sử Văn học Séc 1945-1989 in sách bằng tiếng Bulgary, Ba Lan và Việt Nam.”; “2008-2011 là Chủ tịch Hội Nhà văn Séc.”
Petra Horáková (1986-):
“Giáo viên giảng dạy nghệ thuật cho trẻ em và thanh thiếu niên, giám đốc chi nhánh của tổ chức phi lợi nhuận đồ họa và vẽ tranh tại Plzeň.”
Và, độc giả có nhận ra không: trong các thi sĩ tham dự Tuyển tập, số nữ sĩ nổi danh như Petra Horáková rất ít ỏi. Chẳng lẽ Nàng thơ Tiệp Khắc chỉ “yêu” phái mày râu?
Hoa Tiệp đất Việt
Trong “công viên hoa” Tiệp được nở mọc trên đất Việt hơn nửa thế kỷ qua, “vườn hoa” Do.honza Đỗ Ngọc Việt Dũng vừa mới xuất hiện, đang còn hiếm hé ra các đóa thật đặc sắc nhưng đã cống hiến cho khách làng hoa một dung nhan hiền hòa, thanh lịch và đa sắc.
Mời độc giả cùng thưởng ngoạn các bông-hoa-thơ Tiệp mà chúng tôi cho là đẹp nhất từ đây…
Trong dịch thuật không thể chỉ có một con đường, một đích đến.
Thêm lần nữa, xin ví von về việc dùng tiêu chí Tín - Đạt - Nhã khi dịch chuyển các loài giống hoa-văn-học đến xứ sở có đất có nước khác hẳn mà vẫn gìn giữ được Dáng - Sắc - Hương của chúng.
Do.honza đã linh hoạt áp dụng định nghĩa của Fyodorov thường được nhiều người chấp nhận: “Dịch là chuyển đạt một văn bản từ một ngôn ngữ này (nguồn) sang một ngôn ngữ khác (đích) một cách trung thành trong chừng mực có thể, cả về nội dung lẫn về hình thức.”([14]) Với hầu hết các văn bản, anh đứng ở giữa tác giả và độc giả, giữa ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích. Tức là, không tái sáng tác đưa bài thơ tiếng Séc đến một đời sống Việt; mà cũng chẳng cố duy trì nghiêm ngặt nguyên tác từ nhịp điệu (cái bất khả trong dịch thơ) đến ngôn ngữ, phong cách. Với vị dịch giả Séc-Việt này, dịch là bắc cầu, là sáng tạọ; người dịch không hẳn là đồng tác giả mà thường là “dấu phẩy của tác giả”. Song, cũng như nhiều người chuyển ngữ khác, không hiếm khi Do.honza vẫn thử tài vận may khi lao vào hai thái cực mà ngay các bậc cao thủ cũng phải nhắm mắt chờ sự bất ngờ của thành tựu. Bùi Giáng tiên sinh là hiện tượng rõ nhất. Chính tính “phập phù” đã làm cho bộ môn dịch thuật trở nên nghệ thuật hơn, như ở lãnh vực sáng tác.
Trước tiên là bản dịch thú vị nhất trong Tuyển tập:
Đó là bài Bài ca (Chim đưa thư) của Seifert được in trang trọng nơi bìa cuối với bản chuyển sang thể lục bát. Bên trong sách cùng bản này còn có 2 bản ở thể 5 và 7 chữ. Duy nhất của Tuyển tập, một bài thơ có tới 3 bản dịch. Vì sao? Vì là bài thơ hay trước đó nhiều người đã dịch. Vì tác giả là chủ nhân Giải thưởng Nobel danh giá. Vì cùng “gu” với dịch giả; v.v…
Bạn hãy đọc lại thi phẩm Bài ca qua 4 bản dịch tiếng Việt nữa, từ 4 dịch giả khác([15]): Dương Tất Từ và Lương Duyên Tâm trực tiếp từ nguyên bản tiếng Séc; Diễm Châu và Thân Trọng Sơn qua bản dịch tiếng Pháp. Dương Tất Từ chọn cách dịch trung dung theo quan niệm chuẩn của Fyodorov. Ba vị còn lại đều theo xu hướng chung thủy với nguyên tác không chỉ về nội dung, ý nghĩa cả về nhịp vần và nhất là cấu trúc trong thể thơ tự do. Cả 4 bản dịch đó, vì thế, có điểm chung thường được coi như một tiêu chí: đọc biết ngay là thơ dịch.
Do.honza như cố tình khác những người đi trước khi đã chọn 3 thể vần điệu đặc thù Việt. Và rồi anh “thành chính quả” ở thể Việt tính nhất: lục bát. Chưa so sánh nguyên tác, chỉ so với 6 bản dịch kia ta cũng thấy rằng, với bản lục bát người dịch đã tập trung vào nhu cầu tiếp nhận của ngôn ngữ dịch và thêm bớt, xô lệch nguyên tác. Bản dịch bài Bài ca (Chim đưa thư) của Seifert đã làm sang giá cho lục bát Việt. Đó cũng là một “bài thơ” mới và hay, đứng cạnh bài thơ cũ đã hay rồi. Thi ca Đông và Tây gặp nhau tại đây!([16])
Bàn thêm:
+ Hỡi những ai đã từng ly hương rồi hồi hương, nếu không khóc ra nước mắt thì cũng nén vào máu mủ hai câu sáu-tám này: “Cùng bao tuyệt vọng trên đời/ Ta hồi hương trở về nơi quê nhà”([17]). Cảm ơn Do.honza Đỗ Ngọc Việt Dũng! Cảm ơn Jaroslav Seifert! Ai đã khóc đã nén nhiều hơn ai? Trong chúng ta…
+ Tôi yêu bản lục bát Do.honza. Tôi thích bản Diễm Châu. Tôi quý bản Dương Tất Từ.
+ Ba bản của Do.honza mang 3 cung bậc khác nhau ở cùng một trạng thái. Hai bản kia chưa nhuyễn về nghệ thuật thơ, nhất là bản 7 chữ còn gượng. Hồn vía “bài thơ” tiếng Việt của bài thơ Bài ca nguyên tác tiếng Séc đã về hết bản lục bát rồi!
+ Trong Tuyển tập, còn một bản dịch lục bát nữa (bài Khoảng cách yêu thương của Wolker). Cũng là một bài thơ mới trong tiếng Việt. Lời nhuần nhụy nhưng chưa được như bài Bài ca; có lẽ do nguyên tác chưa là một bài thơ hay? Mà cũng khó đoán biết, dịch là “phập phù”.
Bài Vĩnh biệt và chiếc khăn tay của Nezval:
Vẫn với chủ thể chiếc khăn vẫy trong chia lìa. Đấy từng là thơ tình nằm lòng của kẻ viết bài này, với tên Lời từ biệt và chiếc khăn([18]).Thời đó, bài thơ nằm trong luồng lãng mạn tuyệt vời trôi đến Việt Nam từ trời Âu tân tiến và cuốn hút. Nó ngây ngất đi vào sổ chép thơ của đủ lứa tuổi, tầng lớp để rồi xuất hiện trên báo chí, tuyển tập thơ. Tiếng ngâm lời đọc thổn thức trong các cuộc họp, các buổi chia tay, các đêm cuối cùng… giữa một đất nước phải lâm chiến từng ngày rồi lại hậu chiến trong xung đột biên giới tứ bề. Cái quý nhất là ở chỗ, Lời từ biệt và chiếc khăn thuộc vào không nhiều các thi phẩm chính thống mang phong cách ngôn ngữ và sắc thái tình cảm khác nhưng không quá lệch so với các sáng tác “chuẩn”, mà Cuộc chia ly màu đỏ của thi sĩ Nguyễn Mỹ từng làm biểu tượng.
Gần như trung thành với nguyên tác, hai bản dịch có cùng kết cấu và thi điệu. Khí thơ, cú pháp và cách cảm, đọc lên thấy ngay là thơ dịch của phương Tây, nhưng không “Tây gỗ” mà là Tây-Việt! Chữ và câu của bản Do.honza đôi chỗ chưa “lụa” bằng bản của tiền bối nhưng toàn bài đã phả ra tình lứa đôi dưới trời Âu mang hồn nhân loại. Giữ được chất Nezval. Bản của Do.honza mang nỗi đau mạnh, dứt khoát hơn, và từ tâm trạng trai gái với cái Tôi cá thể. Bản của Tế Hanh đã “xã hội hóa” nó trong cái Ta trữ tình rộng khắp.
Hai câu cuối của khổ đầu thú vị đáo để! Ý tứ tinh vi trong nguyên tác được hai dịch giả chuyển sang cung bậc đồng tình nhưng không đồng nghĩa.
Do.honza:
“Vĩnh biệt em dẫu có hẹn mai đây
Anh không đến có thể người khác đến.”
Lời dịch mượt, bảo toàn ý tứ của tác giả; cho thấy sự khuất phục của anh con trai thua cuộc mà vẫn hào sảng. Bây giờ chúng ta, nhất là thế hệ a-còng, đọc thấy ngon ơ. Thế nhưng giữa thời Mỹ ném bom ngoài Bắc và Việt Nam hóa chiến tranh trong Nam, “bác Hanh” mà dịch như “chú Dũng” thì có mà… chết toi! “Từ ngày anh đi ở nhà em đảm đang” cơ mà?!
Tế Hanh:
“Từ biệt nhé và nếu còn gặp nữa
Không phải ta đấy trở lại đâu nào”
Trên cả tuyệt vời! Dịch giả đã dùng tay thơ “lụa” của một thi nhân để bẻ ghi đưa ý tứ sang không gian tình cảm khác. Không chỉ bằng chủ thể Ta, còn dùng cả dạng phủ định. “Không phải ta” của Tế Hanh chính là “người khác” của Do.honza được dịch gần đúng từ “jiný host” (người chủ khác) của Nezval([19]). Giản dị và trong sáng, da diết và đau đớn. “Không phải ta” tức là “địch” rồi, là cái thằng đàn ông khác sẽ thay thế “ta” ngự trị trái tim nàng. Các nam thanh nữ tú, hãy bình thản đón nhận những lời từ biệt, những cái vẫy khăn để lên đường đến với một số phận khác, đang chờ. Thi sĩ Nezval đã khuyên như thế!
Bài Cái chết hát ca của Fischer:
Bản dịch tỏ ra chạy theo kịp với cơn bão từ ngữ và hình ảnh của “nhà phù thủy” Otokar Fischer trong văn học kinh điển châu Âu. Âm điệu thơ là tiếng vọng từ các số phận an bài dưới Đấng tối cao, nhắc độc giả Việt nhớ đến những bài thơ điên của thi sĩ bạc mệnh Hàn Mặc Tử.
“Cái chết hát ca soi gương nước rừng hoa (…)
Cạn máu, chờ khô, dây đàn Chúa ngân nga.”
Bản dịch hầu như không có vết nhăn dù phải xử lý tạng thơ truyền thống Séc với nhiều dụng điển.
Bài Hoàng hôn bên biển của Dyk:
Có thể vào danh sách các bản dịch đặc sắc trong trang thơ tiếng Việt đương đại. Một tiểu trường ca dồn dập trong dịu dàng, khốc liệt trong thanh thản. Bài thơ khá dài nhưng đọc không ngại, vì tứ thơ mang tính truyện rất hoàn hảo, kịch tính cao mà vẫn lãng mạn. Người dịch đã dìu chúng ta theo từng cơn sóng thi điệu của Việt ngữ đến với bản sắc văn hóa Tiệp Khắc đập trong mỗi lời mỗi nhịp.
“Lớp sóng tám vỗ về và vui vẻ
Vào mắt em, lên bầu vú trẻ non”.
Độc giả Việt Nam được biết thêm một triết lý về sự vượt thắng số phận, về giới hạn cuối cùng của thành bại trong cuộc sống qua biểu tượng trữ tình là “lớp sóng chín”.
Tôi viết mục Hoa Tiệp đất Việt này sau cùng, khi các phần mục khác của bài đã xong xuôi. Tùy tài sức, thời gian cho phép đặng cùng độc giả bình ngắm ít hay nhiều đóa-hoa-thơ từ người chuyển giống trồng cây Do.honza. Nay hạn nộp bài đã tới, xin dành lại cho các dịp khác những bài sau:
Đêm xuân của Březina;
Đôi giày - Con người, Phụ nữ, Thân tặng (Neruda);
Tình yêu ốm yếu (Holan);
Từ điển tình yêu (Nezval);
Tiếng Séc, Có thể (Simon);
Gọi đường dài (Sýs);
Hội Thoại (Seifert);
Cô gái dậy thì (Peterka);
Vào thu, Có thể anh tự sướng (Horáková);
Danh sách (Kainar);
Trở lại (Fischer);
v.v…
“Chuốt, chuốt nữa, chuốt mãi…”; hay là “Mẹ chăm bé gái”
Để tốt hơn nữa trong các lần tái bản Tuyển tập thơ Séc & Slovakia, chúng tôi xin nêu một số điểm có thể coi là hạn chế, thiếu sót mà các tuyển tập dịch thuật ít nhiều dính phải trong lần đầu xuất bản.
Dù theo phương cách chuyển ngữ nào, bản chất của dịch là dịch lại. “Chuốt, chuốt nữa, chuốt mãi…” Có lẽ nên là phương châm đầu tiên dành cho các nhà chuyển ngữ, các tay dịch thơ.
Không có khiếu dịch thuật, tôi hay ngó nghiêng xem sân văn nghệ này làm ăn ra sao. Ba mươi năm qua, mỗi khi động tới vụ việc dịch thơ lại dựng lên trong tôi hình ảnh một người đàn anh tên T., “bạn thư viện”. Câu chuyện uẩn khúc, tôi chỉ nhích ra đoạn về sự dịch thơ để đưa vào đây hầu độc giả.
Gần như hàng ngày anh T. đến Thư viện Quốc gia - Hà Nội. Khi trọn cả ngày, khi chỉ nửa tiếng… Đọc sách, nghiên cứu phục vụ nghề khí tượng thủy văn của anh. Và mỗi lúc giải lao, hoặc chán cái mớ công thức lùng bùng tích phân lằng nhằng, anh lại lôi ra từ túi áo complet (nếu mùa đông) hay túi sau quần (nếu mùa hè) một cuốn sổ tay be bé để dịch… thơ. Vâng, thơ. Thơ Pushkin. Chỉ Pushkin mà thôi. Anh dịch hàng trăm bài; giống một người dịch chuyên nghiệp nào đó. Khác, mỗi bài đều dịch ngót chục lần; với các bài “đinh” thì hàng chục lần. Thế mới kinh! Cứ vậy hàng năm, hàng năm… Có đôi kỳ giáp Tết, sau Tết, thư viện hóa thành chùa Bà Đanh. Vẫn thấy anh ngồi đấy, cúi xuống Pushkin của tiếng Việt… Dạo đó tôi nghĩ rằng, có thể hiểu anh phần nào và không thể hiểu nổi cuốn sổ nhỏ của anh. Giờ thì ngược lại. Không hiểu anh. Hiểu cuốn sổ nhỏ như một vật được dịch giả T. dùng để trau chuốt bản dịch.
Cũng dạo đó mẹ tôi thì bảo anh ấy vuốt ve bản dịch như bà mẹ Việt Nam chăm sóc bé gái của mình; từ phút lọt lòng đến ngày bé thành con gái, từ ngày bé lên xe hoa đến ngày bé sinh con của bé, rồi đến ngày con bé thành con gái, rồi lên xe hoa…
Đầu thế kỷ trước bậc thi bá Tản Đà đòi hỏi “Lời văn chuốt đẹp như sao băng”. Đa phần cánh sáng tác giành đặc quyền chuốt tùy hứng tùy tính. Chứ dân dịch thuật không chuốt, e không ổn. Cả khi bản dịch đã xuất bản, đã nổi tăm vang tiếng.
Ngoài việc chuốt lời, tôi còn thấy Tuyển tập cần được chuốt bài nữa. Tức là cần tinh tuyển tác giả, tác phẩm hơn. Thêm người cần thêm, bớt bài cần bớt, v.v… Các hợp tuyển là vậy, cứ lọc ra lựa vô hoài hoài…
Đọc Do.honza dịch, tôi liều mà đồ rằng anh dịch-bài theo quan niệm chân phương của Fyodorov, còn dịch-chữ thì theo kiểu phóng túng “dịch thơ giống như làm thơ”. Thế phải nói là hài hòa. Dịch giả tự chọn cho mình phương cách riêng, miễn sao có bản dịch đáng là bản dịch. Có điều, kiểu dịch chữ đó không có thao tác dấm dứ, nhấc lên hạ xuống.
Tôi vẫn hằng tin, dịch thơ ẩn trong mình nó một hành trình các chuỗi ngập ngừng([20]).
Có những tiểu-ly-âm, tiểu-ly-từ đã nuôi sống cả một bản dịch thơ. “Đấy” và “đâu” là các tiểu ly âm, tiểu ly từ như thế trong câu thơ dịch của Tế Hanh. “Không phải ta đấy trở lại đâu nào”. Dịch, không còn là diệt là giết theo cái nhìn hà khắc nữa! Trong Tuyển tập tôi cũng đã tìm được một số trường hợp, mà chưa đáng kể.
Nếu thơ là dòng suối tuôn trào tự nhiên thì dịch thơ là đài phun nước có điều khiển ở đâu đó mà những kẻ dạo bước trong khuôn viên thi ca khó nhận ra. (Trong rừng thơ dịch trên trái đất này, chắc chỉ có Trung niên thi sĩ là dịch như thác lũ!)
Nếu thi sĩ là kẻ hành pháp, là ngài bộ trưởng, là vị tướng quân phóng tay thực hành một sắc lệnh, một chiến dịch thì giới dịch giả như hệ thống tư pháp, như quan tòa phán xét, chuyển hóa các thực thi công lý của ngôn từ và tình cảm con người.
Phần tiểu sử chân dung tác giả cũng còn không ít chỗ cần hoàn thiện; như dẫn nguồn tư liệu, nhuận sắc ý, câu…
Điều nữa, lẽ thường tình, ông chủ nhà hàng nào thực đơn nấy. Tuyển tập phải thuộc về thị hiếu của Do.honza Đỗ Ngọc Việt Dũng, người dịch - biên soạn và cũng là nhà thơ song ngữ Việt-Séc([21]) tham gia vào đấy như tác giả của 4 sáng tác về tình ái, khát vọng sống. Phong cách trữ tình khiến bộ sưu tập thiếu vắng các thi phẩm bừng lên những biến động khi gai góc nhân quần, lúc sinh tử chiến tranh của xã hội và con người Tiệp Khắc suốt thế kỷ qua mà bài Diễn từ Nobel của Seifert nêu trên đã gióng giả như những lời cuối cùng còn có thể nói ra được. Trong tập sách, 4 bài thơ của Seifert (Bài ca, Biển, Chiếc nhẫn mẹ để lại, và Hội thoại) ca tụng tình yêu, hạnh phúc qua những chân lý nhân bản và quả là chưa hết tầm thi nhân, như vinh danh của Viện hàn lâm Thuỵ Điển và đánh giá của dư luận văn giới. Các bài thơ thời cuộc, chính trị của ông từng “mô tả hình tượng rành mạch của tinh thần và sự đa dạng không thể khuất phục của con người”, và “mang ý thức độc lập, biết dùng ngôn ngữ thơ ca làm vũ khí hữu hiệu để đấu tranh vì nền độc lập cho Tổ quốc Séc”.
Làm bạt
Nhiều năm trước, tôi từng có bài thơ Làm bạt cho đời - để nói bao nhiêu dòng thơ của đám thi sĩ chúng ta nếu như được đời cho phép cùng dự phần, thì may lắm là làm lời bạt cho pho-sách-cuộc-đời.
Nay tôi đang có hãnh diện nho nhỏ được làm “trang bạt” cho người đồng nghiệp - người anh em, dịch giả Do.honza Đỗ Ngọc Việt Dũng, trong một dịch phẩm nồng thắm về tình cảm, cao cả về ý tưởng và đáng giá về nội dung: Tuyển tập thơ Séc & Slovakia.
Vancouver, mùa thu 2014
-------
*) Phiên bản rút gọn của bài đã được dùng làm lời Bạt in trong tập sách.
**) Chú thích:
[1]) Chữ của nhà lý luận phê bình Hoàng Ngọc Hiến khi bàn về chức năng phê bình.
[2]) Ý của nhà phê bình Trần Văn Nam.
[3]) Sẽ được gọi tắt là Tuyển tập ở nhiều chỗ trong bài này. Nói thêm: ngoài bản chính, Tuyển tập còn có bản song ngữ in với số lượng nhỏ.
[8]) Do.honza Đỗ Ngọc Việt Dũng còn là tác giả sưu tầm và biên dịch cuốn “Truyền thống, trang phục dân tộc, ẩm thực Czech” NXB Lao Động 2012.
[10]) Lời bạt tập sách Thơ cần thiết cho ai; Nguyễn Đức Tùng, bình luận và tuyển dịch thơ hiện đại Mỹ & Canada; sắp xuất bản.
[12]) Các câu in nghiêng trong dấu ngoặc kép là trích từ Tuyển tập thơ Séc & Slovakia.
[16]) Trần Trọng Vũ đã có lý khi bàn về “Sự khác biệt” trong nghệ thuật dịch: “Câu hỏi đặt ra mà ít người biết tới: Cần phải xóa đi sự khác biệt giữa hai ngôn ngữ? Hay là sử dụng nó, như một công cụ trong dịch thuật? Nhận xét này của tôi không biết có chính xác, khi tôi cho rằng những dịch giả chuyên nghiệp có xu hướng xóa đi những đặc thù của ngôn ngữ này để bình thường hóa chúng trong ngôn ngữ kia. Ví dụ, bản dịch tiếng Việt từ một ngoại ngữ phải cực kỳ Việt hóa, đến mức không nhận ra là một bản dịch nữa, được như vậy càng tốt.” (Chú thích 14)
[17]) Độc giả chịu khó đọc hai câu tương đương trong 6 bản dịch còn lại, mới thấy ở đây lục bát Việt vô giá!
[19]) Trong câu “možná že nepřijdem že přijde jiný host” của nguyên tác.
[20]) Còn với sáng tác, phong cách “ngập ngừng” đã tự tạo ra một con dốc dài để đạt đỉnh. Trong thơ Việt đương đại, Nguyễn Bình Phương là một tác giả như thế mà bài phê bình của Ngọc Đỗ vừa cũng đã phần nào chỉ ra (“Đi tìm giới hạn giữa con người công chức và con người nghệ sĩ”, baovannghe.vn16/9/2014). Nhà thơ danh tiếng người Do Thái Paul Celan cũng từng được xem là thuộc về thi pháp “ấp úng”.
[21]) Được biết trong thời gian sắp tới anh sẽ cho in tập thơ tiếng Việt đầu tay, và tập bài hát - dân ca Tiệp Khắc chọn lọc song ngữ với lời dịch tiếng Việt.