Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.167
123.223.936
 
Đôi lời về dịch thơ Đường
Nguyễn Khôi

 

                 (Gửi : Nhà thơ Đỗ Trung Lai)


                                  -----------

  Nhà thơ Đỗ Trung Lai (sinh 1950 ở Phùng Xá, Mỹ Đức, Hà Tây cũ) vừa xb cuốn " 100 nhà thơ Đường- Đỗ Trung Lai soạn sách & dịch lại thơ", trước đó anh đã xb 3 cuốn tương tự về Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị.

  Cảm tưởng đầu tiên là trang trọng :ĐẸP cả về hình thức lẫn nội dung, xứng đáng là một tư liệu quý để ai đó thích nghiền ngẫm "Đường thi".

  Theo thiển ý của NK thì thành công chủ yếu của Đỗ Trung Lai là anh đã tạo được một sân chơi : thỏa mãn một nhu cầu là "tuyển" & "dịch" những Tác giả & Tác phẩm thơ Đường mà anh yêu thích để cống hiến cho bạn đọc thưởng thức hàng nghìn bài thơ Đường với nhiều bản dịch của nhiều Dịch giả có tên tuổi nổi tiếng và chưa nổi tiếng ? công phu lắm, tâm huyết lắm mới làm được như Đỗ Trung Lai !

  Tuy nhiên, do tuyển với số lượng lớn, mỗi bài lại có từ 2 đến 5 "Nhà dịch"- trong đó Đỗ Trung Lai thường là dịch 2 lần (1 theo thể Đường luật, 1 qua vần Lục bát) thì quả là không hề đơn giản, khó tránh khỏi các  thiếu sót...Ví dụ :

 * Bài "Thu phố ca" của Lý Bạch, thì bản dịch của Trúc Khê nổi tiếng lâu nay lại chưa được đưa vào :

    Tóc trắng ba ngàn trượng

    Vì buồn, dài lạ sao !

    Trong gương thật chẳng hiểu

    Sương thu vào lối nào !

        (Trang 31/ Lý Bạch. nxb Văn học Hà Nội 1992)

 * Bản diễn nôm  "Phong kiều dạ bạc" của Trương Kế là của Nguyễn Hàm Ninh (1808-1867) tài hoa ngang ngửa với Thánh Quát, ông là  thầy dạy vua Thiệu Trị, chứ không phải của Tản Đà :
ĐÊM ĐẬU THUYỀN Ở BẾN PHONG KIỀU

     Quạ kêu, trăng lặn, trời sương

Lửa chài le lói, sầu vương giấc hồ

     Thuyền ai đậu bến Cô Tô

Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.

               Nguyễn Hàm Ninh - diễn nôm

  Dị bản :

      Trăng tà tiếng quạ kêu sương

Lửa chài cây bến, sầu vương giấc hồ


       ...

  Dị bản :

      Quạ kêu, trăng lặn, sương mờ

Bên sông lão khách lập lòe lửa câu


...

* Bài "Trúc lý quán" của Vương Duy : ở đây cần phân biệt chữ "lý" (điền/thổ) là nơi ở, với chữ "lý" (mộc/tử) là cây mận, do đó "Trúc lý quán" là Dặm trúc, ở trong Võng Xuyên, nơi ẩn của Thi nhân.

        QUẤN TRÚC LÝ

Một mình trong đám trúc

Khảy đàn, huýt gió chơi !

Rừng sâu người chẳng biết

Chiều nhau, trăng sáng ngời.

              Đinh Vũ Ngọc (Hội An) dịch

*Bài LỘC SÀI  của Vương Duy :

Không sơn bất kiến nhân

Đãn văn nhân ngữ hưởng

Phản cảnh nhập thâm lâm

Phục chiếu thanh đài thượng.

-Lộc Sài (có bản đọc là "Lộc trại", có người cho là Trại nuôi hươu ?thực đó là 1 địa danh du ngoạn nằm trong vùng Võng Xuyên.

-Phản cảnh : từ Hán cổ, cảnh tức là ảnh,đồng thời có nghĩa là ánh sáng, nên "phản cảnh" là ánh sáng phản chiếu. :

  Núi vắng không bóng người

  Chợt nghe tiếng ai vang

  Nắng soi rừng núi thẳm

  Chiếu rạng đài rêu xanh.

           Vũ Thế Ngọc (Hoa kỳ) dịch

 Chao ôi, cái đặc sắc của Đường thi xưa nay làm các Thi nhân Việt bị "hút hồn" đó là vì sự điêu luyện của nghệ thuật thơ ca : sinh động & sâu sắc. "Các nghệ sĩ Đường thi thể hiện tâm trạng hay mô tả sự vật bao giờ cũng chỉ phác vài nét, không dùng nhiều ngôn từ, mà chủ yếu làm sao cho những lời, những chữ tưởng như cũ nhưng lại mang được ý nghĩa mới bằng cách so sánh, phát hiện tính tương đồng giữa nó với đối tượng mới" -(ý mới/ tứ lạ là thế). Cái tuyệt tác của "Tứ tuyệt" là sự kết hợp tài tình giữa cái tả cảnh & tả tình (Tình- cảnh- sự hài hòa làm nổi bật lên chủ đề) để toát ra cái "ý tại ngôn ngoại" để Người Việt ta tha  hồ "cảm" được cái thần diệu của Đường thi mà suy tưởng...có lẽ vì thế mà có "nhiều bản dịch" khác nhau, đọc đều thấy thích thú ? ! Ví dụ :

   Chỉ một câu " Đáo địa nhất vô thanh" của Vi Thừa Khánh, mà có nhiều "cách dịch" khá hay  :

-Chạm đất một tiếng thầm  (Nguyễn Khôi)

-Không lời trên đất vọng về nhân gian (Đỗ Trung Lai)

-Lúc rơi xuống đất tuyệt không tiếng gì (Tương Như)

-Lìa cành về đất không hề tiếng rơi ( Vũ Minh Tân)

-Lặng yên xuống đất một lời không than (Đinh Vũ Ngọc)

  Có một Dịch giả nổi tiếng (trước 1945) là Nhượng Tống ( VNQDĐ bị VM giết) đã dịch "Mái Tây" (Dưới mái tây hiên) của Vương Thực Phủ, nên thường in là NT.- không phải là Nam Trân,ông có nhiều bản dịch Đường thi được cho là có HẠNG ?

   NK có một điều băn khoăn là : "Thơ Đường 100 nhà" với "100 thi cách " độc đáo khác nhau mà lại do "1 Dịch giả (1 Nhà)" với 1 Thi cách ra công "dịch" thì e rằng vô hình chung đã lấy "thi cách-giọng điệu" của 1 nhà "úp" bao trùm (xào nấu-vo tròn) 100 Nhà thì cái "hồn cốt"- phong cách tiêng tây kia liệu  có còn giữ được cái "chất" độc đáo (như Thi tiên Lý Bạch, Thi thánh Đỗ Phủ, thơ ma Lý Hạ...) là bao nhiêu đây ?

  Đôi lời kết : công trình soạn sách & dịch lại Thơ Đường Của Đỗ Trung Lai thật à  ĐÁNG ĐỌC, chưa 

"toàn bích" thì cũng là lẽ thường tình, Bảng nhãn Lê Quý Đôn xưa đã từng răn dạy :

   "Văn chương là của chung thiên hạ

   Ý mỗi người mỗi khác

    Phân tích thì được

   Chứ không nên chê mắng."

Đôi lời nông cạn, gọi là một chút cảm nghĩ chia sẻ...có điều gì bất cập xin được Nhà thơ - Dịch giả & các Bạn Thơ chỉ bảo.

 

   Góc thành nam Hà Nội 30-10-2014

https://ssl.gstatic.com/ui/v1/icons/mail/images/cleardot.gif

 

Nguyễn Khôi
Số lần đọc: 3058
Ngày đăng: 02.11.2014
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
4 Bài thơ thiếu nhi của Nguyễn Anh Nông - Qua lời bình - Nguyễn Anh Nông
Thanh Thảo và Trường Ca "Đám mây hình người thợ săn và con chó" - Mai Bá Ấn
"Gấm" trong Bàn tay nhỏ dưới mưa - Trần Kim Đức
Bài thơ "Em" của Hồ Minh Tâm từ góc nhìn Tâm lý học - Nguyễn Thị Minh
Lãng mạn như tác giả 'Thơ tình viết trên bao thuốc lá' - Trần Dzạ Lữ
Đặng Phú Phong đọc “Bàn tay nhỏ dưới mưa” - Đặng Phú Phong
Nghệ thuật xây dựng nhân vật tha hóa trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975 - Cao Thị Hồng
Nguyễn Nguy Anh, vọng gọi chiều bằng cả hồn thơ... - Nguyễn Nguyên Phượng
Dấu ấn tư tưởng Nho giáo và Lão giáo trong Nghiên Cứu – Phê Bình Văn học ở Đô thị miền Nam 1954 - 1975 - Trần Hoài Anh
Ngẫu hứng đọc “Thơ tình viết trên bao thuốc lá” của Nhà Thơ Trần Dzạ Lữ - Võ Quê
Cùng một tác giả
Xuân (thơ)