Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.184
123.216.119
 
Vào một thời im bóng
Vương Kiều

 

 

                                      

 

23/10/2014

                                                                     - 1 -

     Nếu không thức dậy đúng lúc loa phóng thanh báo rằng, tàu sắp rời ga Diêu Trì thì ngày hôm đó tôi phải vất vả quay lại Qui Nhơn ở ga dừng kế tiếp. Không hiểu sao tôi thức dậy được để hấp tấp lấy hành lý, xách giày chạy ra cửa toa, vừa nhảy xuống khỏi tàu chỉ kịp nghe ông bảo vệ la toáng :

-        Có ngủ thì nhờ người chung quanh đánh thức chứ ! !

Cũng vừa lúc chuyến tàu SE 7 hú còi chuyển bánh. . .

     Vào thành phố Quy Nhơn lúc 7g hơn, còn quá sớm để đến nhà Lê Văn Ngăn ở đường Hai Bà Trưng, tôi dạo một vòng quanh mấy con đường mong tìm lại vài hình ảnh Quy Nhơn ngày trước, nhưng hoàn toàn xa lạ, chỉ thấy nhà cao cửa lớn, khắp nơi đều bê-tông hóa, những con đường không còn cát biển nằm rải rác đó đây, thỉnh thoảng vướng vào chân tạo cho người đi cảm giác vui vui như được nghe muối biển thì thầm dưới gót.

     Tôi đến nhà Ngăn lúc 8g30, chị Phước vợ Ngăn đang dọn dẹp bên trong, chị thấy tôi liền vội ra mở cổng và câu chuyện của chị bắt đầu. . .Chị kể rất nhiều chuyện, mới có, cũ có, chuyện bệnh tật của Ngăn, chuyện bạn bè. . .Chi kể một thôi, tôi nghe một hồi, rồi chị mới đi lên lầu báo cho chồng biết là tôi ở Huế mới vào. Lát sau tôi nghe Ngăn vọng xuống gọi tôi lên, giọng rất bình thường, không có vẻ gì là người đau yếu cả. Ô. Lê Văn Ngăn mới mổ não ngồi đó, trên giường, nhìn tôi cười, mắt vẫn vui vui như mọi khi nói :

- À ! Cậu mới vào ! Đến đây ngồi.                                                                                                                  

     Tôi đến ngồi bên cạnh, lạc quan :

- Ông hơi trắng, mập ra, chỉ có cái đầu là khác, giống mấy ông thầy chùa.

- Ừ ! phải vậy thôi !

     Ngăn đứng dậy bảo tôi đến ngồi ở bàn pha trà uống, dáng đứng và đi vẫn nhẹ nhàng, nếu không có tấm băng phía sao ót thì tôi không nghĩ ông Lê Văn Ngăn mới qua cơn mổ não nguy kịch. Điều tuyệt vời là trí nhớ của Ngăn không suy suyễn, thậm chí số ĐT của Lê Gành, Ngăn đọc cho tôi từng số một không chút ngập ngừng. Ông Ngăn vẫn đinh ninh là hồi đó bị té nên máu bầm ứ ở não mới ra cớ sự và hy vọng là không di căn di kiết gì hết. Tôi đồng ý với mong muốn của Ngăn và không nói gì về bệnh trạng nữa.

 

                                                                      -2-

 

     Quy Nhơn mới 9g30 sáng mà tìm quán bia mồi nhắm đàng hoàng thì khó thật. Lê Gành chở Kim Quy (bạn thời sinh viên của Gành) và tôi (ngồi giữa) Quy nói :

-        Ông ốm vậy, công an chỉ thấy tôi thôi ! Không thấy ông đâu mà lo.

     Gành lái xe qua phố nầy phố nọ, vẫn không thấy có quán bia nào mở cửa. Cuối cùng đến đường Trần Cao Vân thấy có quán cà phê bán cả bia bên lề đường, thế là chúng tôi ghé vào, Gành gọi bia và mấy bịch đậu phụng.

     Năm 1973 Lê Gành được phóng thích khỏi Lao Thừa Phủ - Huế, thì ba mẹ Kim Quy cho Gành về ở căn nhà nằm phía sau đường Chi Lăng. Nhà có sân vườn rộng, trước cổng vào tôi còn nhớ có ba chữ khắc nổi trên cột trụ “ Y Tá Diệm “. Thời ấy tôi biết gia đình Kim Quy vì trong nhà ở đường Trung Bộ (Tô Hiến Thành) có Thanh Hương, em ruột Kim Quy, người đẹp vang bóng một thời, mỗi lần nàng đi học vào sớm mai thì rất nhiều trai trẻ áo trắng quần xanh nhìn theo nàng xao xuyến.

     Than ôi ! Hồng nhan bạc mệnh ! Sau nầy nàng là phát thanh viên của đài truyền hình Huế trước 1975, và cuộc đời nàng truân chuyên từ đó.

     Tôi hỏi Kim Quy, Thanh Hương bây giờ đâu rồi ?

      Quy đưa hai tay lên trời ! Nói :

- Thanh Hương vào Sài Gòn, rồi về Kiên Giang vượt biên để lại hai đứa con cho mình và từ đó . . .mất tích. . .

     Sáng hôm ấy chúng tôi nói về Lê Văn Ngăn, “ Cuộc đời ! Thơ ca ! Và những kỷ niệm với bạn hữu. “ Gành nói :

-        Kỷ niệm về ông Ngăn thì nhiều và bắt đầu kể :

-        “ . . .Vào một đêm nào đó !. . .năm 1970, Lê Gành đang ở tại cư xá Minh Mạng Nam Giao thì Ngăn xuất hiện, mặt mày có vẻ hớt hãi. . .” trốn lính”, Gành mở tấm cửa thông lên gác, nói Ngăn mau vội leo lên trên ấy, đừng ho hen, đụng đậy gì hết. Nửa đêm, chung quanh chó sủa náo loạn, ngoài kia quân cảnh, cảnh sát đang đi lùng sục. . .Quá nửa đêm thì không nghe chó sủa nữa, Gành biết đã yên liền mở cửa thông gọi Ngăn xuống. Có lẽ  “ Người đi trốn” tôi hôm đó chưa có chén cơm nào trong bụng nên hỏi Gành có gì ăn không ? Gành kéo mấy hộc tủ, may mà còn sót vài khúc bánh mì khô cứng, bỏ vào ca đổ nước cho đường, xăm dầm thành món xúp mì đưa cho nhà thơ. . .

    Trưa tôi về nhà Ngăn kể lại kỷ niệm ấy, Ngăn không quên, buột miệng :

-        Bữa đó mình ăn ngon thiệt.

 

                                             -3-

 

     Chiều hôm ấy, bác xe thồ chị Phước gọi chở tôi về ga Diêu Trì, khi tàu chuyển bánh khoảng 15 phút thì Ngăn gọi :

-        Cậu về ga có kịp tàu không ?

-        Mình đang ngồi trên tàu, tàu chạy rồi, mong ngày gặp lại.

-     Ừ ! 

     “ Mong ngày gặp lại ! Có không ? Tôi hỏi lòng mình.”

     Lê Văn Ngăn ! Thi Sĩ ! Sống chân thật với lòng mình, với bạn hữu và cuộc đời ! Cho dù có những thời đoạn Ngăn nhầm lẫn chọn pháp môn dấn thân sai khác với lòng, nhưng con người vốn dĩ có ai không sai lạc.

     “ Vào Một Thời Im Bóng “ tập thơ đầu tay của Lê Văn Ngăn xuất hiện ở Đà Lạt năm 1972, bây giờ như là một định mệnh ứng vào số phận của ông. Hình ảnh ông Lê Văn Ngăn lặng lẽ với bệnh tật như chiếc bóng trên mái lầu, phía trước có một khoảng trời xanh và vài ba cây kiểng nói thầm với ông về ý nghĩa màu xanh hy vọng. Tôi nhớ có một câu thơ Ngăn viết rằng : “ Đừng đi về phí khổ đau nhiều hơn hạnh phúc. “ Những năm tháng sau nầy, bạn bè đều biết, “ Ông đang đi dần về phía khổ đau.” Có lần khi Ngăn và tôi ngồi ở Sài Gòn, qua điện thoại nói chuyện với Lê Huỳnh Lâm ở Huế, tôi nhớ mãi câu nói của Ngăn mà xót xa, “Mình đang sống dần và đang chết dần. “ Đó là tiếng kêu thương của một người đang đi dần vào “ Cuối Mùa Im Bóng “ đang đi về phía khổ đau không còn hạnh phúc.

 

 

                                                  - 4 -

 

     Mùa thu, năm 1974, Huế là nơi tôi sinh trưởng học hành, ở tù và bị bắt lính. Những tháng năm cuối mùa chinh chiến, không một ngày đi đứng yên ổn, cuối cùng tôi phải “nương bóng từ bi”, Phạm Tấn Hầu là người mở đường đưa tôi vượt qua cơn bão từ hai phía để vào Nha Trang. Hẳn bạn bè Trung – Nam thời ấy, đậm đà nhất là giới văn nhân, thi sĩ chẳng ai mà không kính yêu anh Nguyễn Huy Hoàng, Mạnh thường Quân của Nha Trang một thời, anh đã mở “ Trung Tâm Bụi đời “ nằm giữa phố Độc Lập để đón những cơn gió lạc đường, lạc sá, đây cũng là nơi Phạm Tấn Hầu từng cọng tác với anh Huy Hoàng nhiều năm để dung dưỡng bao nhiêu kẻ đứng bên lề khắp nơi sa cơ lỡ vận.

     Hầu đưa tôi vào Nha Trang cư ngụ nơi ấy, sống cùng những đứa em bụi đời tâm tánh dễ thương.

 

                                                 - 5 -

 

     Đà Lạt ! Một sáng tạo kỳ diệu của thiên nhiên, con người khi lên xứ sương mù, cảm giác như bao nhiêu bụi trần đều rũ sạch, mọi lo âu, phiền não hình như thiên nhiên hóa giải hết. Hầu dẫn tôi dạo quanh Hồ Xuân Hương, những hàng thông xanh thẳm vút cao ôm lấy mặt hồ, sương chiều huyền hoặc như mơ như mộng, và lạ lùng, không khí chiến tranh hình như không hiện diện ở miền đất hoa ấy, con người Đà Lạt hiền hòa, chân thiện. Hầu dừng lại ở cái quán “ Hướng Đạo Sinh “ nằm dưới chân đồi Cù, cô chủ quán tười cười chào đón khách, Hầu gọi :

-        Cho chai bia Larue !

-        Còn thầy uống nước cam ạ ?

-        Không ! Cho thầy chai bia !

     Tôi còn nhớ, cô chủ đôi mắt tròn xoe, tự hỏi nhưng cũng phải phục vụ ông khách không giống ai.

     Trước khi Hầu đưa tôi lên tạm trú dài hạn ở nhà ông chú của Hầu bên Hồ Than Thở, thì trước đó Hầu đã dẫn tôi vào căn nhà gỗ ở khu Chi Lăng để gặp một người. Đây là nơi phòng trọ của Lê Văn Ngăn nằm cạnh ao rau muống. Đó là lần đầu tiên tôi gặp Ngăn, Hầu có đôi lời gởi gắm:

-        Nếu sau nầy có gì thì chia xẻ . . .

     Ngăn chân thành, vì quý mến bạn nên không đắn đo, liền trả lời :

-        Ừ !

Sau nầy khi Hầu về sài Gòn không quay lại nữa, đến hồi lúng túng mọi bề, tôi đã tìm đến căn phòng “ Im bóng” bên ao rau muống hỏi xin Ngăn gạo và tiền. Ngăn không ngừng ngại, đáp ứng ngay.

 

                                                     - 6 -

      “ Thơ, trước hết là phải cảm xúc thật, tự nhiên”, đó là quan niệm của Lê Văn Ngăn trong sáng tác khi chúng tôi trao đổi về những bài thơ “Tân Hình Thức” xuất hiện gần đây trên Tạp Chí Sông Hương, phải tự nhiên như hoa nở, chim hót, cái đẹp nằm ở trong ấy. Suốt một đời làm thơ, Lê Văn Ngăn đã để lại rất nhiều tác phẩm tự nhiên như đời sống, những gì đi qua trong đời ông để lại cảm xúc, và những lúc nhớ về ông đã bật ra tiếng lời để thành những bài thơ xúc động lòng người. Ví dù như bài :

 

                                   THƠ TẶNG CHỊ BA Ở PHAN RANG

 

       Phan Rang năm ấy, có lẽ chị Ba không còn nhớ nữa

       nhưng tôi, kẻ từng chịu ơn chị, tôi không thể nào quên quá khứ.

 

      Năm ấy, tôi đến từ phương xa

      không giấy tờ, không người quen, không nhà không cửa

      và tương lai tôi

     . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

      Có thể tôi đã rơi vào bước đường cùng

      nếu không tình cờ gặp chị

      Dưới rặng me già, bên chiếc xe những ổ bánh mì lặng im

      Chị ngồi trông khách đến

      Và chiều hôm ấy

      kẻ lỡ bước được chị mướn về nhà dạy kèm con cái chị học hành.

      . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

      Bây giờ chị còn sống không chị Ba

      bao nhiêu năm, dù chưa trở lại mái nhà xưa

      tôi vẫn nhìn thấy chị qua những người lao động bình thường

      . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

 

          Ai ở Đà lạt thời ấy mà không biết đến cà phê Tùng cũng như cà phê chị Sáu nằm ở bến xe, tôi đoan chắc trong sổ tay của chị còn rất nhiều người uống cà phê ghi sổ đến nay chưa trả, trong số ấy chắc chắn có bạn bè của Ngăn và tôi. Trong bài thơ “Lâu Năm, Nhưng Chưa Phải Là Vĩnh Viễn” , Ngăn đã cởi lòng với chị Sáu :

 

     Lâu năm, chưa trở về Đà Lạt

     đi qua mấy chặn đường mưa

     ghé vào quán cà phê chị Sáu.

    . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . .

    Tôi biết chị thường thức dậy lúc người chưa xuất hiện trên đường

    Người an ủi chị lúc cô đơn là ngôi sao mai trên nền trời sẫm

    ngọn lửa bập bùng trong bếp than hồng

    tiếng rơi đều trong tách cà phê đợi chờ khách đến

   . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

    Lâu năm, chưa trở về Đà Lạt

    Lâu năm, nhưng chưa phải là vĩnh viễn

    khoản nợ nần một thủa cơ hàn

    tôi vẫn hẹn lòng có ngày hoàn trả

    ngoài chút tiền trong cuốn sổ ghi

    tôi còn nợ chị vài ánh mắt dịu dàng vài buổi nắng vàng bên khung cửa sổ

    Mấy mươi năm trước lúc cuộc đời chưa yên ổn

    những điều ngỡ như bình thường ấy đã giúp tôi sống sót đến bây giờ.

 

   

 

     Có phải không chị Sáu

     lâu năm, nhưng chẳng phải là vĩnh viễn.

 

    Nếu cuộc đời đôi khi có sự mầu nhiệm đến từ trời cao, tôi ước sao sự mầu nhiệm ấy được đến cùng căn bệnh của Lê Văn Ngăn, để anh em bạn bè ở Huế cũng như khắp nơi còn có dịp ngồi uống với ông thêm một ly cà phê nữa hoặc một ly bia trước khi hoàng hôn tắt nắng.

 

     Sài Gòn 1/11/2014

 

                                                                             

                                                                                                                                               

Vương Kiều
Số lần đọc: 3478
Ngày đăng: 03.11.2014
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Hồi ấy & Bây giờ. - Mặc Phương Tử
Lưỡng vọng * - Huỳnh Minh Tâm
Người lạ từng quen - Vĩnh Thông
Hà Nội ơi… *) - Đỗ Quyên
Đỗ Hữu - Lơ lửng một dòng thơ - Nguyễn Khôi
Các bạn, Nguyễn Hòa VCV, Tôi và Vanchuongviet.org - Phan Trang Hy
Về Những Đứa Trẻ Bị Thiêu Sống Để Cúng Cô Hồn Biển Cả - Phạm Nga
Cà phê quán cũ - Vũ Dy
Trong vòng tay của Ngã - Lê Khắc Thanh Hoài
Tản mạn về Thời gian - Lê Khắc Thanh Hoài
Cùng một tác giả
Sơn ca (thơ)
Cô gái Huế (tạp văn)
Hàn ny (thơ)