Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.180
123.221.866
 
Nguyễn Trung Hiếu - Hãy xanh cho thấy hết lòng nông sâu!
Mai Bá Ấn

 

 

            Nhập ngũ năm 1950, tập kết ra Bắc 1954 và dự Hội nghị Các nhà văn trẻ miền Bắc lần thứ nhất cùng với những Anh Đức, Lê Anh Xuân, Trúc Thông… từ năm 1959, đến nay Nguyễn Trung Hiếu đã trên tuổi 80 vẫn chung thủy cùng thơ bên cạnh những tập truyện - ký chứa chan hơi thở đời sống. Sức sống bền vững của thơ anh theo thời gian chính là ý thức tự vượt lên mình trong hình thức thể hiện, còn con người và thơ Nguyễn Trung Hiếu từ trước đến nay thì vẫn thế: Lặng lẽ xanh một màu xanh hồn hậu.            

             

                  Nhà thơ Nguyễn Trung Hiếu

               (Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam)

 

Thơ anh giai đoạn đầu là tiếng lòng xanh tươi của một chặng đời trai trẻ chiến đấu say mê, lãng mạn: Ô, đẹp quá! Quanh mình ta gió vờn, mây quyện/ Xe ta đi xua dậy sóng trăng vàng… nhìn đâu cũng rực rỡ sắc màu: vàng óng lúa, đỏ bụi Trường Sơn: Xe ta băng qua những cánh đồng vàng óng/ Mặc bom rơi, đạn xối đỏ đường/ Nghìn núi, nghìn sông không cản được/ Thác người đi giải phóng quê hương (Đường về-1966). Đúng là tiếng thơ mang hào khí chung của cả một thế hệ thơ đánh Mỹ. Nhưng càng dấn thân vào chiến trận, Nguyễn Trung Hiếu đủ để trưởng thành và tạo cho thơ mình một dáng nét riêng bằng những câu thơ đẫm mồ hôi hiện thực, nước mắt gian lao và cả xương máu hi sinh giật giành sự sống: Mỗi túp lều còn đây/ Trải bao cơ cực/ Phải giành từng tấm tranh, nuột lạt/ Bằng mồ hôi/ Cả máu xương của trăm người! (Tiếng gà xóm Bãi-1972). Về cuối cuộc chiến tranh, thơ Nguyễn Trung Hiếu chín dần, màu xanh đã thêm một chút “đậm đà”, lắng lại như “nước chè xanh”: Những bát nước chè xanh trao nhau rất vội/ Đậm đà sao tình nghĩa quân dân … Và trong khí thế bừng bừng của ngày giải phóng quê hương, thơ anh vẫn không quá “lắm lời” mà lắng lại “trầm ngâm suy nghĩ” cùng những hi sinh, mất mát đã qua: Thiên Bút Phê Vân/ Có phải bởi biết hi sinh nên chẳng nói nhiều lời/ Người đứng đó trầm ngâm suy nghĩ…?/ Nghe sóng dậy Long Đầu Hí Thủy/ Mà lòng máu rướm Mỹ Lai! (Chúng con luôn làm vui lòng Bác-29.3.1975).

 

Về với trời xanh thời bình, thơ Nguyễn Trung Hiếu càng “thấm đậm”, “ngát xanh” hơn: Từ đâu/ thơ và em thấm đậm?/ Từ đâu/ Hương sứ thơm/ Xanh ngát/ trăng?(Từ đâu). Dù cuộc sống có muôn vàn khó khăn, cuộc nhân thế có bao điều cay đắng, đời riêng đã nghiêng về phía “lá vàng rơi” của tuổi già, thơ Nguyễn Trung Hiếu vẫn xanh mãi với thời gian một “màu xanh không đổi”: Một chiếc lá vàng rơi/ Màu xanh dường không đổi/ Đôi khi ta vô tình/ Để một ngày ở lại. Nếu thử làm phép thống kê, ta sẽ thấy thơ anh ngập tràn màu xanh. Nào là “rừng xanh rộn tiếng ve”, “rừng xanh im, khát nắng”, “Màu xanh trải kín làng”, “những vòm tre xanh mát”, “làng quê xanh ngát”,… rồi “Bóng xanh che suốt dọc đường làng”, “Nước trong xanh, ôi nước sông Trà”, “Cây vú sữa miền Nam… xanh mát rượi”, “hàng me rủ bóng xanh mơn”, “Mây in sắc lúa chân trời dâu xanh”… Và, tôi tin, cho mãi đến muôn sau, hồn thơ Nguyễn Trung Hiếu vẫn mải mê “xanh suốt cùng thời gian”: Câu thơ nào đẹp vậy/ Xanh suốt cùng thời gian/ Em trong anh một nửa/ Như vầng trăng trong ngần (Màu xanh thời gian).  Xanh để nhìn thấy rõ những trắng đen, dâu bể cuộc đời - “Hãy xanh cho thấy hết lòng nông sâu!”: Đâu rồi, hỡi những giòng sông/ Hãy xanh cho thấy hết lòng nông sâu! (Một sáng tháng ba).

Tạp chí Sông Trà xin giới thiệu Trang thơ Nguyễn Trung Hiếu cùng bạn đọc.

 

Đường về

Một ngôi sao rực sáng giữa phương Nam

Xe ta băng băng ra tiền tuyến

Ô, đẹp quá! Quanh mình ta gió vờn, mây quyện

Xe ta đi xua dậy sóng trăng vàng…

 

Ta lại về quê mẹ miền Nam

Miền Bắc trọn đời ta thương nhớ

Ôi đất nước nghìn năm một thuở

Nghìn năm sau còn mãi phút huy hoàng.

 

Xe ta băng qua những cánh đồng vàng óng

Mặc bom rơi, đạn xối đỏ đường

Nghìn núi, nghìn sông không cản được

Thác người đi giải phóng quê hương.

 

Giữa trời đêm sao xa chấp chới

Soi sáng đường, sao gọi ta đi

Mùa chiến thắng sao trời chín ngát

Những vì sao trải suốt đường về (20.3.1966).

 

Bữa cơm Trường Sơn

            Cơm vắt độn củ mì

Đặt trên một phiến đá

Ít lương khô muối mè

Nửa hăng gô rau má

 

Tựa lưng vào thành đá

Hai chân duỗi thẳng dài

Rừng xanh im, khát nắng

Pháo bom gầm lá bay… (5.1968)

 

Từ đâu

Viết được câu thơ

Cần sức một đời

 

Đêm nay

Dưới hàng sứ ngọc

Ngát trăng xanh

Hôn em

Đôi môi ấm mặn

 

Từ đâu

thơ và em thấm đậm?

 

Từ đâu

Hương sứ thơm

Xanh ngát

trăng?

 

Màu xanh thời gian

Một chiếc lá vàng rơi

Màu xanh dường không đổi

Đôi khi ta vô tình

Để một ngày ở lại

 

Trong cơn đau nghiệt ngã

Càng hiểu hơn lòng em

Người nối dài nhịp sống

Ngày thường ta dễ quên

 

Câu thơ nào đẹp vậy

Xanh suốt cùng thời gian

Em trong anh một nửa

Như vầng trăng trong ngần

 

Lòng không sao nói hết

Nỗi khát khao mùa xuân.

 

-------------------------------------

Mai Bá Ấn
Số lần đọc: 3497
Ngày đăng: 07.11.2014
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Mùa thu nhớ thi sĩ Bích Khê (1916 -1946) - Đinh Cường
Vài điều nên biết về một người bạn Pháp G.Dumoutier (1850 - 1904) Cựu giám đốc Nha học chính ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ - Vũ Anh Tuấn
Bửu Chỉ "Con người và cuộc đời trong tranh vẽ" - Võ Công Liêm
Nguyên Minh "Một cuộc đời với văn chương" - Trương Văn Dân
Nguyễn Lương Vỵ Thi nhân bất tuyệt hòa âm - Tâm Nhiên
Nhật Chiêu "Đứa con hoang" của văn chương Nam Bộ - Trần Hoài Anh
Triết gia giả cầy đi chưa hết đêm hoang liêu trên mặt đất - Vũ Ngọc Anh
Vũ Xuân Hồng: “Suốt đời ta vẫn là ta…” - Phạm Học
Anais Nin* Nhà văn của Sắc Dục - Võ Công Liêm
Nguyễn Việt Nam, Tấm lòng một cõi đi - về - Ngô Nguyên Nghiễm
Cùng một tác giả
Hoa mai chùa cổ (truyện ngắn)