Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.139
123.227.709
 
Tôn Phong* - ngọn nến tự cháy
Từ Sâm

 

Từ Sâm – Minh Phương

 

            Với Tôn Phong, sự hào hoa của lí trí  bằng ngôn ngữ thơ như  xương rồng trổ hoa trên cát. Nụ hoa mọc lên từ cánh tay của cây, qua sự gạn lọc khắc nghiệt của thời tiết vẫn khiêm nhường màu thanh thiên làm mát dịu  mắt người khi bàn chân dẫm vào cái nóng của sa mạc. Vận đời đã nhuốm vào thơ ông như màu mực nhức nhối trên từng trang viết, như giải tỏa ký ức, như vò nát hiện thực  ném vào sự lý giải  đầy  mâu thuẫn  giữa cái tên Tôn Thất Phong qúi phái và nhà thơ Tôn Phong có một gia tài chỉ là thơ và gió.

 

            Chữ tài liền với chữ tai một vần của Nguyễn Du sau hai trăm năm vẫn là hôm trước, hôm qua và  hôm nay đeo bám nhà thơ  như  số mệnh.  Chữ tài thơ ca như điềm báo về ông những tai ương trong cuộc sống:

 

Hãy đốt lên

 hắt ngược bóng tôi về qúa khứ

 bao hệ lụy ở đời tôi đã dấn thân

( Sinh nhật tuổi 80) 

 

            Ông không viết,  từng con chữ được rút ra từ gan ruột trong  đau đớn:

 

Tôi từ

 khóc bóng nhá nhem

 câu thơ rút ruột râm rền thịt  da

(Hắt bóng)

 

            Ông sống vì tình yêu hay vì tình yêu mà sống thì chỉ ông mới lý giải được:

 

Nếu tôi

 tan được vào em

chỉ xin còn chút hương đêm giữa trời

 (Kinh nguyện cầu).

 

            Và triết lí sống tưởng như đơn giản  giữa  thực và  mộng, giữa hình và bóng, giữa đen và trắng, đâu phải ai cũng nép mình vào thế giới ảo ảnh, chọn cái phù du để răn mình:

 

 Nếu tôi

tan được vào tôi

xin làm chiếc bóng bên đời liêu xiêu

 (Kinh nguyện cầu).

 

             Thơ ông như ánh đèn leo lét giữa đêm hoang vắng,  khách  qua đường  ghé vào quán nhỏ dừng chân. Như tiếng rao đêm  thời dĩ vãng của phận người phiêu bạt.Như tiếng hồ cầm tự hát cho mình những lời thương về quá khứ. Cái món nợ suốt đời không trả được là nợ con chữ, nợ thơ, nợ giấc mơ lỡ làng chênh vênh đêm vắng mà nguồn cội sâu xa từ ngọn lửa đa mang của trái tim rung cảm:

 

Đã từng bên đống tro tàn

 thầm thương ngọn lửa đa mang nhiệt tình

 đã từng mắc nợ chênh vênh

 chắt chiu con chữ đáp đền chiêm bao

 

            Khi  khóc những hạt mưa, tôi không thấy hạt mưa từ trời mà hạt  mưa từ  khoé mắt  ông như hạt sương ứa ra từ đá và tan chảy vào hư không:

 

 Những hạt mưa

 chưa kịp về huyệt mộ

 tan loãng giữa trời

 đón nhận hư không

(Khóc những hạt mưa).  

 

            Nếu Bùi Giáng bay lên trời từ đôi cánh của cơn say nên những câu thơ của ông thoát khỏi trần thế. Và Hữu Loan, sau Màu tím hoa sim phận hoa như phận người gắn kết với đồi hoang trên chiếc xe thồ đá thì Tôn Phong, những năm 90 của thế kỷ trước, 10 năm có lẻ bán nước chè ở ga Nha trang.

            Vận đời đã đưa ông vào chốn nghiệt ngã không có điểm dừng chân.  Lữ khách mệt mỏi trước lúc về tổ ấm được uống chén trà bốc khói, có ai  biết  rằng họ đã uống trà của một nhà thơ:

 

 Đôi tay mài năm tháng

 tấm hình hài nhạt tênh

 trong khung trời chạng vạng

 nghe rót đầy tiếng đêm

(Bóng mưa)

 

             Với ông, không phải rót trà vào ly nóng mà rót tiếng đêm, tiếng của thời gian khuya vắng, tiếng của con tàu đời vật vã mà ga chỉ là nơi tạm nghỉ chân.

 

            Quê ở Huế, tham gia chống Pháp và sau giải phóng chọn Nha Trang để dừng lại sau chuyến đi dài. 50 năm làm thơ, như một đời tự làm con nợ, thơ như một thứ a xít  cháy bỏng hình hài và như  thời gian tàn ác dội lên đầu màu  mây khói.

 

            Mới quen ông, lần đầu tôi mời ông ăn sáng, một tô phở bình dân giữa xóm nghèo ngoại ô ngập lụt. Ông chậm rãi nhấm nháp từng miếng đến nỗi tôi phải cất lời “phở dở lắm phải không anh”, “lâu lắm rồi anh mới được ăn phở, phở đối với anh là một sự xa xỉ”. Tôi tự  trách mình, đọc thơ người mà chưa hiểu hết về người  coi như mới đọc nửa chừng.

 

            Năm tháng hao dần theo dấu mùa đông treo trên gió bấc. Tuổi 80 như bài thơ chạm đến dòng cuối, như giao cảm giữa trần thế và cõi âm. Ông  đón nhận qui luật muôn đời của sự vật. Cái gì của đất sẽ về với đất và chờ đợi  khép lại vở tuồng đời khi trút bỏ xiêm y:

 

 Xỏa tóc thơ tôi

 trút bỏ xiêm y lóng lánh

 âm dương day trở cuộc sinh thành

....

 chạm mặt đất

 vàng ươm mật ứa

(Giao cảm).

 

            Tôi lắng nghe hoài niệm, nhìn ngắm dĩ vãng của bóng người, bóng thơ, bóng của vầng sáng  ngọn nến Tôn Phong  tự cháy  đến  cạn đáy. Ngọn nến dù nhỏ nhoi cũng đủ sưởi ấm bàn tay nếu ta biết chụm lại chở che.

 

Nha trang đông 2011 

 

           

*Nhà thơ Tôn phong

Tác phẩm đã XB:

-Tiếng hát đồng quê –NXB Thanh hoá -1960

-Mộng du –Hội VHNT Khánh Hòa -1992

-Cổ tích buồn –NXB Thanh niên - 2004

-Người đãng trí- NXB Thuận  hóa- 2009       

Từ Sâm
Số lần đọc: 2694
Ngày đăng: 14.05.2015
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Phạm Phú Hải 'Thi sĩ dị thường' - Tâm Nhiên
Paul Eluard ”Nhà thơ khát vọng” - Võ Công Liêm
Nguyễn Trung Hiếu - Hãy xanh cho thấy hết lòng nông sâu! - Mai Bá Ấn
Mùa thu nhớ thi sĩ Bích Khê (1916 -1946) - Đinh Cường
Vài điều nên biết về một người bạn Pháp G.Dumoutier (1850 - 1904) Cựu giám đốc Nha học chính ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ - Vũ Anh Tuấn
Bửu Chỉ "Con người và cuộc đời trong tranh vẽ" - Võ Công Liêm
Nguyên Minh "Một cuộc đời với văn chương" - Trương Văn Dân
Nguyễn Lương Vỵ Thi nhân bất tuyệt hòa âm - Tâm Nhiên
Nhật Chiêu "Đứa con hoang" của văn chương Nam Bộ - Trần Hoài Anh
Triết gia giả cầy đi chưa hết đêm hoang liêu trên mặt đất - Vũ Ngọc Anh
Cùng một tác giả
Luyến (thơ)
Làng (thơ)
Khuyết (thơ)
Ảo (thơ)
Nợ em (thơ)
Tôi (thơ)
Sắn (thơ)
Ghép (thơ)
Chị (thơ)
(thơ)
Thằng Tít-rằn (truyện ngắn)
Gánh (thơ)
Nụ hôn trầm tích (truyện ngắn)
Cổ phần đêm 30 (truyện ngắn)
Gửi trái tim (tiểu luận)
Văn nghệ khai Xuân (điểm sách)
Mùi của bếp (tạp văn)
Mùi của bếp (phê bình)