Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.180
123.220.791
 
Đi vào cõi thơ
Võ Công Liêm

 

 

 

 

 

    Bước vào vũ trụ thi ca là : ‘Đi vào cõi thơ theo lối ngẫu nhiên tao ngộ. Cơ duyên sẽ dun dủi, chẳng nên gò ép cưỡng cầu…những bài thơ đến rồi đi. Lời ‘nhận định’ cũng đi rồi đến.’(Tựa; Đi Vào Cõi Thơ của Bùi Giáng. Sàigòn 1969.) Nay chúng ta trở về với thơ để tìm cốt cách nhà thơ một cách đàng hoàng trong sáng mà bấy lâu nay đã hững hờ, thơ ơ lạc đường tình.Thi ca là ‘thiêng liêng’ của tâm hồn phải thấu suốt cái chân thiện mỹ của nó mới gọi là thơ, còn như ngâm nga qua loa thời vụ thì  lạc lối mê hồn trận, đưa thơ vào cõi phù sa đắp đổi tạm bợ rồi vòng vo tam quốc: nào thế này, thế nọ, nào phải khóc, phải cười những thứ đó là ta bà thế giới, tạp-phí-lù không còn thi vị. Xin đừng đùa với thơ văn mà ngẫm để có cái tồn lưu nhân thế; nên truy điệu bằng lời thơ chân tình thì may ra mát ruột người dưới suối. Chớ đừng a-dzua, kể công, kể trạng làm chi vì tất cả là Nothingness/ Néant, là hư ảo. Răng rứa? Đem thơ ra mà ‘vọc’ không ngã ngũ vấn đề, bởi; thi ca là vô-nhiễm-thể ở cõi riêng; nó có một cái bất khả tư nghị trong đó. Rứa thì làm răng đây: xưa vịnh thơ, ngâm thơ  để hòa nhập vào hồn như một thứ nghệ thuật tinh truyền, chắc lọc như nghệ thuật uống trà vậy. Một thứ thâm cung bí sử mà cứ hỏi cho ra lẽ thì đâu còn là thơ. Thơ ngày nay đã là khó với muôn hình vạn trạng huống hồ đọc thơ dịch. Dịch là hút tủy là mút. Mút cái tinh tủy sáng láng trong thơ. Hút được tủy thơ là cảm hóa thơ. Đấy là chất lượng thâm hậu. Ai làm thơ hay dịch thơ đều được cả. Nhưng nhớ cho thi ca tư tưởng là tư tưởng thi ca. Còn đòi cho được cái này, cái nọ là đứng ngoài vòng cương tỏa của thơ là hàm hồ, hàm chứa, ồn ào, ruồi muỗi ưa cho rộn đám với văn nhân. Cái đó là lạc hậu của thơ. Rứa thì dịch thơ có lạc hậu thơ? -Dịch là hút là mút là liếm chất thơ…Rứa thôi!

Giữa hai ngôn ngữ thơ Âu Á có một cái gì hở hang ‘cột nhổ đi rồi lỗ bỏ không’ (Hồ Xuân Hương) nửa thực nửa hư kể cả tân thi hay cổ thi đều lấy dịch để lấp ráp vào khoảng trống tâm hồn. Nhiệm vụ người dịch là mở, tuột để lộ thần chất thơ; làm răng cho thơ sướng là được ý thơ. Dịch là hòa ngập với thơ, thoát khỏi sự kiềm tỏa giữa người làm thơ và người dịch thơ; mà để đả thông. Chớ phải tự hào mà vung tay múa ngón đường đột thâm lạm ngôn từ. Cốt tạo cho thơ có một hân hoan của thơ.

Nhân cơ hội này dịch bài thơ Tây phương của nhà thơ nước Mỹ để tìm thấy cái tinh tủy của nó chứa cái chất gì trong con người phụ nữ như Thúy Kiều của ta. Trong hợp tuyển thi ca Âu Mỹ  xưa nay có một thi nhân mang tên William Carlos Williams (1883-1963) là một y sĩ (medical doctor) mà còn là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng. Sanh quán và lớn lên ở Rutherford, New Jersey. Ông lạc vào mê cung thi ca Mỹ châu và viết đủ thứ văn chương nhưng lại thích đùa với thơ ca; kết thân một số thi nhân như Ezra Pound. Williams nhào vào trường phái ảo tưởng, một trào lưu tư tưởng thi ca tập trung cao độ vào thơ tự do, thơ không vần. Đặc biệt thể thơ tự do với hình ảnh vi diệu (vivid images). Cho dù thuở ban đầu thi sĩ đã ôm đầm bởi những nhà thơ đương đại và một số thi nhân sau thế chiến hai. Bước vào thơ Williams như kẻ quẩn, đôi khi giả vờ nửa điên, nửa khùng là một ngấm ngầm phát tiết để đi vào đốn ngộ. Một sự đốn ngộ giữa thơ và con người. Đọc và ngẫm bài thơ của chàng thi sĩ đa tình, bỏ việc lớn để đi vào vũ trụ thi ca đầy màu sắc. Phỏng dịch bài thơ này của nhà họ Williams:

 

   Chân Dung của Mệnh Phụ

 

Đôi vế em là thân cây táo uốn mình

hoa táo nở ngát hương trời

Trời xanh? Xanh tận chân trời

ở đây họa sĩ đã vẽ đôi dép treo lơ lửng

của mệnh phụ . Em sụp lạy cúi đầu

là gió thoảng miền quê xa lắm - hoặc nơi đây là cơn gió hú

lạnh đôi chân mềm yêu dấu . lạ thay! có cái thứ gì nơi người nghệ sĩ

- đấy là điều em muốn hỏi tới . Ôi ; dưới lời năn nỉ ấy

là cung điệu nhả xuống , ta đưa em vào hạ trắng mùa hè

cỏ may vướng cả chân em

vỗ về vào bờ cát trắng

Bờ nào hởi em?

là cát dính bờ môi tôi đó

Bờ nào hởi em?

ngạc nhiên quá hay cánh hoa trước gió . Làm sao tôi hiểu được?

Bờ nào hởi em? Bờ nào?

Tôi chỉ nói một lời cánh hoa từ cây táo rụng xuống.

(1915)

 

   Portrait of a Lady

 

Your thighs are appletrees

whose blossoms touch the sky

Which sky? The sky

Where Watteau 1 hung a lady’s

Slipper . your knees

Are a southern breeze – or

A gust of snow. Agh! what

Sort of man was Fragonard? 2

 – as if that answered

anything . Ah, yes – below

the knees . since the tune

drops that way , it is

one of those white summer days

the tall grass of your ankles

flickers upon the shore –

Which shore? –

The sand clings to my lips –

Which shore?

Agh . petals maybe . How

Should I know?

Which shore? Which shore?

I said petals from an appletree.

(1915)

1. Họa sĩ Pháp Jean-Antoine Watteau (1684-1721).

2. Họa sĩ Pháp Jean-Honoré Fragonard (1732-1806).

Cả hai họa nhân chuyên vẽ cảnh tình yêu khỏa thân.

 

Nhà thơ Williams này muốn hoà âm điền dã như André Gide hay muốn xâm nhập vào cõi người ta của Saint-Exupéry hay đã thấm nhuần mùa xuân hương sắc của Gérard de Nerval mà phát tiết một bài thơ khác lạ, đượm chất thiên nhiên rất chi lạ lùng, tân kỳ ngắn gọn nhưng sâu sắc. Không cần văn hoa chữ nghĩa thêm chật đường, chật sá phá đi cảnh giới đang duy trì cái thẩm mỹ của ngôn từ. Muốn thực hiện rốt ráo giòng thi ca tư tưởng là phải phiêu bồng tư duy với William Carlos Williams thời mới thấu triệt chất thơ. Người dịch không còn phép tắc nào hơn để làm nên một bài thơ mà có hồn nhà thơ trong đó. Khó đạt được! Rứa thì làm răng bi chừ? Đã nói: dịch là hút tủy, là chấm mút, là liếm láp chất thơ như tinh thể lỏng thì may ra hoà nhập vào hồn thơ bằng không dịch là phá, là dzỗm không còn gọi là dịch thơ. Phá nhưng không phản; ở đây có hai nghĩa chớ đừng vơ đũa cả nắm mà lộn xộn, lạm dụng ngôn từ không chừng người ta cho là khoe khoang (vain) làm mất giá trị của sự thật về dịch. Đọc lại mấy chữ-thơ bát ngát của Williams xem người vẽ cái gì trong đó:

 

    Xe Đẩy Màu Đỏ

 

liệu mà chất

vô đó

 

bánh xe đỏ

cút kít

 

lóng lánh rơi

dưới mưa

 

bên màu trắng

bầy gà.

(1923)

 

   The Red Wheelbarrow

 

so much depends

upon

 

a red wheel

barrow

 

glazed with rain

water

 

beside the white

chickens.

(1923)

Nghe như có hơi Thiền. Rứa thì đâu cần chiếc áo cà sa mới có thiền thơ? Mọi biến cố xẩy ra trong con người qua mỗi chữ là một ngữ ngôn để đời; ‘thông minh vốn sẳn tại trời’. Rứa dịch thơ có tác động chi không? Có chơ! nếu không thì thè cái lưỡi ra làm chi. Là nếm chút hương thừa của thơ chơi vui thôi. Chớ làm sao mà chịu cho thấu với biển chữ mênh mông thiên điạ giới giữa cõi ta bà này ./.

 

 (ca.ab.yyc. 25/11/2015)

 

 Thơ dẫn từ: ‘The Harbrace Anthology of Poetry’ by Jon C. Stott / Raymond E. Jones & Rick Bowers. Harcourt Brace Canada 1998.

 

TRANH VẼ: ‘Người Đàn Ông Ngồi  / Seated Man’ Khổ 12” X 16”.Trên giấy cứng. Acrylics+House-paint. vcl#25112015.

 

                                                                    

 

 

 

 

 

 

  

Võ Công Liêm
Số lần đọc: 2592
Ngày đăng: 30.11.2015
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Nguyễn Du như tôi nghĩ... - Yến Nhi
Về sự phê phán chủ nghĩa kỳ thị dân tộc trong "Bắc Hành Tạp Lục" của Đại Thi Hào Nguyễn Du - Phạm Quang Ái
Thi nhân văn nhân họa nhân là con người sáng tạo - Võ Công Liêm
Phùng Nguyễn, chiếc lá thu bay… - Trương Văn Dân
Lại bàn chuyện thi cử - nên gộp hay tách ? - Phan Văn Thạnh
Không ai có thể tránh khỏi sai lầm "Những sai lầm của Hai Học Giả: Hoàng Xuân Hãn và Nguyễn Khắc Thuần" - Thái Quốc Mưu
Là thế và không là thế - Võ Công Liêm
Đạo văn hay không ? - Yến Nhi
Nhìn từ Festival Múa rối quốc tế lần thứ IV năm 2015 - Tuấn Giang
Đọc Thác Đố Sau Nhà và Nguyên-Vẹn của Võ-Phiến - Nguyễn Quỳnh USA
Cùng một tác giả
Lệ (thơ)
Đĩ về hưu (truyện ngắn)
Không dám mô (truyện ngắn)
Người Khách Lạ (truyện ngắn)
Đêm Màu Hồng (truyện ngắn)
Jazz (thơ)
N Ụ (truyện ngắn)
Thi sĩ và thiếu nữ (truyện ngắn)
Ka ra ô kê (truyện ngắn)
Người treo cổ (truyện ngắn)
Chút tình còn lại (truyện ngắn)
Thể tính thiền (tiểu luận)
Cụm hoa cúc sao (truyện ngắn)
Lời ru (thơ)
Thể tính thiền (tiểu luận)
Đi chơi xa (truyện ngắn)
MA-YÔ-CA* (truyện ngắn)
Hy Lạp (tiểu luận)
Phương thức (tiểu luận)
Đất lạ người quen (truyện ngắn)
Vào với thơ (tiểu luận)
Một chuyến đi Tây (truyện ngắn)
Cho Tôi (thơ)
Hư vô phản kháng (tiểu luận)
Đi tìm thú vui (tiểu luận)
Nẻo về của Ý (tiểu luận)
Đi vào cõi thơ (tiểu luận)
Thi ca đương đại (tiểu luận)
Vi diệu pháp kinh (tiểu luận)
Thiền Nhật Bản (tiểu luận)
Đam mê (thơ)
Sa mạc (thơ)
Cho tôi (thơ)
Dòng sông đêm (truyện ngắn)
Chơi chữ (tiểu luận)
Bạn văn và tôi (truyện ngắn)
Đạo phật (văn hóa)
Ngày cuối của Yên (truyện ngắn)
Định niệm (nghệ thuật)
Cuồng si (truyện ngắn)
Ung thư thiền (tiểu luận)
Chân dung tự họa (nghệ thuật)
Truyện rất ngắn (truyện ngắn)
Ý thức vũ trụ (nghệ thuật)
Người khách lạ (truyện ngắn)
Thân tâm nhà Phật (tiểu luận)
Chuyện lan man (truyện ngắn)
Socrates (tiểu luận)
Sư ông (truyện ngắn)
Điêu khắc Mỹ (tiểu luận)
Tình câm (truyện ngắn)
Du Tử Lê và Tôi (tiểu luận)
Văn chương là gì (tiểu luận)
Đại dịch (tiểu luận)
Kẻ ăn mày (truyện ngắn)
Tư tưởng (tiểu luận)
Mẹ ơi (thơ)
Phân tâm học (tiểu luận)
Thanh cao là gì? (nghệ thuật)
Làm thơ (tiểu luận)
Vẽ đàn bà (hội họa)
Làm văn (tiểu luận)
Tu thiền (tiểu luận)
Nội trú (truyện ngắn)
Cảm thức (tiểu luận)
Phật pháp là gì? (tiểu luận)
Sát na (thơ)
Holy cow (thơ)
Xem tranh (tiểu luận)
Chung một cuộc tình (truyện ngắn)
Chay mặn (truyện ngắn)