Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.188
123.217.752
 
Thơ là cái đẹp đi lầm lũi trong im lặng Hay : 100 năm với nhà thơ của Bến My Lăng
Lâm Bích Thủy

 

 

  Khi còn tại thế, nhà thơ có lần tâm tình: “là thi sĩ, cái chết về thể xác không đáng sợ, chỉ sợ mình mất đi trong lòng mọi người.” Cuộc đời của mỗi con người may, rủi đều do số phận; nó giống như những đóa hoa trên cùng một cội; song không phải hoa nào cũng hứng được sương và ánh sáng như nhau.  Đời Yến Lan từ khi lọt lòng mẹ đến khi từ giả cõi đời đã gặp quá nhiều rủi ro thua thiệt.                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                   

                        Quê ngoại bên kia bãi cát vàng

                        Mẹ tôi về lỡ chuyến đò ngang

                        Cơn đau trở dạ không giường chiếu

                        Tôi lọt lòng ra giữa bãi trăng

Ông là con út trong 6 anh chị em. Cuộc sống gia đình chỉ dựa vào bàn tay giỏi giang của mẹ. Lên 6 tuổi thì mẹ mất, các anh chị đi làm xa; cha xin làm thủ từ trong ngôi đền thờ Quan Thánh (tức chùa Ông trước đây). Cuộc sống của hai cha con chỉ dựa vào cây thị.

 Ôi thị, thay phần mẹ dưỡng nuôi;
Nhành khô thường sưởi tuổi mồ côi,
Quả, ra chợ đổi lành thân áo,
Bóng phủ rèm trưa, lá: chiếu ngồi.

 Ít lâu sau cha lấy vợ hai, nhà càng túng bấn. Gánh nặng trên đôi vai gầy, bé nhỏ của Yến Lan dường như trĩu xuống mà tiền bán thị chả thấm vào đâu nữa:

     “Giá một quả cam bằng mẹt thị

Trồng chi bóng mát hỡi cha xưa.

Và tuổi thơ Yến lan trải dài theo năm tháng trong ngôi chùa Ông như một định mệnh: 

Tuổi thơ một đời cây thị 

Chiều lung linh theo tiếng chuông chùa

Một lòng giếng nửa làng đến múc 

Không thấy mặt mình chỉ nước nhấp nhô

Mẹ chết sớm, chị đi phu 

Quần áo rách túm bằng giây chuối

Cơ rô bích chuồn nằm đêm cha nuối 

Muốn nuôi con cha lại bám đời con

Trong những đêm dài canh bạc tưởng trống trơn 

Láng giềng giàu cấm làm bạn lứa

 Nhiều hôm no tuổi, no hờn 

Ở đây đọng một nỗi buồn lưu ly

Biết đi đâu? Biết mong gì?

Tuổi thơ ơi ! tuổi thơ 

Ta có em hay không có bao giờ...                 

   

   Song cũng từ môi trường ấy đã tạo nên trong Yến Lan một thi sĩ đầy bản lĩnh và một nhân cách lớn bằng cả đức, tài và tầm. Ông cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan viên, Quách Tấn lập nhóm thơ “Tứ Hữu Bàn Thành”. Cả bốn người, mỗi người mỗi vẻ, bằng văn chương của mình làm rạng danh cho mảnh đất Bình Định thành câu danh ngôn vang mãi đến ngàn năm “Đất võ trời văn”. Và khi nhắc cái  “Bến My Lăng” của Bình Định người ta nghĩ ngay đến Yến Lan.

 

 Với bạn bè, đồng nghiệp là tình cảm yêu thương, chan hòa. Chính Yến Lan  đã đưa Chế Lan Viên  đến với thế giới thơ. Những kí gạo giúp đỡ Quang Dũng trong thời kỳ tem phiếu khó khăn, vất vả chẳng khác nào một miếng khi đói. Là người duy nhất sẵn sang đối diện với những con mắt soi xét thời bấy giờ để đưa Phan Khôi về nơi an nghĩ cuối cùng vì “nghĩa tử là nghĩa tận”.     

  

 Biết bao nhiêu suối tình và xuân trong thơ Yến Lan đã âm thầm chảy không ngừng nghĩ, bền bỉ, dạt dào cho tình yêu quê hương và mùa xuân của nhân loại trong thơ ông. Sức sáng tạo của Yến lan, trải rộng ở nhiều thể loại: Thơ, Kịch thơ, truyện ngắn, truyện thơ…và trải dài từ trước 1945 đến khi nhà thơ qua đời 1998. Điều đó được nhà thơ Nguyễn Hữu Thỉnh-Chủ tịch Hội Nhà Văn Việt Nam khẳng định mấy dòng sau đây:

  “Tài năng của Yến Lan sớm nảy nở và sớm được khẳng định. Truyện ngắn đầu tay của Yến Lan bút danh là Xuân Khai được thưởng giải cao của báo Thanh Nghệ Tỉnh khi Yến Lan chưa đầy hai mươi tuổi. Truyện ngắn của ông liên tục được giới thiệu trên các tờ Tiểu thuyết thứ Bảy, Tiểu thuyết thứ Năm và nhiều tờ báo khác. Yến Lan viết cải lương, viết kịch và thành lập đội kịch mang tên ông. Đoàn kịch Yến Lan với vở “Bóng giai nhân” đã từng lưu diễn ở Huế, Hà Nội. Thanh Hóa…

    Báo Ph ú Yến cũng có đăng

   “ Ngay trong những ngày tháng 8/1945, Yến Lan là người sớm nhất trong lứa bạn cùng thời làm thơ phục vụ cách mạng tại địa phương. Ông đã viết Bình Định 1945Bình Định 1947 cùng nhiều ca dao, hò vè cổ động nhân dân đứng lên chống ngoại xâm. Trong khoảng thời gian tham gia kháng chiến, ông cùng với khoảng 16 nhà thơ khác tham gia soạn Cương lĩnh mặt trận Tổ quốc diễn ca để truyền bá trong nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn tác phẩm của Yến Lan 

  

Thơ là lẽ sống của đời ông. Kí ức thơ có trong ông từ khi ông có trí khôn đến khi ông từ giả cõi đời làm nên một sức sáng tạo dồi dào qua bao thăng trầm của lịch sử và cuộc đời.:

      Ta viết cho đời thơ tuyệt cú

      Bù vào đất chật những trường thiên

      Quế hòe phóng ngọn trên đồng cỏ

      Đọng sóng tầng cao những nét riêng

             (Tự bạch-  Tháng 7-1967)

 

Thời gian của Yến Lan đã trôi qua đúng 100 năm vào ngày 2/3/2016. Trong đó có hơn 60 năm hoạt động nghệ thuật, ông không để lại bất cứ hồi ký nào kể chuyện mình làm thơ, nhưng những vần thơ lưu của ông với những chi tiết đơn giản trong cuộc sống thực, hiện lên từ góc nhìn vừa cụ thể vừa chân thật khiến người đọc rung động tận đáy lòng:

   "Tỉnh nhỏ/Đìu hiu/Mặt trời ngủ giữa chiều/Trở mình trên mái rạ/... Áo vải tây vàng hai vai đã vá/Tỉnh nhỏ/Cô em-nằm xem-kiếm hiệp / Hàng rong-gặp hàng rong / liếc nhìn nhau qua mẹt bánh / Anh khóa nghèo lên tỉnh / Lá đơn cặp với cán ô

                       

 Cảm hứng về tình yêu trong thơ Yến Lan là cái chất riêng khó gặp ở những phong cách thơ khác cùng thời. Tình yêu Yến Lan không dữ dội mà đằm thắm, thiết tha:

                        ‘Vì với tình tôi phải nhẹ nhàng

 

                        Phải là ý ngọc, phải tim vàng   

                                     

Phải là trọn vẹn là trong sáng

 

Là một bài thơ khắc chữ “nàng”

 

             (Đồng nội hồn tôi)

 

  Hoài Thanh từng đánh giá thơ tình Yến Lan:

  “Có cái không khí là lạ nhưng nhẹ nhàng dễ khiến người ta thích”.-

  Tình yêu trong thơ Yến Lan được hư ảo hóa như tiếng vọng về từ một thế giới khác. Tình yêu hiện lên rất chân thật trong cảm xúc nhưng được bao phủ bởi lớp sương khói bàng bạc, huyền diệu, thơ mộng. Âm điệu nhẹ nhàng, đều đặn như lời kể trong câu chuyện cổ tích của mẹ. Hình ảnh về “em” được đánh thức trong ký ức. Một cõi mênh mang, mờ ảo mở ra trong không gian phủ vàng bởi những sợi tơ. Một cô thôn nữ quay tơ, dệt vải là hình ảnh đẹp quen thuộc nhưng vào thơ Yến Lan đẫm nét huyền diệu. Ông đã hư ảo hóa tình yêu bằng màu vàng bao phủ

Ai về xóm cửi năm năm trước,

Đều thấy em ngồi dệt đoạn tơ,

Quanh em vàng tựa trời gieo xuống,

Vàng ở trong màu xuân lắm thơ.

 

                           Tơ em vàng quá cho nên những

                           Vàng ở màu Ngâu nhạt mất rồi,

                           Ánh đèn bạch lạp vàng hơn nữa,

                           Xuyên tận hồn em mộng sáng ngời .

                                                 (Vàng)

  Tình yêu làm nên chất sống trên đời, nếu đánh mất nó thì là đánh mất ý nghĩa của cuộc đời. Vậy mà tình yêu trong thơ Yến Lan thường dang dở, bị ngăn trở bởi giàu nghèo, và những trở lực về vật chất khiến người ta đau khổ bẻ bàng:

             Thói thường đăng đối cuộc nhân duyên

 Cha mẹ em giàu dễ để yên

Cho một lứa đôi không xứng vế

Dập ngay ngọn lửa mới vừa nhen...

Giận cái ngây thơ tự lúc đầu

Thấy rằng tường dậu chẳng ngăn nhau

Ai hay rẽ thúy chia uyên ấy
Còn bức thành cao giữa khó, giàu

                 Gần nhà xa ngõ  1939

Viết về tình yêu ông thường mượn hình ảnh ẩn dụ “Thuyền, bến và trăng”. Bến đò, dòng sông đối với Yến Lan là hình ảnh thân quen, tình yêu dành cho người mẹ vừa thanh cao, trong trẻo như pha lê nhưng không dễ vỡ mà cứ dần hiện lên lấp lánh trên sông nước   

   Với sông và bến: “Thương xưa mẹ sống đời sông bến / Một lá đò đưa nặng gắng gồng…”

(Mùa lụt thăm quê mẹ)

Và có những bến sông đã đi vào ký ức con người để rồi trở thành huyền thoại:

Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách,
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu.
Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn để gió lén mơn râu.

Với trăng là chất vi lượng nuôi dưỡng nhà thơ:

                         “Từ thuở lên hai, trăng đã yêu

                         Đã bồng, đã ấp, đã nâng niu

                         Ban ngày tôi ngủ trong lòng mẹ

                         Lại ngủ trong trăng lúc tắt chiều

                         Trăng đi từ tóc, đi vào máu

                        Như sữa tuôn dòng chảy khắp thân

                         Tôi yêu trăng quá, mê trăng quá

                         Như má yêu môi, đến đến … gần

                                     “Bnh trăng

Bằng đôi mắt thi sĩ, Yến Lan đã nhìn vẻ đẹp của thiên nhiên qua cảm hứng :

Sầm Sơn xám trong vỏ trai hoài cảm 

Ngọc Đa Lăng gói giữa tấm khăn “san”

Trống xa mái ngẫn ngơ thơ đá chạm 

Chiều bồ câu cánh ủ khắp viên trang

(Xa xanh)

 

Và bằng những câu thơ hiện đại Yến Lan đã thổi hồn cho cảnh vật của quê hương Bình Định:    

             Ôi Bình Định mây chia trời cách biệt

 Nhúng bâng khuâng trong giá lạnh sương hoa

             Nhà ngơ ngẩn, những tường vôi keo kiết

 Nam quách sầu, Đông phố quạnh, Tây môn xa

  Tình yêu quê trong Yến Lan thấm đẫm tận cõi lòng nên khi gởi vào thơ, hơn bất cứ nhà thơ nào khác, nỗi buồn của người nô lệ hiện rõ trong thơ Yến Lan

Mái tóc hoa râm rũ xuống mày,

 

Trán buồn như núi ẩn sau mây  

 

Từng ô chữ ngắn trong pho sách

 

Sao khiến thầy buông tiếng thở dài?

 

                                    ....................................................                   

                           Tôi biết thầy lo chuyện nước non.

                           Lòng phơi như ánh mặt trăng tròn

                 Mỗi khi nhắc đến người buôn tẩu

 Tâm sự trào lên ngọn bút son

Vẫn giọng thơ nhẹ nhàng mà thấm thía, tác giả cảm nhận sâu sắc một tương lai đang chờ đón  cuộc trở về của những đứa con đã lỡ bỏ làng ra đi. Những hình ảnh trên quê hương biểu hiện một sức sống mới căng trào. Tất cả đang mở ra đầy sức sống:

            Buồng phổi mới ngực phồng thân áo xám.

 Trăng mát đường về hội nghị cơ quan

            Ôi Bình Định từ những ngày tháng Tám

 Bao đứa con xiêu lạc trở về làng.

            Chiều đại hội ráng lồng trên biểu ngữ,

 Đời căng buồm về xứ sở tự do.

              Đường Cách mạng thơm từng trang lịch sử...,

 

 Nhà thơ Anh Chi đã đánh giá “Yến Lan là nhà thơ tả thực rất tinh, sâu và có hiệu quả thơ, khiến độc giả rung động bởi được hiểu đời thật và thắm thía thương đời. Có thể nói viết câu thơ tả thực mà làm cho người đọc rung động như Yến Lan là rất khó và rất hiếm 

 Nghe trên đàng quạnh hiu 

Cổ xe bò nặng nhọc

 Người trên xe trằn trọc 

Giữa những tiếng rơm kêu

Người ta thường nói “Cả cuộc đời một thi nhân chỉ cần để lại cho đời một bài thơ hoặc một câu thơ hay là đủ. Nhưng, với Yến Lan, giới yêu thơ đều biết; mỗi giai đọan lịch sử Ông đều để lại dấu ấn. Ông có rất nhiều bài thơ hay, ngoài Bến My Lăng còn có Bình Định 1935, Bình Định 1947, Lại về tỉnh nhỏ, Uống rượu với bạn đồng hương...”  

  Thế nên không dễ gì Yến Lan được Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Bao nhận xét:

 “Năm 20 tuổi nhà thơ Yến Lan đã có những câu thơ điêu luyện, tài hoa, những câu thơ có thể xếp vào lọai đặc sắc:  “Trống xa mái ngẫn ngơ thơ đá chạm / Chiều bồ câu cánh ủ khắp viên trang / Sầu tam giác buồm cô về lặng nghỉ / Nhịp hoãn hòa đến vỗ đảo xa khơi”. Đó là những tìm tòi táo bạo, phát hiện tân kỳ vừa kết hợp nhuần nhị tính dân tộc và phong cách hiện đại, vừa mang vẻ đẹp phương Đông truyền thống kết hợp thủ pháp nghệ thuật phương Tây…”.

  Vị trí của Yến Lan lớn, nhỏ đến đâu trong thi đàn nước nhà, điều đó còn chờ sự lắng đọng của nhận thức, phẩm bình và thời gian; nhưng có điều dễ thấy ở Yến Lan: Ông là một thi tài thật sự đặc sắc!”

 

   Nhà thơ Trúc Thông, một tác giả cách tân thơ ở Việt Nam hiện nay, nhận xét về thơ tứ tuyệt của Yến Lan đầy cảm phục: “Trong số lưa thưa bậc hảo hán của thơ tứ tuyệt Việt Nam hiện đại, Yến Lan thuộc loại “bố già”. Một “bố già” hiền lành. Không cân quắc, ngang tàng, vang động. Nhưng vẫn đầy cốt cách trong cung cách âm thầm…”.

 

 Từ một khách thơ người Bình Định xa quê :

“Về An Nhơn mới thấy, bàng bạc cảnh vật - lòng người là hình bóng Yến Lan. Nhất là ở những bến nước dọc bờ sông Côn ở An Nhơn, người đa cảm một chút rất dễ nhận ra nơi nào cũng là... bến My Lăng, và một bến sông nào trong tâm tưởng cũng là bến My Lăng! Có lẽ "cái bóng" của ông quá lớn đối với mảnh đất này, bên cạnh những vị vua, những nhà yêu nước hoạt động trên mảnh đất này)  - Trích phản hồi của một độc giả

 

Hay của một người bạn vong niên đã cùng tham gia Cách mạng với Yến Lan. Anh Cao Kế giảng viên dạy triết học Trường Đại học Qui Nhơn viết:

    “Một tài hoa thật sự đáng ghi nhận ở đây là vào thập niên năm 1945, 46, 47 cũng có nhiều nhà thơ yêu nước nhưng viết không hay chỉ là những câu văn vần tuyên truyền cho cách mạng, nhưng năm 1947,  Yến Lan đã viết bài “Bình Định 1947”.  Một bài thơ mà nội dung phục vụ cách mạng kịp thời và về phương diện nghệ thuật tài hoa thì ai cũng phải công nhận là một bài thơ rất hay; các hình tượng thơ như:                 

            “tin hỏa tốc bạc thếp đèn kéo quân”

“lửa mài gươm sáng rực xóm Lò Rèn”

“Quân lên đường chân đất bước như ru”

 “ Cha mẹ phá đường, bà cháu tản cư’

              “Trai Bình Định ôm bom vào Tú Thủy ,”

  “ Ngự đèo Nhong hay canh bãi Vân Sơn”.

              “Gái quạt trấu cũng hóa thành Dũng sĩ,”

 “Cầu Ba Di đẩy dựng những toa goòng.”       

Là những hình tượng thơ giàu sức gợi cảm. Những tên đất, tên làng, tên núi, tên sông như xóm Lò Rèn, Tú Thủy, cầu Bà Di, đèo Nhong, Bãi Vân Sơn sẽ sống mãi với lịch sử chống Pháp của Liên Khu Năm cùng tên tuổi Yến Lan.”

 

   Dẫu giờ đây ông không còn nhưng qua những bài viết của đồng nghiệp ở nhiều thế hệ khác nhau cũng như công chúng yêu thơ Yến Lan, người đọc dễ nhận ra vì sao độc giả vẫn nhớ đến ông, và yêu quí ông đến thế; Có lẽ giờ đây sau bao nhiêu sàng lọc, công chúng yêu thơ đã nhận diện được chân giá trị đích thực ở Yến Lan:

  “Hơn cả một đời thơ của mình, cái mà nhà thơ Yến Lan để lại cho mọi người là đạo đức, cách sống, tình cảm của ông đối với người, quê hương và dân tộc”. Những vần thơ chân thực, trang trọng lại ngọt ngào và giàu chất trữ tình của Yến Lan không để lại một chút mùi giáo điều, lên gân nào, chỉ thấy thơ ông tình yêu con người, quê hương khi ông hoà trộn những tình cảm cao quí đó vào nhau. Vì vậy thơ ông thật nhẹ nhàng đi vào lòng người đọc hơn là sự “hét ra lửa” mà ngày nay không ai còn đọc nổi nữa.”

 

   Nhà văn Ngô Văn Phú:

   "Nhớ đến Yến Lan là người ta nhớ đến một nhà thơ, suốt đời ông sống cho thơ, cho đến phút chót... Ông là con người của thơ ca, là những gì mà thơ mang trong mình nó: Thanh sáng, tinh túy và cao thượng. Ông yêu thơ trong thầm lặng như một mối tình dài (...), người làm thơ lớp sau gọi là "bố già" của loại thơ tứ tuyệt, tưởng đã mấy người được như thế"

 

Với Yến Lan, những người yêu thơ ông đã nhìn ông bằng đôi mắt đầy thán phục, dù ở bất cứ nơi đâu trên trái đất này. Không những chỉ đơn phương yêu ông mà còn muốn tình yêu ấy lan tỏa tới mọi người ở khắp nơi trên trái đất.

          “khói” được dịch bởi Tuong Mai Cư Sĩ trên web      https://tuongmaicusi.wordpress.com/

    “KHÓI” là một bài thơ bốn câu hay của Yến Lan.  Về Yến Lan và những nét “râu ria” về ông, ấy chính nhờ những nét đó mà đệ hiểu thêm về đức độ, tài năng của Yến Lan và dám dịch thơ ông để yêu ông thêm. Đệ muốn có thêm nhiều người Việt ở hải ngoại, nhiều người nước ngoài khắp năm châu bốn biển cùng yêu Yến Lan như yêu Tản Đà, Huyền Trân,  Hồ Dzếnh…Với đệ yêu các nhà thơ lớn của đất nước cũng chính là yêu đất  nước mình….

KHÓI

Đêm nao thế sự cũng đem bàn

Mẩu thuốc đầy vơi cái gạt tàn

Nhẩm lại bao nhiêu câu hỏi lớn

Lẫn vào khói nhẹ gió xua tan.

 

SMOKE

(Poem by Yến Lan – Translation by TMCS)

 

Every night the world affairs are discussed

And the cigarette butts fill the ashtray.

Reviewing the major debated questions,

They realize all of them- in their opinion-

Being mixed in the slight smoke

That the wind has blown away…

FUMÉE

(Traduit par TMCS)

 

Chaque nuit les affaires du monde sont discutées

Et les mégots de cigarettes remplissent le cendrier.

En révisant les grandes questions ayant été débattues,

On réalise qu’elles ont été mêlées

Dans la fumée légère dont le vent

 

   ‘Với sự đóng góp của Yến Lan suốt gần trọn một thế kỷ dâng hiến cho đời biết bao khúc nhạc lòng mà quê hương ông dường như cố tình hờ hững. Điều đó cho thấy trong suốt một thời gian dài, tên tuổi và sự nghiệp thơ văn của Yến Lan dường như bị lãng quên… Phải chăng đó là sự bất công hay nói như Chế Lan Viên "Có nhiều lí do. Nhưng thơ là cái đẹp lặng im, đi lầm lũi trong im lặng" [110, tr.10] thế nên thi sĩ ấy như một kiếp tằm, rút ruột nhả cho đời những sợi tơ óng ánh để rồi mình lặng im hóa kiếp chẳng ai hay, chỉ biết rằng mình hoàn thành nhiệm vụ " trả nợ dâu" và thanh thản! Còn cả đời ông không chức sắc gì to lớn, không giải thưởng đỉnh cao tột bậc, không tượng đài, không tên đường./.

 

Lâm Bích Thủy
Số lần đọc: 2513
Ngày đăng: 20.12.2015
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Nỗi niềm "Cố Quốc" và "Gia Hương" trong thơ chữ Hán Nguyễn Du - Phạm Quang Ái
Đọc:"Hương Cô Quạnh của Phan Nguyên" - Nguyễn Hồng Nhung
Tình dục trong tiểu thuyết "Bàn tay nhỏ dưới mưa" - Hoàng Thụy Anh
Võ Chân Cửu: Đi qua "đại mộng" trở lại "quê nhà" mang mang sầu vạn cổ - Lê Ngọc Trác
Đọc thơ Chân Phương tháng 12 - 2015 - Nguyễn Hồng Nhung
Tú Xương "trước bản thân và cuộc đời" - Phan Thành Khương
Đi vào cõi thơ - Võ Công Liêm
Nguyễn Du như tôi nghĩ... - Yến Nhi
Về sự phê phán chủ nghĩa kỳ thị dân tộc trong "Bắc Hành Tạp Lục" của Đại Thi Hào Nguyễn Du - Phạm Quang Ái
Thi nhân văn nhân họa nhân là con người sáng tạo - Võ Công Liêm
Cùng một tác giả
Tình lên ngơ ngác (truyện ngắn)
Chàng Ngốc (truyện ngắn)
Thư cảm ơn (sự kiện)