Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.176
123.222.870
 
Nguyễn Vỹ - nhà báo với ý thức dấn thân trong cái nhìn của các nhà nghiên cứu ở miền Nam (1954 – 1975)
Trần Hoài Anh

                     

 

 

       1.Trong những gương mặt văn học thời tiền chiến xuất hiện trên văn đàn Việt Nam những năm 1932-1945 và tiếp tục hoạt động sung sức ở miền Nam trong thời kỳ 1954 -1975, Nguyễn Vỹ là một nhà văn đa tài tung tẩy trên nhiều phương diện như: viết văn, làm thơ, biên khảo, viết báo… ở lĩnh vực nào, Nguyễn Vỹ cũng tạo nên những dấu ấn riêng. Đặc biệt, đối với lĩnh vực báo chí là lĩnh vực, ông có nhiều cống hiến cho đời sống văn học và báo chí nước nhà rất cần được quan tâm nghiên cứu. Bởi, đây là lĩnh vực thể hiện rõ ý thức dấn thân của ông trong các hoạt động xã hội, là nơi để ông thể hiện một phần những hoài bảo và khát vọng trong lẽ sống của mình với cuộc đời. Vì vậy, nếu trong lĩnh vực thơ ca ta bắt gặp một con người lãng mạn của một Nguyễn Vỹ - Thi nhân với rất nhiều hoài vọng có tính lý tưởng, thì trong lĩnh vực báo chí ta bắt gặp một con người hành động của Nguyễn Vỹ trong tư cách một nhà báo dấn thân đấu tranh chống cái ác, cái bất công, chống bạo lực cường quyền để vươn đến lẽ công bằng, bình đẳng trong xã hội. Và chúng ta không lấy làm ngạc nhiên khi những thăng trầm, những vinh quang và cay đắng, hạnh phúc và khổ đau trong cuộc đời của Nguyễn Vỹ đều bắt nguồn từ hoạt động báo chí của ông trong tư cách của một nhà báo và một nhà quản trị báo chí chuyên nghiệp. Và điều này sẽ được xác chứng qua cái nhìn của các nhà nghiên cứu ở miền Nam 1954-1975 về chân dung Nguyễn Vỹ với tư cách một nhà báo dấn thân.

 

     2. Là một nhà văn sinh ra và lớn lên trên quê hương Quảng Ngãi được hun đúc trong linh khí của Núi Ấn  Sông Trà, lại được giáo huấn ngay từ bé trong một gia đình có truyền thống yêu nước và cách mạng, Nguyễn Vỹ đã sớm nuôi nhiều ước vọng cao đẹp về một xã hội công bằng, nhân văn, hiện đại và đây chính là cơ sở tư tưởng tạo tiên đề để ông lựa chọn báo chí như một phương diện dấn thân để “hành đạo” thậm chí để “nổi loạn” nhằm thực hiện lý tưởng sống của mình. Sự chọn lựa này có thể thành công hay thất bại, thậm chí có lúc rất mạo hiểm nhưng nó cho thấy bản lĩnh sống đầy ý thức hiện sinh của Nguyễn Vỹ. Đó là ý thức được sống với chính sự lựa chọn của mình, cho dù sự lựa chọn đó có thể đem đến cho ông nhiều mất mát, khổ đau và nguy hiểm đúng như lời thơ Tôn Nữ Hỷ Khương đã viết về tờ báo Dân ta, một tờ báo do Nguyễn Vỹ sáng lập và quản trị: “DÂN TA anh dũng” với “oai hùng”/ chí khí ngang tàng vẫn nấu nung/ Bút thép xứng danh người chiến sĩ/ Non sông vay trả nợ tang bồng” (1) Và đây cũng là điều mà các nhà nghiên cứu ở miền Nam trước 1975 quan tâm khi nói đến Nguyễn Vỹ với phương diện là một nhà báo.

 

       Trong Việt Nam thi nhân tiền chiến (Quyển thượng) Nxb. Sống mới, Sài Gòn, 1968 cùng với việc phê bình các nhà thơ: Tản Đà, Tương Phố, Phan Khôi, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Thị Manh Manh, Thế Lữ, Nguyễn Nhược Pháp, Nguyễn Bính, Thanh Tịnh, TTKH, Thâm Tâm, Vũ Hoàng Chương, Xuân Diệu, Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Nguyễn Giang, Phạm Đình Tân, Nguyễn Tấn Long đã dành cho Nguyễn Vỹ một vị trí khá xứng đáng với 67 trang viết về cuộc đời và sự nghiệp văn học của ông, trong đó có cả lĩnh vực hoạt động báo chí. Và trong phần viết về tiểu sử nhà thơ Nguyễn Vỹ, ngoài việc giới thiệu về quê hương và gia thế, tác giả Việt Nam thi nhân tiền chiến còn chú ý đến quá trình hoạt động báo chí của Nguyễn Vỹ, đặc biệt là tinh thần phản kháng của ông đối với chế độ thuộc địa của Pháp.

       Theo Nguyễn Tấn Long: “năm 1937, Nguyễn Vỹ sáng lập tờ báo Việt Pháp lấy tên là Le Cygne tức Bạch Nga. Báo này ngoài Nguyễn Vỹ còn có nhà văn tên tuổi Trương Tửu cộng tác. Le Cygne là cơ quan cách mạng chính trị xã hội văn nghệ. Trên báo này, Nguyễn Vỹ có viết nhiều bài công kích chính phủ Bảo hộ, chỉ trích đường lối cai trị của thực dân Pháp. Chính vì lẽ đó mà Le Cygne bị đóng cửa, rút giấy phép vĩnh viễn. Thực dân Pháp kết án ông là thành phần bất hảo, nguy hiểm cho chính phủ Bảo hộ và ghép vào tội “phá rối trị an và phá hoại nền anh ninh quốc gia”. Kết quả: ông bị tòa án thực dân tuyên phạt 6 tháng tù và 3000 quan tiền phạt.

            Mãn tù năm 1939, thế chiến thứ hai bùng nổ, Pháp thất trận, quân Nhật chiếm Việt Nam; không thua gì Pháp, Nhật Bản đặt chế độ quân phiệt độc tài cai trị; Nguyễn Vỹ quay lại tranh đấu chống Nhật, ông dùng ngòi bút – một khí giới muôn đời của kẻ sĩ – cho xuất bản hai quyển sách chống chế độ quân phiệt Nhật Bản, đó là:

  • Kẻ thù là Nhật Bản.
  • Cái họa Nhật Bản.

Lần nầy cũng như lần trước, Nguyễn Vỹ bị quân Nhật bắt giam tại ngục Trà Khê (sau này trong tạp chí Phổ thông bộ mới, Nguyễn Vỹ có kể lại những ngày sống trong ngục Trà Khê với tựa bài ‘‘Người tù 69’’).

Năm 1945, thế chiến thứ hai chấm dứt, Nguyễn Vỹ ra khỏi tù, sáng lập tờ báo Tổ quốc tại Sài Gòn, trong ấy có những bài công kích chính quyền đương thời nên chỉ ít lâu sau, báo Tổ quốc bị đóng cửa.

Sau đấy, Nguyễn Vỹ lại cho ra đời tờ Dân chủ xuất bản ở Đà Lạt, chống chính sách quân chủ lập hiến của Bảo Đại. Sống chẳng bao lâu, báo Dân chủ cũng chung số phận với báo Tổ quốc.

Đến năm 1952, một nhật báo khác cũng do Nguyễn Vỹ chủ trương là tờ Dân ta, ra đời để rồi sống chỉ được một thời gian, cuối cùng cũng bị đóng cửa như các tờ báo trước của ông.

           Mãi đến năm 1958, ông đứng ra chủ trương bán Nguyệt san Phổ thông, chủ trương về nghệ thuật và văn học, hiện nay tạp chí này được kể là có nhiều uy tín đối với làng báo miền Nam.” (2)

     Có thể nói, qua những gì Nguyễn Tấn Long đã tường trình về hành trình làm báo của Nguyễn Vỹ thời kỳ trước 1945 cũng như sau này ở miền Nam trong thể chế Việt Nam Cộng Hòa, ta thấy Nguyễn Vỹ thật sự là một nhà báo dấn thân dám chấp nhận mọi hiểm nguy để thực hiện lẽ sống của mình. Điều đó được thể hiện rõ qua tôn chỉ, mục đích và cả hành động cụ thể của các tờ báo mà ông phụ trách. Đó là tinh thần phản kháng, đấu tranh trực diện với các thế lực “đen tôi” trong xã hội để chống lại những gì đi ngược với các giá trị cao đẹp có tính nhân văn như; tự do, dân chủ, bình đẳng, bác ái… mà Nguyễn Vỹ luôn khát khao thực hiện với tất cả niềm đam mê của mình. Vì vậy, khi chúc mừng sinh nhật tạp chí Phổ Thông do Nguyễn Vỹ làm Giám đốc và Chủ bút, rất nhiều nhà báo, nhà nghiên cứu thể hiện tình cảm và thái độ ngưỡng mộ những giá trị trong lĩnh vực hoạt động báo chí của Nguyễn Vỹ như bài thơ của Việt Nhân đăng trên tạp chí Phổ Thông số 46 ra ngày 1/11/1960 “Thu ơi ai nhuộm lá thu vàng / Hai tuổi cùng tròn với thế gian /Những muốn Phổ Thông cùng tuế Nguyệt! / Mặc dầu lao khổ lẫn huy hoàng / Diệu Huyền vẫn dệt đường tơ mộng / Nguyễn Vỹ chi sờn nỗi tấc gang. / Còn sống thì còn cơ hội ngộ / Dân Ta mấy độ tiếng lừng vang!” (3)

       Và đây cũng là cái nhìn của Tuần Lý - Huỳnh Khắc Dụng về Nguyễn Vỹ với tư cách là một nhà báo dấn thân khi cho rằng Nguyễn Vỹ :“là một nhà báo biết tự trọng, có tư cách của người trượng phu, không như nhiều cây viết khác, ti tiện vô duyên mà không biết thẹn… không có một hiện tượng nào trong cái xã hội này mà cô Diệu Huyền (một bút danh của Nguyễn Vỹ (HA. chú thích) không chế diễu, chế diễu một cách thanh tao duyên dáng, khiến người bị ám chỉ cũng phì cười.” (4)  

      Không chỉ là nhà báo biết “tự trọng”, không “ti tiện” mà với tư cách là một nhà báo dấn thân, để hoàn thiện thiên chức của một người cầm bút trên lĩnh vực báo chí, một lĩnh vực đòi hỏi ở người viết không chỉ có tâm huyết, có tấm lòng mà còn phải có trí tuệ, có kiến thức với một phông văn hóa phong phú nên Nguyễn Vỹ không ngừng nâng cao về khả năng chuyên môn của mình. Và đây cũng là điều mà Nhu Thắng Cang trên Nhật báo Tin Sớm số 2161 ra ngày 16/12/71 cảm nhận khi nhìn nhận về tư cách nhà báo của Nguyễn Vỹ: “Anh Nguyễn Vỹ thuộc về những người viết báo lớn, có chân tài thực học, viết đủ mọi loại (…) Anh viết thật hăng say làm việc không mệt mỏi. Dưới bút hiệu Diệu Huyền anh đã tạo được nhiều mỹ cảm trong nữ giới.” (5)

        Còn khi nói về sự dấn thân và niềm say mê làm báo hiếm có của Nguyễn Vỹ, Việt Nhân đã cảm kích mà xác quyết rằng: “Đời làm chủ nhiệm báo tuần, báo ngày và đời viết lách của anh thật là quên mình, có thể nói là quên ăn, quên uống. Thật vậy. Một khúc bành mì thịt mua ngoài xe hoặc một dĩa cơm lao động anh Nguyễn Vỹ vừa ngồi viết tại bàn giấy vừa ăn thay cho bửa ăn trưa là đủ. Quả đúng là anh say mê với cái nghiệp viết báo viết văn.” (6) Đọc những điều này, không hiểu những nhà văn, nhà báo “salon” lúc nào cũng ngồi trong xe hơi, trong phòng lạnh nghĩ gì về tư cách của một nhà báo dấn thân trong hành trình đấu tranh chống bạo lực, cường quyền để giành lại áo cơm cho nhân quần, nhất là những người lao động nghèo khổ mà cuộc đời làm báo của Nguyễn Vỹ cùng những hoạt động thiện nguyện của ông trong ý thức của một nhà báo dấn thân là một minh chứng để chúng ta suy ngẫm. Bởi, báo chí trong chức năng của mình không chỉ làm nhiệm vụ thông tin mà còn thực hiện những chức năng cao cả khác như chức năng nhận thức, giáo dục, chức năng định hướng đạo đức, văn hóa… Và nhà báo chân chính trong một chừng mực nào đó không chỉ là những “kỹ sư tâm hồn” mà còn là những chiến sĩ chống lại cái ác, cái xấu, cái đê tiện, thấp hèn để góp phần xây dựng một xã hội nhân bản, hướng đến chân, thiện, mỹ…

  Cuộc sống trên trần thế này, chắc chắn sẽ không bao giờ hết những bất công, nghèo đói, khi mà loài người chưa bao giờ từ bỏ sự tham lam mà Đức Phật gọi là sự khát “dục”. Và khi con người còn mãi chìm trong cái “bến mê” đầy huyễn hoặc này, thì văn chương, báo chí vẫn còn cần lắm những nhà văn, nhà báo dấn thân với những hành động cụ thể chống bạo lực cường quyền để góp phần dù rất nhỏ nhưng rất cần thiết “cứu rỗi” nỗi đau khổ của những phận số con người mà nhiều khi sự cứu rỗi ấy là kết quả từ những bài báo của các nhà báo dấn thân. Đây cũng là điều mà Nguyễn Vỹ luôn tâm niệm trong cuộc đời làm báo của mình. Bởi nói như Vũ Bằng trong tác phẩm Bốn mươi năm nói láo khi suy ngẫm về nghề báo, ông cho rằng: “Người làm báo chân chính đấu tranh không cần ai khen, không sợ ai chửi hết. Người làm báo chân chính chiến đấu cho dân tộc, cho tương lai, có lúc nào rảnh rang chỉ ngồi nhìn lại quá khứ và tự hỏi lòng mình có xứng đáng làm chiến sĩ không và chiến sĩ ở mức độ nào mà thôi.” (7) Và chính Vũ Bằng cũng đã thêm một lần xác quyết: “Người làm báo chân chính không sợ uy vũ, không bị mê hoặc vì lợi danh, không chịu để cho ngòi bút mình tủi hổ, cho nên cũng vì thế nhà báo cũng là trong số những người đáng kính nể nhất.” (8) Có lẽ những điều mà Vũ Bằng, một nhà văn, nhà thơ, nhà báo tài năng với bút ký Thương nhớ mười hai viết từ thế kỷ trước đến hôm nay và mãi mãi sẽ còn làm xao động tâm cảm người đọc cùng với những việc làm của Nguyễn Vỹ với tư cách là một nhà báo dấn thân đã thức nhận trong chúng ta nhiều điều suy ngẫm về nghề báo, về vai trò người cầm bút. Bởi, khi trong xã hội vẫn còn không ít nhà báo sẵn sàng đầu hàng, thỏa hiệp với cái ác, cái xấu, cái thấp hèn, với quyền lực, thậm chí bán linh hồn cho quĩ dữ, sẵn sàng bẻ cong ngòi bút, quay mặt lại với cái thiện, cái chân, cái mỹ, với đời sống khổ nghèo của nhân dân, nhất là những con người thấp cổ bé họng… để kiếm những đồng tiền nhơ bẩn được trao tay từ những “thế lực hắc ám” nhằm được “vinh thân phì da” mà hình như đối với các “nhà báo” kiểu này, đó cũng là một cách “dấn thân” thì những việc làm của Nguyễn Vỹ với tư cách là một nhà báo dấn thân vẫn còn nguyên giá trị để phản tỉnh họ.

    Vì vậy, về một phương diện nào đó, ta có thể khẳng định, Nguyễn Vỹ thật sự là một nhà báo dấn thân với một tinh thần khai phóng và xem tờ báo của mình như một phương tiện để “khai dân trí, chấn dân khí” như nhà cách mạng tiền bối Phan Chu Trinh đã huấn dụ. Thế nên, khi đánh giá về tờ báo Phổ Thông của Nguyễn Vỹ, Bao La Cư Sĩ tức Thái Bá Kiểm, Chủ bút tờ Văn hóa nguyệt san, Bộ giáo dục đã cảm tác: “Thấm thoát hai đông đã tới rồi,/ Văn hóa nêu cao ba cõi đất, / Thanh danh truyền khắp bốn phương trời. / Non sông gấm vóc mong thêu dệt / Dòng dõi rồng tiên khéo vẽ vời. / Mặc khách tao nhân vui gặp mặt. / Tỏ tình đoàn kết góp đôi lời. (Sài Thành 1.11. 1960) (9)

      Không chỉ là một nhà báo có năng lực chuyên môn cao, nếu không muốn nói là một nhà báo có tài, có nhân cách, Nguyễn Vỹ còn nhà quản trị báo chí có nhiều kinh nghiệm và năng lực tổ chức, quản lý. Vì vậy, khi nhìn nhận về các tờ báo Nguyễn Vỹ phụ trách với tư cách là một nhà quản trị báo chí ở miền Nam trước 1975, Hoàng Cơ Bình trên tuần báo Hưng Quốc số 69 ra ngày 24/12/1971 đã cho rằng: “Bán Nguyệt San Phổ Thông của Anh là một thành công. Dân Ta khi ẩn khi hiện có một sắc thái độc đáo. Thằng Bờm của Anh quả thực đã gây được một phong trào trong giới thiếu niên. Ít ai đã có thể thành công như Anh về tinh thần cũng như về tổ chức.” (10) Sở dĩ có được những thành công trong hoạt động báo chí ở những tờ báo mà Nguyễn Vỹ phụ trách như: Dân Ta, Bán Nguyệt San Phổ Thông, Thằng Bờm … vì trong ý thức của Nguyễn Vỹ: “Chủ bút phải là người có trách nhiệm thường xuyên về tinh thần tờ báo, phải trông nom các bài của bộ biên tập và xem các lai cảo, thư từ của bạn đọc gởi về liên quan đến Tòa soạn. Ông chủ tọa các cuộc hội nghị nội bộ của Tòa soạn và đưa ra các chỉ thị quan hệ mật thiết với hoạt động của tờ báo mà ông có nhiệm vụ gìn giữ đúng theo tôn chỉ và xu hướng.”(11) Không những thế, trong quan điểm của Nguyễn Vỹ: “Một tờ báo có căn bản nghề nghiệp, bất cứ hàng ngày hay hằng tuần luôn luôn được tổ chức theo một hệ thống chặt chẽ chứ không bao giờ bừa bãi được. Nó là một cơ quan dù là của tư nhân, nhưng vẫn có tính cách công cộng vì ảnh hưởng của nó trong quần chúng rất rộng lớn. Cho nên nó phải theo một kỷ luật nội bộ như thế nào để giữ được không những giá trị riêng của tờ báo mà còn cả uy tín của quốc gia và dân tộc mà nó là đại diện dư luận, hay là tiêu biểu cho văn hóa nghệ thuật, văn minh, v,v…” (12) Và Nguyễn Vỹ xem đây là một nguyên tắc bất biến để tạo nên hệ giá trị cho một tờ báo và trong suốt cuộc đời làm báo của mình trong tư cách là người quản trị tờ báo ông đều thực thi và giữ vững nguyên tắc hoạt động báo chí này.

      Quả thật, với một nền báo chí hiện đại, phong phú và mang tính cạnh tranh của một xã hội thông tin đa chiều, lại vận hành trong cơ chế thị trường như ở miền Nam giai đoạn 1954-1975, sự tồn sinh của các tờ báo phụ thuộc rất nhiều vào tài năng của bộ phận quản trị, mà rõ nhất là vai trò của người chủ chiệm và chủ bút của tờ báo. Đây cũng là điều trên báo Tiếng Vang số 2397 ra ngày 19-12-71, tác giả Tú xe đã nói đến khi đề cập về khả năng đa dạng và đa diện của Nguyễn Vỹ với tư cách của một nhà quản trị báo chí trên tinh thần dấn thân: “Trong làng văn, làng báo anh là con người đa diện. Anh làm thơ, viết tiểu thuyết, viết khảo luận, dịch sách, bên ngành báo anh vừa điều khiển tờ báo vừa chạy tiền mua giấy, vừa viết bài xã luận, viết bài phiếm luận, viết ký sự viết luôn phóng sự, lắm lúc ngồi viết luôn hóa đơn để thu tiền quảng cáo. Ấy vậy mà anh chưa hề được tờ “Newyork Times” liệt kê vào bảng phong thần những tên nhà giàu mới bên xứ Giao Chỉ bên cạnh vua dây kẽm gai Hoàng Kim Quy, vua “dạy Anh ngữ” Nguyễn Ngọc Linh. Anh chỉ vừa đủ sống mặc dù phải “hì hục” viết suốt một đời người. Những lúc đi ăn chung (ăn mà không nhậu vì anh không biết nhậu). Tú Xe thường chế nhạo cái lối viết “hì hục”, viết đến toát mồ hôi của anh, anh chỉ mĩm cười chua chát mà rằng: “Đành vậy hỏng lẽ đi buôn… mà đi buôn cái gì bây giờ, trong khi thời bi giờ bất cứ cái gì kể cả Tôn Giáo và Đất nước cũng đã có người bán rồi.” (13) Vì vậy, khi nhận xét về Nguyễn Vỹ với tư cách là một nhà báo, Bàng Bá Lân cho rằng: “Tôi chưa được rõ lối sống của Nguyễn Vỹ thế nào; nhưng về việc làm báo của anh thì phải nhận ra là có tổ chức chặt chẽ và đứng đắn. Báo ra đúng hạn, bài vở đều đặn, nhất là những mục do anh phụ trách (mà anh giữ rất nhiều mục với nhiều bút hiệu khác nhau) thì chẳng bao giờ chậm trễ, thiếu sót. Một điều đáng kể nữa là sổ sách rất đàng hoàng, tiền nhuận bút của các ký giả và văn hữu viết giúp được trả rất sòng phẳng, mau chóng. Đó là điều mà đa số các chủ báo khác không mấy lưu tâm. Có lẽ tại thế mà tạp chí Phổ Thông của Nguyễn Vỹ đã sống khá lâu, và có vẻ càng ngày càng tiến triển.” (14) Và cũng trong cái nhìn của Bàng Bá Lân thì chúng ta “phải công nhận Nguyễn Vỹ là một nhà báo có tài.” (15)  

      Một phẩm tính khác trong cái nhìn của các nhà nghiên cứu ở miền Nam trước 1975 về tính cách một người viết văn, làm báo dấn thân Nguyễn Vỹ, theo tinh thần của một nhà văn dấn thân mà Sartre đã từng nói, đó là việc thành lập Thi văn đoàn Thằng Bờm ở hầu hết các tỉnh trên lãnh thổ miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.  Đây là một hoạt động có tính giáo dục rất lớn về ý thức trách nhiệm đối với xã hội, đối với công động của giới trẻ phần lớn đang hoang mang về lẽ sống trong xã hội miền Nam khi ấy mà Điếu Văn của Thi văn đoàn Thằng Bờm Sài Gòn – Chợ Lớn- Gia Định do Võ Thanh Sơn trình bay đã chia sẻ: “Cách đây hai năm, khi nhìn đám thanh thiếu niên bị phân hóa nặng nề, đang quay cuồng trong văn minh vật chất, lớp bơ vơ ngơ ngác đang tìm một hướng đi, bác đã mạnh dạn đứng chủ trương tuần báo Thằng Bờm, thành lập Đoàn Thằng Bờm đem hùng khí mới thổi vào tâm hồn trẻ (…)  Bác chịu đạm bạc một mình, một thân trong căn gác trọ. Tiền làm báo bác trợ cấp cho những đoàn viên nghèo tiếp tục học hay giúp đỡ những sinh viên có tiền mua sách. Năm 1970, khi bảo lụt miền trung xảy ra, bác đã hô hào cho chúng con xuống đường chia từng toán nhỏ, đi từng khu phố, xin từng lon gạo, từng chiếc áo cũ rồi chính tay bác vác từng bao gạo, từng bao quần áo lặn lội về Trung phân phát tận tay nạn nhân (….) Chúng con biết bác làm thế để tạo cho chúng con biết thương người đồng loại, biết chuộng công bằng.” (16) Hay lời chia sẻ đầy ưu tư của Nguyễn Nhi Thơ Đại Diện Phó Thi văn đoàn Thằng Bờm Qui Nhơn: “Thật không ngờ chúng con lại có những ngày buồn như hôm nay. Ai có ngờ đâu, một người hiền lành yêu trẻ như Bác, thiết tha với thế hệ đang lên của đất nước, ngày đêm bác lo lắng cho chúng em tạo nên một lớp người mới phải đành đọan ra đi trong nhiều nước mắt. Trong xã hội ngày nay, những người như bác thật hiếm. Chúng em oán trách sao xã hội ngày nay, những người như bác không còn ai nữa! Để hướng dẫn, giáo dục cho chúng em theo đúng nề nếp, lối sống của dân tộc Việt.” (17)  

    3. Không chỉ là nhà báo dấn thân, có nhân cách và có ý thức trách nhiệm trước cộng đồng, Nguyễn Vỹ còn là nhà biên khảo, nhà nghiên cứu văn hóa, xã hội có những suy nghĩ độc lập và có cá tính. Đây cũng là một phương diện thể hiện văn tài của Nguyễn Vỹ mà chúng ta không thể không nói đến khi đề cập đến sự nghiệp văn học và cuộc đời Nguyễn Vỹ. Và đây cũng là điều chúng tôi sẽ bàn đến ở một công trình khác khi có điều kiện. Tuy nhiên trong bài viết này chúng tôi cũng xin viện dẫn ý kiến của Việt Nhân như thêm một lần xác tín về sự đa tài đa diện của Nguyễn Vỹ khi nhà nghiên cứu này cho rằng Nguyễn Vỹ không chỉ là nhà báo mà còn là “một học giả, anh đã suy tư nhiều về tương lai văn học nước nhà, anh là một trong những người tiên phong kêu gọi thành lập Hàn Lâm Viện Việt Nam.” (18) Vì vậy, trong suy cảm của Bàng Bá Lân ở tác phẩm “Văn thi sĩ hiện đại”, (Nxb. Xây Dựng, Sài Gòn, 1962) Bàng Bá Lân  khi nghĩ về một số văn thi sĩ hiện đại như Nguyễn Nhược Pháp, Nguyễn Hiến Lê, Anh Thơ, Đông Hồ, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Vỹ, Toan Ánh, Phạm Đình Tân, Phạm Đình Khiêm, Phạm Văn Sơn, Bàng Bá Lân cho rằng: “Trong số mười văn thi sĩ mà tôi đưa ra giới thiệu hôm nay, có người có thể sẽ thành “bất tử”, có người rồi ra chỉ còn là “vang bóng một thời”, có người đã tự tạo được một vòng hào quang khá rực rỡ, có người chưa có mấy tiếng tăm; nhưng tất cả đều đã ít nhiều đóng góp vào công việc xây dựng lâu đài văn học Việt Nam với tất cả khả năng tinh huyết. Riêng một điều đó cũng đáng kể rồi.” (19) 

   Riêng Nguyễn Vỹ ông không chỉ là người có công trong việc xây dựng tòa “lâu đài văn học Việt Nam” như Bàng Bá Lân đã xác quyết mà ông còn là người có công trong việc xây dựng “tòa lâu đài văn hóa”, “tòa lâu đài báo chí” vốn còn khá non trẻ trong một đất nước có nền báo chí xuất hiện khá muộn và thiếu truyền thống phản biện như ở nước ta. Vì vậy, cho dẫu những đóng góp của Nguyễn Vỹ trong lĩnh vực báo chí cũng như văn hóa, văn học vẫn còn khiêm tốn vì ông đã vĩnh viễn xa lìa cuộc đời khá sớm khi rất nhiều điều tâm nguyện, ông chưa thực hiện được. Nhưng chắc chắn Nguyễn Vỹ sẽ không chỉ là nhà văn của “một thời vang bóng” mà sẽ trở thành “bất tử” cùng với đất nước, quê hương mà ông hằng yêu quí. Bởi, trong tâm thức của ông làm báo, viết văn, làm văn hóa, không phải chỉ để trở thành nổi tiếng mà cốt là thể hiện khát vọng dấn thân của người cầm bút, mang tinh hoa góp mộng cho đời như chính lời thơ ông viết trong lễ mừng sinh nhật lần thứ 2 tạp chí Phổ Thông: “Mỗi người mỗi chút góp công nuôi / Đông Tây kim cổ chung lời đẹp / Bạn hữu xa gần giúp chuyện vui / Một bóng một đèn, ham viết… viết… / Chuỗi ngày chuổi tháng, mặc trôi… trôi… / Dăng tơ dệt mộng, mơ hồn bướm / Cái kiếp con tằm phải thế thôi”. (Kỷ niệm đệ nhị chu niên Tạp chí Phổ Thông -) Nguyễn Vỹ (20)  

  Vâng! “Cái kiếp con tằm" thì "phải nhả tơ.” Và Nguyễn Vỹ trong phận số của một nhà báo dấn thân, ông cũng đã rút ruột những sợi tơ văn hóa, văn chương, văn khí trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, dâng hiến cho cuộc sống, cho quê hương, cho con người mà ông yêu quí, trong thân phận của kẻ lưu đày giữa chốn nhân gian mà ông đã chọn lựa như một hiện hữu…

Chú thích:

  1. (4) (5) (6) (10) (13) (16) (17) (18) Tạp chí Thằng Bờm, số 86, “số Đặc biệt tưởng niệm cố thi sĩ Nguyễn Vỹ”, tr.27, tr.2, tr. 9, tr. 4, tr.8, tr.13, tr. 22, tr.23, tr.4
  2. Nguyễn Tấn Long, Việt Nam thi nhân tiền chiến (Quyển thượng) Nxb . Sống mới, Sài Gòn, 1968, tr.434-435
  3. (9) (11) (12) Tạp chí Phổ Thông, Bộ mới số 46 ra ngày 15/11/1960, tr.126 - 127, tr.126, tr.41, tr.42, tr.126

(7) (8) Vũ Bằng Toàn tập tập 1, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2006, tr.520, tr.519)

(14) (15) (19) Bàng Bá Lân, Văn thi sĩ hiện đại, Nxb. Xây Dựng Sài Gòn, 1962, tr.147, tr.158, tr. 6

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trần Hoài Anh
Số lần đọc: 2162
Ngày đăng: 22.06.2018
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Ý thức vũ trụ - Võ Công Liêm
Thơ Như Quỳnh de Prelle, lắng nghe sự hiện hữu của thực tại. - Trần Duy Trung
Đánh Thiền sang bằng Thiền và Thiền - Võ Công Liêm
Nguyễn Văn Sâm và dòng chảy văn chương Nam Kì Lục Tỉnh - Hoàng Kim Oanh
Philip Roth, người Mỹ không trầm lặng - Từ Thức
Tiếng Việt thời LM de Rhodes - dạng bị (thụ) động (passive voice) - phần 8 - Nguyễn Cung Thông
Tình yêu, Tình dục và Cái Chết trong tiểu thuyết "Bàn tay nhỏ dưới mưa" - Lê Viết Yên
Lá Đỏ, Thơ Nhạc và… - Lê Anh Thu
Nguyên Minh và Màu tím hoa mua, anh còn nợ … - Hoàng Kim Oanh
Lần theo những sợi tơ lòng. - Trương Văn Dân
Cùng một tác giả
Thanh Thảo và Thơ (tiểu luận)