Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.185
123.214.479
 
Tâm thức Phật giáo qua thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê trong Trường thơ Loạn
Trần Hoài Anh

 

 

1. Mở

Không phải ngẫu nhiên trong tác phẩm Phật giáo và nền văn hóa Việt Nam vốn là một bài diễn thuyết của Thích Mãn Giác được Ban Tu thư Đại học Vạn Hạnh xuất bản năm 1967, khi bàn về ảnh hưởng của Đạo Phật trong quá khứ đối với nền văn hóa Việt Nam, tác giả dẫn lời của một tạp chí Phật giáo đã viết ở bài xã luận cho rằng: “…Trong tâm hồn dân tộc Việt Nam thật đã sẵn có mầm mống tinh thần Phật giáo. Đạo Phật với dân tộc Việt Nam trong gần hai ngàn năm nay, bao giờ cũng theo nhau như bóng với hình trong cuộc sinh hoạt toàn dân. Đã là viên đá nền tảng cho văn hóa dân tộc, cố nhiên Phật giáo Việt Nam vĩnh viễn phải là một yếu tố bất ly của cuộc sống toàn diện. Ngày nay những hào nhoáng của một nền văn minh vật chất đã làm mờ mắt một số đông người, nhưng cơ bản của nền văn hóa dân tộc đang còn bền chặt, khiến cho người Việt Nam dù có bị lôi cuốn phần nào trong một thời gian, cũngđã hồi đầu trở lại với cội nguồn yêu dấu ngàn xưa.”[1]. Rồi ông đi đến kết luận: “Thật đúng như thế! Đạo Phật trong gần hai ngàn năm nay đã chan hòa đời sống của mình trong đời sống của dân tộc, đã vui cái vui của dân tộc, đã buồn cái buồn của dân tộc. Đạo Phật đã chi phối tất cả mọi sinh hoạt của con người Việt Nam từ triết lý đạo đức, qua kiến trúc, hội họa, âm nhạc đến văn chương, tư tưởng, tình cảm và nếp sống…” [2]

Còn theo Phan Xuân Sanh trong bài viết “Ảnh hưởng Phật giáo trong thi ca Việt Nam” (Đại học số 9/1959), thì cho rằng: “Thi ca và Đạo Phật trên xứ sở Việt Nam gặp nhau không do một sư tình cờ, cũng không do sự ép uổng mà trái lại chỉ là sự hòa nhịp của mọi tình ý cao thấp, mọi hình thức sống trong siêu nhiên cũng như trong thực tại đã kết thành thơ. Cái đêm hợp cẩn giữa thi ca với Đạo Phật thành tựu từ bao giờ chúng ta chưa biết nhưng chắc chắn nó đã tượng hình từ mấy nghìn năm khi dân tộc sửa soạn tâm tư đón Phật Giáo, khi lịch sử Việt Nam bắt đầu chớm nở. Và từ đó thi ca cùng Đạo Phật nương tựa nhau để trưởng thành và thắm đượm theo chiều tiến triển chung của lịch sử dân tộc.”[3]

Những khẳng định trên đã xác quyết việc ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với văn hóa Việt Nam, trong đó có văn học là một điều không thể phủ nhận. Trường thơ Loạn, một khuynh hướng thơ ca khởi từ Nhóm thơ Bình Định, một bộ phận của phong trào thơ Mới trong nền văn học Việt Nam hiện đại cũng không nằm ngoài từ trường văn hóa này. Vì vậy, việc ảnh hưởng của Phật giáo đối với thơ của các thi sĩ trong Trường thơ Loạn như Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê cũng là điều tất yếu. Tuy nhiên, đây không chỉ là sự ảnh hưởng đơn thuần thể hiện mối quan hệ giữa thi ca và tôn giáo mà đó còn là một sự hợp hôn diệu kỳ giữa thơ ca và  triết lý nhà Phật vốn đã được khởi nguồn từ truyền thống văn hóa dân tộc tự ngàn xưa, để từ đó hình thành nên tâm thức Phật giáo của thơ ca dân tộc, trong đó có Trường thơ Loạn.

 

2.Trường thơ Loạn với Tâm thức Phật giáo

 

2.1.Từ Nhóm thơ Bình Định đến Trường thơ Loạn

 

       Trong tiến trình vận động và phát triển của lịch sử văn học dân tộc, sự ra đời của trào lưu văn học lãng mạn giai đoạn 1930 -1945 là một tất yếu. Đây là dòng văn học có vai trò rất lớn trong việc hiện đại hóa nền văn học dân tộc mà bộ phận / thành tố tiêu biểu chính là phong trào thơ Mới 1932 -1945. Sự xuất hiện của phong trào thơ Mới không chỉ góp phần vào quá trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc mà còn mở ra cho dân tộc một “thời đại mới trong thi ca” như Hoài Thanh đã xác quyết, để từ đây, thơ ca dân tộc bắt đầu giả từ cái “ao làng” thơ ca truyền thống để bước ra “biển lớn” thi ca nhân loại, mở đầu cho tiến trình hội nhập của thơ Việt với thơ ca thế giới.

     Phong trào thơ Mới 1932 -1945 trong quá trình hình thành và phát triển đã có một sức hút rất lớn đối với thơ ca dân tộc, không chỉ đối với các nhà thơ trẻ chịu ảnh hưởng của Tây học như: Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Vỹ, Đoàn Phú Tứ, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê… mà còn tác động đến các nhà thơ thuộc trào lưu cựu học như: Tản Đà… Và sự thắng thế của phong trào thơ Mới ở các cuộc tranh luận về thơ Cũ và thơ Mới trong thời kỳ này đã cho thấy tầm ảnh hưởng, sự hấp dẫn và vị thế của phong trào thơ Mới trong nền thơ ca dân tộc làquan trọng và cần thiết như thế nào!? Và đây là điều không thể phủ nhận.

 

  Nói về cuộc tranh luận thơ Cũ và thơ Mới, không thể không nói đến cuộc diễn thuyết của nhà thơ Lưu Trọng Lư tại nhà Học hội Qui Nhơn thuộc thành phố Qui Nhơn, một trong những trung tâm văn hóa và học thuật lúc bấy giờ. Và, ở nơi khí quyển văn chương và học thuật này, không chỉ diễn ra các cuộc tranh luận văn học mà còn tạo tiền đề hình thành một nhóm thơ, có tên là Nhóm thơ Bình Định. Đây là một Nhóm thơ vốn là sự tập hợp của những người bạn có chung một tình yêu thơ ca và khát vọng hướng đến những sáng tạo mới mà theo Trần Thị Huyền Trang thì: “Nhóm thơ Bình Định là một hiện tượng văn học đã phát sinh và tồn tại trên đất Bình Định thời tiền chiến (1936-1945) Lực lượng tinh chất và nòng cốt của nhóm gồm bốn nhà thơ: Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên. Địa bàn hoạt động của Nhóm chủ yếu là khu vực thành Bình Định, huyện An Nhơn (nay là thị xã An Nhơn - HA)… Bốn nhà thơ của Nhóm đều có tài và chơi rất thân với nhau nên được giới văn chương Bình Định gọi là “Bàn thành tứ hữu”. Bàn thành tứ hữu giao du rất rộng nhưng không mở rộng nhóm thơ. Nhóm quan hệ mật thiết với anh em văn nghệ sĩ địa phương và cả nước. Những hoạt động của Nhóm gây tiếng vang rất lớn trên văn đàn đương thời.”[4] Và chính Nhóm thơ Bình Định là tiền đề khởi nguyên cho sự ra đời của Trường thơ Loạn. Song, khác với Nhóm thơ Bình Định, Trường thơ Loạn không chỉ là sự tập hợp những người bạn có tình yêu thơ ca đơn thuần để động viên nhau sáng tác mà còn là sự kết hợp của những nhà thơ có cùng quan điểm sáng tác, cùng hệ hình mỹ học được thể hiện qua các tuyên ngôn sáng tạo thi ca, như lời tựa tập thơ Điêu tàn của Chế Lan Viên:“Hàn Mặc Tử nói: Làm thơ tức là điên. Tôi thêm làm thơ là làm sự phi thường.Thi sĩ không phải là Người. Nó là Người Mơ, Người Say, Người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỉ, là Tinh, là Yêu. Nó thoát Hiện tại. Nó xáo trộn Dĩ Vãng. Nó ôm trùm Tương Lai. Người ta không hiểu được nó vì nó nói những cái vô nghĩa, tuy rằng những cái vô nghĩa hợp lý.”[5]Thành phần của Trường thơ Loạn,vì thế cũng khác với Nhóm thơ Bình Định. Bên cạnh ba nhà thơ vốn đã có từ trước trong Nhóm thơ Bình Định, Trường thơ Loạn có thêm nhà thơ Bích Khê, Người mà được Hàn Mặc Tử mệnh danh là “Thi sĩ Thần Linh”. Như vậy, Trường thơ Loạn được hình thành từ sự kết hợp của bốn gương mặt thơ khá nổi tiếng trên thi đàn lúc bấy giờ đó là: Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan, Bích Khê. Tuy mỗi người mỗi vẻ nhưng họ đã có một sự kết hợp lạ lùng tạo nên hệ giá trị của một vũ trụ thi ca độc đáo với nhiều dự phóng sáng tạo gây ấn tượng sâu sắc trong sự tiếp nhận của công chúng văn học, không chỉ lúc bấy giờ mà cho cả mai sau.

 

 Có thể nói từ Nhóm thơ Bình Định đến Trường thơ Loạn là một bước ngoặt / bước tiến trong sáng tạo thi ca của những thi sĩ không chỉ có tài năng, có thiên năng, có lòng yêu thơ đến si mê mà còn có khát khao cách tân thơ ca đến cháy bỏng mà các tác phẩm như: Gái quê, Thơ Điên (Hàn Mặc Tử), Điêu tàn (Chế Lan Viên), Tinh huyết (Bích Khê);Bến My Lăng (Yến Lan)… là những minh chứng đầy thuyết phục. Trong lịch sử tiếp nhận thơ của phong trào thơ Mới, trong đó có Trường thơ Loạn, tùy theo tầm đón đợi của từng thời kỳ, từng con người, có thể có những cách tiếp nhận khác nhau nhưng sựkhát khao sáng tạo và những giá trị về sự cách tân thi ca của các nhà thơ trong Trường thơ Loạn là điều mà người đọc không thểkhông công nhận. Và tôi hoàn toàn đồng ý với chia sẻ của Trần Thị Huyền Trang: “Hiện tượng các nhà thơ thuộc Trường thơ Loạn bằng lao động của mình sáng lập một trường phái sáng tác theo một khuynh hướng nhất định đã góp phần làm đa dạng và phong phú thêm cho nền thơ Việt Nam. Dù nó có hạn chế nhất định song vẫn là một hiện tượng nổi bật của văn học thời tiền chiến.”[6]

2.2.Hàn Mặc Tử -Hớp tinh khí muôn nămthành chánh quả

 

Vốn là “con rồng trong Nhóm “Tứ Linh” và là “Vị chúa của Trường thơ Loạn”, Hàn Mặc Tử tuy là con chiên ngoan đạo của Đức Ki tô, không những thế còn chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa phương Tây nhưng thi sĩ cũng là người biết trân quí những giá trị của văn hóa phương Đông trong đó có thơ ca. Việc ông mê làm thơ Đường từ nhỏ và làm thơ Đường rất hay, được cụ Phan Bội Châu khen ngợi cho thấy cái mật ngọt của văn hóa Đông phương đã thấm đẫm trong tâm hồn Hàn Mặc Tử như thế nào !? Song, cái chất mật ngọt của văn hóa Đông phương ấy trong Hàn Mặc Tử không chỉ có thơ Đường mà còn có tư tưởng của một số nhà hiền triết phương Đông trong đó có tư tưởng của Đức Phật. Và đây chính là cơ sở để hình thành tâm thức Phật giáo trong thi ca Hàn Mặc Tử. Vì vậy, đọc thơ Hàn Mặc Tử, bao giờ ta cũng bắt gặp sự kết hợp hài hòa giữa biểu tượng cao đẹp, tinh khiết qua hình ảnh Đức Mẹ nhân từ của Đạo Thiên Chúa với tinh thần từ bi của Phật giáo. Sự kết hợp lạ lùng này không chỉ làm cho hình ảnh Đức Mẹ Maria vốn là một biểu tượng của văn hóa phương Tây bỗng gần gũi thân thiện với văn hóa dân tộc và lời nguyện cầu của thi sĩ không những có sức nặng của sự huyền diệu mà còn tôn vinh sự nhân ái cao đẹp của Đức Mẹ : “Lạy Bà là đấng tinh truyền thánh vẹn /Giàu nhân đức giàu muôn hộc từ bi/Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy /Cơn lâm lụy vừa trải qua dưới thếTâu lạy Bà, Bà rất nhiều phép lạ / Ngọc như ý vô tri còn biết cả / Huống chi tôi là thánh thể kết tinh /Tôi ưa nhìn bắc đẩu rạng bình minh /Chiều cùng hết khắp ba ngàn thế giới…” (Thánh Nữ đồng trinh)

 

       Nếu không có sự thấm nhuần tư tưởng từ bi của nhà Phật như một diệu pháp cứu độ chúng sinh, trong đó có Hàn Mặc Tử cũng là một chúng sinh đang cần sự cứu độ bởi căn bệnh nan y mà thi nhân phải gánh chịu như một nỗi đau thân phận thì không có những câu thơ thể hiện sự kết hợp giữa niềm tin vào “phép lạ” của Thiên Chúa và sự“từ bi” của nhà Phật như thế!? Đây chính là biểu hiệncủa tâm thức Phật giáo trong thơ Hàn Mặc Tử và điều này đã tạo cho thơ Hàn Mặc Tử một hệ giá trị mới, độc đáo.Bởi, nói như Quách Tấn, một người bạn thân thiết và rất hiểu Hàn Mặc Tửthì“Trong tâm hồn của Tử không có những bức thành kiên cố ngăn cách tôn giáo của mình và tôn giáo của người, nhất là đối với Phật giáo.”[7]Phải chăng, từ cảm thức này mà Hàn thi sĩ đã xác quyết:Thơ tôi thương huyền di / Mọc lên đạo Từ Bi…(Cao hứng) Vì ông tin “Tín đồ nhà Phật lấy phút cuối cùng làm hạnh phúc.” (Chơi giữa mùa trăng)

 

       Không chỉ có Hàn Mặc Tử mà trong tâm thức người Việt Nam vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền văn hóa nông nghiệp với sông nước mênh mông nên tính cách con người cũng mềm dẻo, dễ thích nghi, dễ hòa hợp và việc chấp nhận sự hiện hữu của nhiều tôn giáo trên đất nước nói chung và trong mỗi con người nói riêng cũng là điều dễ hiểu. Vì thế, ở Việt Nam không có những sự xung đột tôn giáo đến cực đoan mà trái lại có sự dung hợp giữa các tôn giáo trong từng cộng đồng, trong mỗi con người. Và sự dung hợp này, ta có thể cảm nhận qua thơ Hàn Mặc Tử. Thế nên, tâm thức Phật giáo trong thơ Hàn Mặc Tử không thể hiện riêng biệt mà đang xen cùng đức tin của ông đối với Thiên chúa. Ta hãy nghe Hàn Mặc Tử chia sẻ:Có tin đồn xa đến / Có điềm lạ đêm nay / Đóng cửa mười phương lại / Dồn ánh sáng vào đây(Điềm lạ) Hay: Ta cho một dòng thơ rất mát /Mới tinh khôi và tinh sạch bằng hương /Trời như hớp phải hơi men ngan ngát / Đám muôn nghìn tinh lạc xuống mười phương…(Nguồn thơm)

    Rõ ràng, qua các diễn ngôn trong thơ Hàn Mặc Tử, ta thấy những thi ngữmang màu sắc tôn giáo của Đạo Ki Tô vốn được dùng trong Kinh Thánh như:Phép lạ;  Điềm lạ; Thánh Nữ đồng trinh; Ơn phước ; Dưới thế ; Tâu lạy Bà… và những thi ngữ vốn được dùng trong kinh Phật như: Từ bi ; Ba ngàn thế giới ;Mười phươngPhật đã được tác giả vận dụng một cách tinh tế, hài hòa trong từng câu thơ, đoạn thơ. Và đây cũng là một phẩm tínhcủa tâm thức Phật giáo trong thơ Hàn Mặc Tử như Phan Xuân Sanh đã suy ngẫm : “Hàn Mặc Tử từ niềm tin thơ đi rộng ra đã bắt gặp niềm tin đạo, qua những dòng thơ lung linh, huyền nhiệm của Hàn Mặc Tử chúng ta có nhiều dịp thấy ẩn hiện một dòng linh hồn nối từ lòng người tới trăng sao, từ Hàn Mặc Tử tới ba ngàn thế giới, một dòng linh hồn ẩn náu trong những cụm sen cổ kính mọc lên giữa dòng sông bằng ngọc, giữa suối hồ thất bảo.”[8]

Là một người am hiểu triết lý Phật giáo và văn hóa phương Đông, nên, tuy là một con chiên ngoan đạo nhưng Hàn Mặc Tử không chỉ tin vào sự cứu rỗi của Thiên Chúa mà còn tin vào sự giải thoát của Phật Pháp đối với phận số con người. Vì vậy, trước những nỗi đớn đau về thể xác và tinh thần bởi cơn bệnh nan y dày vò, Hàn Mặc Tử không chỉ nguyện cầu Thiên chúa và Đức Mẹ Maria mà thi nhân còn khẩn nguyện ở lòng từ bi và sự cứu độ của Đức Phật. Và đây cũng là sự biểu hiệnkhác của tâm thức Phật giáo trong thơ Hàn Mặc Tử: “Mỉa mai thay cho phượng hoàng si dại / Là ta đây đương ở kiếp muôn chim / Trở lại trời tu luyện với muôn đêm /Hớp tinh khí muôn năm thành chánh quả” và “Lời nguyện gẫm xanh như màu huyền diệu / Não nề lòng viễn khách giữa lúc mơ / Trời từ bi cảm động ứa sương mù / Sai gió lại lay hồn trong kẽ lá.” (Hãy nhập hồn em). Vì thế, khi nghĩ về ảnh hưởng Phật giáo trong thơ Hàn Mặc Tử, Phan Xuân Sanh Viết: “Vũ Hoàng Chương nhà thơ Việt Nam giữa thế kỷ XX cũng đã nói nhiều mối tình của con người sống động qua không gian và thời gian. Nếu họ Vũ với giọng thơ nồng nàn, cổ kính đã thi vị hóa quan niệm luân hồi trong Phật giáo, thì Hàn Mặc Tử sau những ngày chạy vạy với số kiếp đọa đầy ở trần gian cũng biến thể và xê dịch đến cho gần cõi Cực Lạc, giải thoát của đức A Di Đà trong Phật giáo.”[9]Rồi, ông lại tiếp tục luận giải: “Thế giới của Phật A Di Đà là thế giới của mười phương của hào quang vô lượng và đức Từ bi vô cùng. Kinh A Di Đà có lời nguyện: “Nam mô an dưỡng quốc, cực lạc giới Di đà hãi hội vô lượng quang Như lai.” [10]

    Và cũng theo Phan Xuân Sanh khi luận giải về hình tượng chim tước trong thơ Hàn Mặc Tử trong đoạn thơ : “Ngoài không gian rất mát /Chim thanh tước ra đời / Nêu cao hơn tiếng nhạc / Mùa hát sẽ xanh tươi” Thì “Chim Thanh tước, thế giới mười phương đấy là hình ảnh tượng trưng của cõi đời thênh thang và giải thoát, của thời gian vô tận và không gian mênh mông đã được trình bày một cách hết sức kiều diễm và phong phú trong kinh A Di Đà.” [11]

  Là một thi sĩ đa tình và đa tài, sức mạnh tâm linh trong thơ Hàn Mặc Tử không chỉ là kết quả của niềm tin tôn giáo qua các đấng chí tôn mà còn tạo nên bởi tình yêu đối với những người con gái mà Hàn Mặc Tử đem lòng yêu thương. Những người phụ ấy có thể ông đã gặp hoặc chưa từng gặp trong đời, cũng có thể là một Sư cô đã rủ sạch bụi trần nấp mình ở chốn thiền môn. Nhưng với Hàn Mặc Tử, điều đó không thể ngăn cản cảm xúc của ông khi mà hình ảnh họ đã chạm vào trái tim của Thi sĩ, đã trở thành một niềm thổn thức trong thơ ông. Đây phải chăng, cũng là một biểu hiện của tâm thức Phật giáo trong thơ Hàn Mặc Tử. Ta hãy nghe thi sĩ tự tình: “Mới lớn lên trăng đã thẹn thò / Thơm như tình ái của Ni cô / Gió say lướt mướt trong màu sáng /Hoa với tôi đều cảm động sơ” (Huyền ảo). Và nói như Phan Xuân Sanh; “Phật giáo ảnh hưởng đến thơ Hàn Mặc Tử, ngoài phần ảnh hưởng về ngôn từ trong hình thức câu thơ, còn có phần cảm giác mầu nhiệm có thể xem như những ảnh hưởng của tâm hồnthoảng đượn tinh thần đạo Phật khi nhà thơ quên thực tại chua cay biến thể và hòa mình vào “Bất giác”, vào cõi trời Đạo lỵ, Đầu xuất mơ về những cảnh sắc lung linh, kiều diễm nơi chốn giải thoát của đức A di đà. Đạo Phật đến với nhà thơ Hàn Mặc Tử và gây nên ít nhiều ảnh hưởng còn cho chúng ta cái cảm tưởng này: tinh thần Phật giáo thấm qua cuộc đời thi sĩ như sự tràng chiếm tiềm tàng của một niềm yêu nối từ nhà thơ đến người thiếu nữ hiền lành, đến Thương Thương, đến những cô gái đồng hương, hay bất cứa ai dù một ni cô trong đám giai nhân từ xa xôi giử lại.

   Những tình cảm đơn sơ, thanh đạm đượm một hương vị Phật giáo này của Hàn Mặc Tử phải chăng là những tình cảm thực nhất? Thực vì đơn sơ thanh đạm, thực là vì tiếng vọng của tâm tư là âm hưởng của một linh hồn đang xê dịch bên cạnh cánh cửa từ bi của đạo Phật?”[12]Và đây cũng là cảm nhận của Thế Phong trong tác phẩm Hàn Mặc Tử,  Quách Thoại – Cuộc đời rướm máu – nhà thơ siêu thoát, thì : “Ngoài đạo học Thiên Chúa Giáo, Hàn còn yêu mê đạo Phật và nhất là tình ni cô, Hàn đã từng cảm tâm hồn cao cả thanh khiết. Thế cho nên Hàn cầu mong: “Cho tôi hoa đền Ngự /  Cho tôi lòng ni cô[13]

Phải chăng, từ sự huyền diệu này mà thi nhân đã khát khao một ân sủng để có thể “Trở lại trời tu luyện với muôn đêm /Hớp tinh khí muôn nămthành chánh quả”(Phan Thiết! Phan Thiết!) Và đây là biểu hiện thiêng liêng của tâm thức Phật giáo trong thơ Hàn Mặc Tử.

 

2.3. Chế Lan Viên -Nỗi sầu tư nhuần thấm cõi Hư vô!

 

      Có thể nói, một trong những tư tưởng của nhà Phật ảnh hưởng đến tâm thức nhân loại là thuyết “Tứ Diệu đế”. Đức Phật đã từng dạy: Đời là bể khổ nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước bể. Vì vậy, cuộc đời con người, suy cho cùng đều không thoát khỏi vòng vây của những khổ lụy ở đời. Bởi thế,một thi sĩ “ngông nghênh” và “ngang tàng” một cách đáng yêu như Nguyễn Công Trứ cũng đã ngửa mặt lên trời mà than: “Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe / Trần có vui sao chẳng cười khì?” (Chữ Nhàn - NCT). Phải chăng, sự cảm nhận của nhà thơ tài hoa họ Nguyễn ấy về nỗi khổ của phận người ai dám bảo là không thể hiện tâm thức của tư tưởng nhà Phật!?. Còn với Chế Lan Viên: “Nếu không có những tháp Chàm đổ nát ở Bình Định, tiếng chuông nhà thờ đạo Kim Châu, tiếng tụng kinh gõ mõ của thân phụ nhà thơ trước bàn thờ Phật thì không thể có Điêu tàn.”[14]Vì vậy, có thể nói, Điêu tàn đã thể hiện khá rõ tâm thức Phật giáo trong thơ Chế Lan Viên. Đây cũng điều là ám ảnh suốt hành trình sáng tạo thơ của Chế Lan Viên, không chỉở thời ông tham gia Trường thơ Loạn của thuởĐiêu tàn mà còn thể hiện cả ở thời kỳ nhà thơ đi theo cách mạng và kháng chiến mà những bài thơ trong Di cảo của ông là một xác chứng cho vấn đề  này. Thế nên, không phải ngẫu nhiên mà những ngày còn lại của đời mình ông đặt tên cho nơi ở của mình là “Viên Tĩnh Viên”.

 

Tâm thức Phật giáo trong thơ Chế Lan Viên, thuở ông tham gia Trường thơ Loạn như đã nói ở trên đó là sự cảm nhận của ông về nỗi khổ ở đời. Đây không chỉ là nỗi ám ảnh trong thi giới mà còn là cảm thức sáng tạo của Chế Lan Viên, thuở “Điêu tàn” đến nỗi ông phải xót xa than thở: “Biển Trần Gian thuyền hồn không gặp bến /Mà sầu não khổ đau nào ngớt đến!” (Máu xương). Không những thế, ông còn gào lên giữa cuộc đời để mong tìm một chốn bình an, tránh xa những phiền muộn khổ đau dù đó chỉ là một tinh cầu đầy băng giá: “Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh / Một vì sao trơ trọi cuối trời xa/ Để nơi ấy tháng ngày tôi lẫn tránh/ Những ưu phiền đau khổ với buồn lo!”. (Những sợi tơ Lòng). Nhưng nào, thi nhân có thoát được biển khổ cuộc đời khi cái nghiệp của thân phận lưu đày vẫn còn trêu ngươi thi nhân ở phía trước. !?

Và như bao thi sĩ khác trong phong trào thơ Mới, Chế Lan Viên cũng đang vùng vẫy để tìm cho mình một sự cứu rỗi, một sự giải thoát nhưng dường như càng cố đi tìm thì thi nhân lại càng đối diện với sự tuyệt vọng. Bởi, từ trong ý thức nhà thơ đã nhận ra: “Ngày mai đây muôn loài rồi tan rã / Vũ trụ kia rồi biến ra hư không! (Bóng tối) Và dự cảm về sự “hư không” này phải chăng, là hệ quả từ quan niệm xem cuộc đời là bể khổ mà Chế Lan Viên đã ảnh hưởng từ triết lý của nhà Phật. Vì vậy, đây cũng là một bình diện của tâm thức Phật giáo trong thơ của Chế Lan Viên thuở Điêu tàn. Chính vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi cảm thức “hư không” được thể hiện khá nhiều trong Điêu tàn qua lớp từ “hư vô” được Chế Lan Viên sử dụng. Nào là “giữa hư vô”, “trong cùng thẳm hư vô”, “cõi hư vô”, “Chốn hư không” và chính phận số của thi nhân cũng đang trôi trong những hoang mang vô định như ông đã tự vấn: “Mà phải đâu đã đến ngày tiêu diệt! / Ai bảo giùm: Ta có có Ta không? (Ta). Có hay không !? Một câu hỏi đầy tính triết luận của sự vô thường và cũng là hiện thân của một thế giới: “Nhầm thuấn cõi hư vô” như chính lời thơ Chế Lan Viên đã viết: “Quả đất chuyển dây lòng tôi rung động /Nỗi sầu tư nhuần thấm cõi Hư vô! (Những sợi tơ lòng)

 

    Khi luận giải về sự ám ảnh của “Cõi hư vô” trong Điêu tàn của Chế Lan Viên, Hoàng Trọng Miên trong hồi ký của mình đã cho rằng: “Bình Định với trời xanh thẳm trên tháp Chàm cô đơn. Qui Nhơn với biển rào rạt mênh mông đã dựng lên một cõi hư vô ớn lạnh không ngừng ám ảnh Chế Lan Viên thời trẻ.”[15]Rồi, ông đi đến xác quyết “Hư vô siêu hình đã là một nỗi băn khoăn rộng lớn của anh trong thời tuổi hai mươi.”[16]Thiết nghĩ, luận giải của Hoàng Trọng Miên là chưa thật thuyết phục, chưa chạm đến được chiều sâu tâm thức của thi giới siêu hình “nhuần thắm cõi hư vô” trong Điêu tàn của Chế Lan Viên. Bởi, bản thân những cảnh vật đó không thể tạo nên tâm thức của thế giới siêu hình trong thơ Chế Lan Viên mà cần phải có sự ảnh hưởng từ một tư tưởng triết học nào đó mới đủ cơ sở tạo cho thi nhân có cái nhìn hiện thực đầy tính chất siêu hình như thế!? Và một trong những hệ tư tưởng mà Chế Lan Viện chịu ảnh hưởng, không thể không có tư tưởng hư vô của Phật giáo và đây chính là một biểu hiện của tâm thức Phật giáo trong thơ Chế Lan Viên. Bởi, chính Chế Lan Viên cũng tự ý thức về sự hư vô của thân phận mình khi ông tự nhận: “Tôi là kết tinh của ánh trăng trong /Sao không cho tôi đến chốn hư không?(Tắm trăng). Vì vậy, nghĩ về nỗi đau khổ như một hiện hữu trong thi giới của Chế Lan ViênĐỗ Long Vân cho rằng: “Tất cả sẽ qua đi. Nhưng sự đau khổ ấy sẽ muôn đời còn mãi. Hình như trong Chế Lan Viên sự đau khổ là một tuyệt đối. Không biến cố nào giải thích được nó. Không có gì có thể làm nó thuyên giảm. Nó là chất lượng của sự sống, và tụ lại thành tim và mạch máu của con người”[17]Và cũng theo Đỗ Long Vân, tâm thức Phật giáo đã trở thành một nỗi ám ảnh trong thi giới Chế Lan Viên khi ông cho rằng: “Thế giới Chế Lan Viên là một thế giới lưỡng cực hóa và sự lưỡng cực hóa ấy của thế giới sẽ cuốn theo một sự tương biến giữa những giá trị đối lập nhau: Không và Có, Hư và Thực, Sống và Chết, Não và Bùn, Tinh Thần và Thể Chất, Dĩ Vãng và Hiện Thời, Ánh Sáng và Bóng Tối,Đau Khổ và Vinh Quang sẽ thường xuyên trao đổi những đặc tính.”[18]Ngoài những biểu hiện trên, một bình diện khác thể hiện tâm thức Phật giáo trong thơ Chế Lan Viên thuở ông tham gia Trường thơ Loạn đó là dấu ấn của tư tưởng luân hồi của Phật giáo trong thơ Chế Lan Viên khi thi sĩ muốn thoát Cõi Ta để đi tìm sự giải thoát ở một Cõi Khác, một kiếp khác mà ông tin rằng mình có thể sống an lạc, không còn bị bủa vây trong những sự đau khổ của phận người trần thế: “Ôi biết làm sao cho ta thoát khỏi/ Ngoài Cõi Ta ngập chìm trong bóng tối / Cho linh hồn vụt đến xứ Trăng Mây / Cho ta là không phải của ta đây /Mà sáp nhập vào tuổi tên cây cỏ.” (Cõi Ta)

 Mong “sáp nhập tên tuổi mình vào cây cỏ”, phải chăng là ước mơ về sự hóa thân của kiếp luân hồi theo triết lý của Phật giáo mà có lẽ Chế Lan Viên đã nhận thức rất rõ về tư tưởng này. Bởi, nói như Đỗ Long Vân “Thế giới Chế Lan Viên là một thế giới không ngừng đi đến diệt vong.”[19] Và từ những trong sự diệt vong ấy sẽ có những biến đổi theo vòng quay của sự luân hồi, một luận thuyết mà Phật giáo đã chỉ ra. Đây cũng chính là cơ sở hình thànhNỗi sầu tư nhuần thấm cõi Hư vô!, một biểu hiện của tâm thức Phật giáo trong thơ Chế Lan Viên thời kỳ thi nhân tham gia Trường thơ Loạn.

 

2.4. Bích Khê -Quả nhân duyên mùi mẫn vị phong trần.

 

Khác với Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên, tâm thức Phật giáo trong thơ Bích khê là sự kết tinh từ chính những thăng trầm trong cuộc đời thi nhân như định mệnh, thể hiện qua những việc làm cụ thể như một sự ám ảnh của vô thức và tâm linh. Vì vậy, trong những lúc tuyệt vọng nhất, đau khổ nhất, chán nản nhất, Bích Khê tìm đến với Phật giáo như một cứu cánh cho sự giải thoát, không chỉ cho đời ông mà cho cả cho thơ ông. Thế nên, trong thơ Bích Khê hình ảnh ngôi chùa với lời kinh, tiếng kệ luôn gắn bó với đời ông, với thơ ông. Và cho đến khi đã đi ra ngoài cõi sống (từ dùng của Tạ Tỵ - HA) thân xác ông cũng nằm lại với quê hương trong sự vang vọng của lời kinh ở Chùa Ông Thu Xà: “Mây trắng bay về núi Thạch chưa?/ Chùa Ông chim hót ở ngoài mưa / Ngồi trên gò mã nghe chuông vọng / Sắc cỏ thơm mùi kinh sách xưa.” (Chùa Ông Thu Xà) và trong âm vang tiếng chuông của Chùa Thiên Ấn soi mình bên giòng sông Trà thơ mộng: “Trà giang, Thiên Ấn chuông gầm sóng / Vang tiếng ngàn năm đất Cẩm Thành …. Xót hồn cổ độ sương vài giọt / Xịch bóng tà huy nguyệt mấy canh / Nghìn dặm cố nhân đâu đó tá ? / Cánh chim kêu lạnh ngập trong cành. » (Trên núi Ấn nhìn Sông Trà). Và tất cả những điều đó đối với ông là cả một miền ký ức, là một cõi sống được soi chiếu từ tâm thức của Phật giáo ẩn chứa trong thơ ông, trong tâm linh ông như chính ông đã cảm nhận: “Trăng sáng giữa trời trong / Soi về miền cổ độ / Lòng ta bến đò xưa / Bóng trăng sao chẳng tỏ. » (Trăng sáng bến đò xưa). Những điều này đã được Quách Tấn chia sẻ trong tác phẩm Đời Bích Khê, (Lửa Thiêng xuất bản Sài Gòn,1971). Theo Quách Tấn, khi bị trọng bịnh, Bích Khê đã đến với cửa Thiền để tìm những ngày tháng an lạc cho cuộc đời. Ta có thể cảm nhận được điều này qua lời tâm sự với người mẹ mà ông hết mực kính trọng và yêu thương: “Cảnh thanh tịnh hợp với sức khỏe của con. Vậy mẹ cho con vào chùa ở, trước để di dưỡng tinh thần, sau nghiên cứu kinh điển nhà Phật cho thêm rộng kiến thức. Thế là cùng với chú tiểu đồng 12 tuổi, Khê đến ở chùa Phú Thọ.”[20]Và đây là tiền đề tạo cảm hứng để ông sáng tác những vần thơ nhuốm màu Phật học: “Tôi lạy trời ! tôi lạy cả vô biên! / Tình tôi sững vì ăn nhiều ánh sáng / Nao nao quá; hồng thơm vì ửng rạng / Quả nhân duyên mùi mẫn vị phong trần” (Nàng bước tới)  Hay “Người nghệ sĩ lòng buồn hơn cổ độ / Khóc Ngây thơ mà tóc bạc không hay… / Lòng chết đi nhưng máu vẫn cuồng say / Nhị cung cầm cho vang lên tiếng nhạc” (Cô gái ngây thơ)  Để rồi : “Ánh ra màu sắc tinh vi; /Rưng rưng yến sáng những gì chiêm bao! / Thơ bay về tắm mát suối âm ty / Xác tôi chết lạnh trôi đi /Lấy ai siêu độ từ bi; /Hồn xiêu hồn đến quy y bên nàng!” (Thơ bay). Thơ viết về tình yêu mà đọc lên như những lời kinh cầu ở chốn Phật tràng.

Nhưng có thể nói, minh chứng sinh động nhất, xác tín cho tâm thức Phật giáo trong thơ Bích Khê là hình ảnh đức Như Lai hiện hữu trong chùm thơ ông viết về Ngũ Hành Sơn. Bởi lẽ, nếu trong tâm cảm thi nhân không có sự ám ảnh của Đức Phật thì không thể xuất hiện những câu thơ đầy ám gợi về không khí Phật đài giữa núi non hùng vĩnhư thế: “Giữa trời bóng nguyệt lồng vô động /Trên biển mù sương thổi lại non / Tiền, hậu hai bài ngâm chửa dứt /Hồi chuông thiên cổ dộng boong boong. (Ngũ Hành Sơn) Hay :“Bí mật trời Thiên Thai /Động Huyền không bốc khói! ….. Chập chờn trong tiếng chuông / Điểm kinh ngân thánh thót / Chập chờn trong bể sương / Lượn theo nếp y thường… Hai ta là mãnh vỡ / Của ngai báu thiên đường (Ngũ Hành Sơn – Tiền) hoặc “Lác đác trổ mưa bông:/ Phật Như Lai thoạt hiện /Trên bảy sắc cầu vồng / Quái thay hòn Non Nước /Nghe giảng đủ mười tông! /Muôn năm lòng đá rắn / Nhuần thắm giọt từ bi …. /Ta nay lên ngọc điện / Chỉ nhượng Phật Như Lai!/ Lượn theo thế biển rừng /Xếp lại hình đá cỏ.” (Ngũ Hành Sơn – Hậu)

 Song, một điều khá thú vị là niềm tin của Bích Khê vào Đức Như Lai không phải là một niềm tin mù quáng của một Phật tửmộ đạo đơn thuần mà ở ông, niềm tin ấy được thắp sáng bằng những tri thức triết học mà ông không chỉ cảm nhận mà còn trải nghiệm qua chính cuộc đời mình. Tâm thức Phật giáo trong thơ Bích Khê là sự nghiệm sinh từ thế giới “mười phương” của Phật Pháp được chưng cất từ cõi trần thế cùng những tín niệm mà ông cảm nhận từ những tôn giáo khác, trong đó có Ki Tô Giáo. Vì vậy, khi tranh luận với Quách Tấn về triết lý Phật giáo, Bích Khê đã khẳng định : “Thiên đàng và Niết Bàn theo tôi là hai tên chỉ một chốn và Đạo Phật, Đạo Thiên Chúa… là những con đường để đi tới chốn cực lạc và vĩnh cửu đó vậy.”[21] Quan niệm này của Bích Khê trong một chừng mực nào đó có sự tương hợp với quan niệm của Hàn Mặc Tử mà chúng tôi đã phân tích ở trên khi nói về sự dung hợp giữa tư tưởng Thiên Chúa giáo và Phật giáo trong thơ Hàn.  Và đây cũng là điều cảm nhận về thơ Bích Khê của Chế Lan Viên : “Thơ có thứ đơn chất và loại đa chất, có thứ là nguyên chất, có thứ lại là hợp chất, hóa chất kia. Khê thích biến hóa, tổng hợp. Anh nhặt các chất, cái thì bên Tây, cái thì bên Tàu, cái trên tòa sen, cái ở hang âm phủ, cái ở hồn anh, cái ở ngoài đời, đầu cua tơ nheo trên trời dưới bể rồi bỏ cái lò bát quái thơ của anh mà nung lên vạn độ, bỏ vào cái hồ lô thơ anh mà lắc đến triệu lần. Từ đấy sẽ chảy ra chất thơ anh tâm niệm.”[22]Đó là chất thơ Quả nhân duyên mùi mẫn vị phong trần, một biểu hiện của tâm thức Phật giáo trong thơ Bích Khê.

 Và phải chăng, Tâm thức Phật giáo trong Trường thơ Loạn qua thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê cũng là “một hợp chất” được kết tinh từ sự dung hợp tư tưởng của những nhà hiền triết Đông - Tây. Vì vậy, nó có giá trị nhân bản sâu sắc, góp phần quan trọng trong việc thanh lọc tâm hồn con người, không chỉ cho thời đã qua mà còn cho hôm nay và cho cả mai sau.

  1. Kết

Sự xuất hiện của Trường thơ Loạn có thể nói là một bước đột phá được khởi đi từ Nhóm thơ Bình Định. Và như tên gọi, thật sự nó đã tạo nên một sự “nổi loạn” mang tâm thức hiện sinh được thể hiên qua những “tuyên ngôn” về thơ của Hàn Mặc Tử, của Chế Lan Viên, của Bích Khê mà đương thời không phải ai cũng cảm thông và chấp nhận. Nhưng dù chấp nhận hay không thì Trường thơ Loạn vẫn hiện hữu, vẫn tồn tại, vẫn đóng góp cho sự cách tân của thơ Việt về nhiều phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Đây là một hệ giá trị không thể phủ nhận mà sự bất tử của các tác phẩm như: Gái quê, Đau thương; Xuân như ý; Chơi giữa mùa trăng củaHàn Mặc Tử; Điêu tàn của Chế Lan Viên, Tinhhuyết, Tinh hoa của Bích Khê trong tâm thức và tâm cảm của người tiếp nhận, dù có trải qua những truân chuyên, những lận đận, thậm chí những sự vùi dập một cách có ý thức của một thời không xa, trong đời sống văn học dân tộclà một minh chứng cho những giá trị vĩnh hằng ấy. Và trong các hệ giá trị này có hệ giá trị của Tâm thức Phật giáo qua thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê trong Trường thơ Loạn như đã phân tích ở trên. Phải chăng, Tâm thức Phật giáo này đã góp phần cùng với những hệ tư tưởng Đông Phương và Tây Phương khác làm nên giá trị nhân văn cho Trường thơ Loạn. Bởi lẽ, nói như Phan Xuân Sanh:“Đạo Phật đến với nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng, chỉ có nghĩa là con người phải trở về năng lực cao cả của mình, sự có mặt của Phật giáo chỉ có nghĩa như sự đập vỡ những bất công, những mê muội để đòi hỏi cho nhân sinh cái quyền sống, quyền tự lập và sáng tạo.”[23]Và còn gì cao đẹp hơn trên cõi đời nầy, khi con người được phát huy “năng lực cao cả của mình” để “đập vỡ những bất công, những mê muội để đòi hỏi cho nhân sinh cái quyền sống, quyền tự lập và sáng tạo” trong một xã hội đượcxây nên bởi lòng từ bi và tinh thần bác ái. Và đây cũng là thông điệp mà bài viết này muốn được chia sẻ…

 

Xóm Đình An Nhơn, Gò Vấp, đầu mùa mưa 2018

 Sài Gòn 12/5/2018

 

 

 



[1]Thích Mãn Giác, Phật giáo và nền văn hóa Việt Nam, Ban Tu thư Đại học Vạn Hạnh xuất bản, Sài Gòn, 1967, tr.17,18

[2]Thích Mãn Giác, Phật giáo và nền văn hóa Việt Nam, Ban Tu thư Đại học Vạn Hạnh xuất bản, Sài Gòn, 1967, tr.18

[3] Phan Xuân Sanh, “Ảnh hưởng Phật giáo trong thi ca Việt Nam”, Tạp chí Đại học số 9/1959, tr.20

 

[4]Trần Thị Huyền Trang , Hàn Mặc Tử - hương thơm và mật đắng, NXb Hội Nhà văn, H, 1997 tr.86

 

[5]Ngô Viết Dinh, (tuyển chọn và biên tập), Đến với thơ Chế Lan Viên, Nxb. Thanh niên, Hà Nội 2000, tr.153

[6]Trần Thị Huyền Trang, Hàn Mặc Tử - hương thơm và mật đắng, NXb Hội Nhà văn, H, 1997, tr.94

[7]Trần Thị Huyền Trang, Hàn Mặc Tử hương thơm và mật đắng, NXb Hội Nhà văn, H, 1997 tr. 194

[8]Phan Xuân Sanh, “Ảnh hưởng Phật giáo trong thi ca Việt Nam”, Tạp chí Đại học số 9/1959, tr.40

[9]Phan Xuân Sanh, “Ảnh hưởng Phật giáo trong thi ca Việt Nam”,  Tạp chí Đại học số 9/1959, tr.38

[10]Phan Xuân Sanh, “Ảnh hưởng Phật giáo trong thi ca Việt Nam”,  Tạp chí Đại học số 9/1959, tr.39

[11]Phan Xuân Sanh, “Ảnh hưởng Phật giáo trong thi ca Việt Nam”,  Tạp chí Đại học số 9/1959, tr.40

 

[12]Phan Xuân Sanh “Ảnh hưởng Phật giáo trong thi ca Việt Nam”, Tạp chí Đại học số 9/1959, tr.42

[13]Thế Phong, Hàn Mặc Tử, Quách Thoại – Cuộc đời rướm máu – nhà thơ siêu thoát, Đại Nam Văn Hiến xuất bản, Sài Gòn,1965, tr.49

[14] Trần Hoài Anh, Thơ, Quan niệm và cảm nhận, Nxb.Thanh niên, Hà Nội, 2010, tr.14

[15]Ngô Viết Dinh (tuyển chọn và biên tập), Đến với thơ Chế Lan Viên, Nxb.Thanh niên, Hà Nội 2000, tr. 19-20

[16]Ngô Viết Dinh (tuyển chọn và biên tập), Đến với thơ Chế Lan Viên, Nxb.Thanh niên, Hà Nội 2000, tr.21

[17]Đỗ Long Vân, “Thử phát họa một bản đồ của Địa ngục Theo Chế Lan Viên” Nghiên cứu văn học số 6/1968, tr.71.

[18]Đỗ Long Vân, “Thử phát họa một bản đồ của Địa ngục Theo Chế Lan Viên”  Tạp chí Văn học ra ngày 20/8/1974, tr.47

[19]Đỗ Long Vân, “Thử phát họa một bản đồ của Địa ngục Theo Chế Lan Viên” Nghiên cứu văn học số 7-8/1968,  tr.125

[20]Quách Tấn, Đời Bích Khê, Lửa Thiêng xuất bản, Sài Gòn,1971, tr.27

[21]Quách Tấn, Đời Bích Khê, Lửa Thiêng xuất bản, Sài Gòn,1971, tr.168

[22] Thanh Thảo, Lại Nguyên Ân (tuyển chọn), Thơ Bích Khê, Tuyển tập, Hội Nhà văn Việt Nam – Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Ngãi, Xuất bản, năm 2005, tr.165

[23]Phan Xuân Sanh, “Ảnh hưởng Phật giáo trong thi ca Việt Nam”, Tạp chí Đại học số 9/1959, tr.21

 

Trần Hoài Anh
Số lần đọc: 2653
Ngày đăng: 19.12.2018
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Cõi nhân sinh trong Milano Sài Gòn, đang về hay sang? của Trương Văn Dân - Thiện Mỹ
[Thử một cách đọc bản thảo thơ: Trường hợp “Những mùa hoa anh nói” của Trương Anh Tú]* - Đỗ Quyên
Hoa tri ân bật nở - Nguyễn Thánh Ngã
Bùi Minh Vũ: Tiếng-thơ-siêu-thực-chính ngọ - Du Tử Lê
Ngõ Quê độc đáo trong “Hương Quê” của Đặng Xuân Xuyến - Nguyễn Xuân Dương
Trần Doãn Nho người dẫn nắng đi chơi - Nguyễn Lệ Uyên
Elena Pucillo Truong: Đi ngược để xuôi dòng - Nguyễn Thị Tịnh Thy
Tính ẩn dụ trong thơ Lý Thương Ẩn - Mai Văn Hoan
Mơ quê trong “Xóm cỏ” của Nguyễn Khôi - Đặng Xuân Xuyến
Mắt nhìn nhau một tối - Mang Viên Long
Cùng một tác giả
Thanh Thảo và Thơ (tiểu luận)