TRANH VẼ: ‘Chiến sĩ vô danh / Unknown Warrior’ Khổ 15” X 20” Trên giấy cứng. Acrylics+mixed media. VCL# 2562019
« Non; je ne regrette rien »*
Edith Piaf
Hôm nay ông Thịnh dậy sớm hơn mọi khi. Vấn điếu thuốc lá, nhả khói đục, nhắp chén trà trong sương sớm . Ông dõi mắt ra ngoài, sương giăng đầy không gian, bụi tre còn đương ngủ, sao mai lấp ló cuối chân trời rồi lủi vào đám mây mờ. Bầy heo, gà khua máng, rục rịch ở chuồn sau. Buổi tinh mơ, không khí trong lành, cảnh thôn dã êm đềm tạo ấn tượng cho tình yêu; yêu đời, yêu người.
Ngoại giới trầm lắng, con người trầm lắng. Ông ngồi ôm suy tư, ngọn lửa cuối bếp rực cháy, dội lên, soi gương mặt hốc hác, đầu cúi xuống, tóc nhuốm màu, râu mép khô cứng, kéo gương mặt ông trỉu xuống với thời gian. Chén cháo gạo đỏ trên tay, ăn chậm rãi. Bên ngoài; trời tản rạng, có tiếng người qua lại, gió vuốt mấy tàn cây nghe xào xạt.
- Tui về bên ngoại, chiều túi tui lên. Ông liệu cơm nước với thằng Đực. Bà vợ nói.
Không nói, ông rít điếu thuốc, mùi khói nặng của lá thuốc khô. Ông lầm lủi đi ra ngoài, đoạn ngẩn đầu nhìn trời, tiếng thở ứ đọng trong họng. Mặt trời đỏ, xuyên thủng mấy lùm cây, ánh sáng lóng lánh chiếu, lá me bay, tàn me sưa rệt, ông bẻ lưng ngồi đan giỏ tre, mắt lơ đãng, ý nghĩ mông lung. Ông thả tiếng thở dài.
Bà Ngót rời nhà khi trời vừa sáng, qua khỏi bờ dậu bà đi nhanh, bước chân liến thoắng, tay nách rổ mây đi về hướng đông, bóng mờ dần, loáng thoáng chiếc nón lá và màu áo nâu phai, bà chìm dần vào cõi xa. Xế trưa thì bà đến làng Sình. Dọc bên đường đất chẻ ra làm hai, đầm rau muống xanh thẳm, hoa súng nở, lá súng dán lên mặt nước, hương sen bay lại. Bà cúi đầu lách bước vào xóm vắng, chó sủa, con đường mòn quạnh hiu, mùi rạ bốc lên, bà nhớ bến nước, vườn rau, ruộng rạ của tuổi thơ. Bà không đi xa ngoài tầm nhìn đó từ ngày lấy chồng cho tới khi sinh ra Đực, hình ảnh quê hương chôn trong người bà. Nhắc đến Đực, vướng mắt, bà nuốt giọt đắng vào người…
- Chị mới về ạ; uống miếng nước chè. Trời ngoài nóng dữ. Người em nói.
Mừng thấy chị về thăm quê. Bà Ngãi kém hơn chị ba tuổi, nét già dặn; vợ chồng Ngãi có hai con, thằng Ngọt con Tần.
- Mấy đứa đi đâu hết? Bà Ngót hỏi.
- Tụi nó ngoài ruộng, chạng vạng mới vô. Người em nói.
Ngãi kể cho chị nghe nhiều chuyện vui buồn trong thôn. Lát sau, bà hỏi Ngãi.
- Bà Lợi lúc này ra răng? Con Thơm có chồng chưa? Bà Ngót nói.
Bà thăm dò ý tứ xem Ngãi có nói gì thêm không, chuyện của Đực luôn ám ảnh bà có khi sợ người ta biết về gia đình mình. Ngãi cười nói vô tư và chắc chắn không hay biết suy nghĩ của chị mình. Bà Ngãi gặp ông Thịnh ngày cưới và ngày sinh ra Đực đâu đó một hai lần. Hình ảnh đó đứng lại cho tới bây giờ.
- Chị hỏi thăm bà Lợi làm chi rứa? Ngãi hỏi.
Đực là vấn đề chính, ông bà Thịnh nhìn tương lai con mình là ảo vọng. Khi ông bà phát hiện cái gọi là “mẹ tròn con vuông” Họ sợ lắm ! Niềm đau được chôn kín trong nghĩa trang tiềm thức. Sau mấy tháng sinh ra Đực bà không muốn ai bế hoặc nựng yêu Đực. Bà vấn kín Đực trong tay. Chỉ có vợ chống bà ngoài ra không một ai biết bí mật nầy. Mỗi khi ai thăm hỏi về Đực bà thường đánh trống lảng. Kể cả vợ chồng Ngãi; họ chỉ biết Đực là đứa cháu ngoan hiền, đẹp trai, con đầu của anh chị Quảng Thịnh.
- Tui muốn qua thăm bà Lợi; chỗ thân quen hồi nhỏ, lâu mới về làng, không ghé thăm thấy kỳ. Bà Ngót nói.
Hôm sau; đặt trong rổ một gói trà Tàu, khuôn bánh đậu xanh, làm quà giao tình. Họ gặp nhau mừng quấn quýt, nhai miếng trầu, uống hớp nước, thắm tình bà con, xóm giềng. Thơm ra chào bà Quảng, dì Ngãi.Thơm duyên dáng,dịu dàng.
- Con Thơm được 20 chưa chị? Bà Thịnh hỏi.
Thơm đứa con gái duy nhất của bà Lợi. Chí hiếu từ ngày ông Lợi sanh tiền. Thoáng nhìn bà Thịnh mát lòng, mát dạ.
Bửa cháo vịt do Thơm sửa soạn, bốc mùi thơm,Thơm khéo tay nấu nướng.
- Con Thơm muốn mời hai bà một bửa, lâu quá mới về thăm làng. Mẹ Thơm nói.
Bà Thịnh cảm động tấm lòng ưu ái của mẹ con bà Lợi.
- Khi mô chị lên trên. Bà Lợi hỏi.
- Chắc tui phải xin kiếu chị để chuẩn bị về. Với lại về lo cơm nước cho thằng Đức đi làm. Bà Ngót nói.
- Lúc này thằng Đức làm gì? Bà Lợi nói.
- Hắn làm thợ may. Bà Ngót nói.
Họ chuyện trò cho tới chiều mới về. Đưa bà Ngót ra tận ngõ thì trời sậm tối.
Ông Thịnh ngồi với trăng, con chó Mực nằm cạnh bên, cả hai lắng đọng. Phả khói thuốc, chờ đợi. Trời chiều xuống nhanh mà chưa thấy mạ thằng Đực về. Quay vào trong thì nghe tiếng gọi sau lưng. Vợ ông về tay xách con vịt, vài nắm lương khô. Họ nhìn nhau không nói. Đức nằm đu võng nhìn khoảng trống trước mặt. Lúc này Đức ít nói, điều đó hai ông bà biết khi Đức ở tuổi mười tám.Trầm lặng, thứ trầm lặng khó chịu, mặc dầu; hai ông bà đã cải tên Đực thành Đức cho có một chút chữ nghiã, cho nó vui với đời. Từ đó đến nay bà con, xóm làng gọi chàng là Đức. Hai ông bà cảm thấy chân tình, phấn chấn với tên thường gọi là Đức.
- Hôm về dưới làng, gặp bà Lợi chưa? Bà nói gì không?. Vợ chồng thằng Ngãi độ rầy làm ăn khá không? Ông Quảng nói.
Mấy lâu nay ông im tiếng, bửa nay ông hỏi thân tình. Vợ ông đâm ra ngạc nhiên.
- Con Thơm lúc nầy trổ mã, ngó khéo ghê. Đảm đương lắm.Bà kể cho ông nghe từng chi tiết.
- Con đó có ai dòm chưa? Ông Quảng nói.
Nhưng lòng ông áy náy không biết con Thơm đã phải lòng ai chưa. Họ lo điều này.
Những toan tính, sắp xếp cho Đức có đôi có đũa là hoài vọng của ông bà Thịnh. Họ đang đứng trước vực, sợ bất thành thì ăn nói làm sao. Dù rằng bà Lợi là người tốt bụng nhưng đừng để người ta rơi vào tuyệt vọng. Hai ông bà tuy nghèo, từng trải đời, nhưng luôn luôn giữ tấm lòng chân thật, trọng chữ tín; cho nên họ thận trọng việc làm của mình. Ông bà biết việc lứa đôi là cần thiết. Ông Thịnh nghĩ về hậu vận, nhiều lúc, phớt lờ; bởi ông, nói không nên lời. Ông mơ nối dõi tông đường là chuyện huyễn đối với ông…
Ngọn gió bên ngoài rít lên, xô giạt bụi tre, sườn nhà réo răng rắt, ông giựt mình, đuổi cơn mê, chạy ra ngoài nhìn gió. Giờ cũng gần nữa đêm. Bà Thịnh quay xuống bếp, ông vào buồng nằm đuối với thao thức.
*
Sau trận giáp-lá-cà Điện Biên Phủ. Ông chạy thoát Việt Minh. Trở về đồn trong một đêm trăng, thần sắc ông tiêu điều. Ông thăng lên thượng sĩ. Năm 1955 ông Thịnh giải ngũ lính Lê Dương (Legionaire). Khăn gói về lại quê nhà. Làng Vện, nơi chôn nhau cắt rún. Ông kiêu hảnh khoe khoang với mọi người trong làng, cái sự nghiệp lừng lẩy của ông.
Một hôm; nghĩ bụng, đeo cái làng nầy mà sống thì có nước cạp đất mà ăn. Không xong; ông bàn với vợ, về ngụ nơi miếng đất hoang của ông Thoại, bà con trong họ ông. Ông Thoại đang cần người trông coi, khai khẩn, gây hoa mầu cho phần đất hương hỏa trong họ. Vợ chồng ông lên đường định cư. Đức lúc ấy mười tuổi. Không rời sự kiểm soát của bà Thịnh.
Họ dựng nhà và bắt đầu sinh nhai, khai phá triệt để miếng đất ”kế thừa”.
Ông đóng lon hạ sĩ trong sư đoàn lính viễn chinh. Trèo lên thượng sĩ thì về hưu; mà làng trên, xóm dưới cứ gọi ông là Quảng Thịnh.
- Mới đây mà đã hai mươi mấy năm. Ông tự chất vấn.
Người ông già, cái nhà già, bầu trời già, tất cả già dưới mắt ông. Ông chán nản. Nội tâm ray rứt. Chỉ mình ông hiểu ông.
Đức lúc này hai mươi lăm tuổi. Tâm can lúc nào cũng bức xúc, cào cấu, thần trí hỗn loạn, buộc miệng nói vớ vẩn, không có chủ đề. Ông bà Quảng hiểu tâm trạng đó, bã lả cho Đức dịu cơn mê sảng.Tuy nhiên; Đức là người đóng góp về mặt đời sống trong gia đình nhờ đó,có được miếng trầu, điếu thuốc nhâm nhi những lúc nhàn nhã. An ủi cái phận già của hai ông bà Quảng Thịnh.
- Ở đời; được cái này, mất cái nọ, nhơn do cũng tại định mệnh mà ra cả. Họ nghĩ vậy.
Vợ chồng Quảng Thịnh lên chợ huyện, ghé thăm thầy Huyền, xin thầy mấy chữ thánh hiền, lựa ngày lành, tháng tốt về Sình, dạm hỏi con gái bà Lợi cho Đức. Bà Ngót đặc hy vọng ở bà Lợi. Đến nhà bà Lợi có dì Ngãi đi cùng, thêm lời vô, tiếng ra may ra bà Lợi đồng ý. Thơm lấp ló ở bếp, lóng tai nghe chuyện hai bên trao đổi.
- Cái đó tui phải hỏi con Thơm mặc dù cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Nhưng phải dò ý nó cái đã..Bà Lợi nói rành rọt.
Thơm nghe qua, e lệ, mặt bừng đỏ, bình tâm không nghĩ ngợi sâu xa hơn.
Họ ra về, trời xuống thấp, màu trời bàng bạc, đôi cánh hạc mõi cánh bay vào cõi xa mờ. Vợ chồng ông Thịnh cũng đang đi trong cõi miên man.
Tháng sau, ông bà Quảng đi với Đức về làng Sình. Bà Lợi ra đón trước sân, cầm tay Đức thăm hỏi. Bà không ngờ Đức dể thương, dịu dàng như mấy o con gái, nước da bánh mật, tóc mượt đen, mắt biếc, mũi dọc dừa, môi mọng đỏ, lưỡng quyền thanh cao.
- Trời cho đẹp trai như rứa thì lắm người thương. Thơm nói thầm trong miệng.
Bà Lợi gọi Thơm pha trà mời khách.Thơm nhẹ nhàng rót nước, bàn tay búp măng, tóc ngã xuống vai, vài sợi đong đưa trước trán như tàu dừa ướt dưới trăng. Đức liếc nhanh, chạm phải ánh mắt Thơm. Họ bùi ngùi giây lát.
Thơm chới với trong khoảnh khắc, ngập ngừng, do dự, những dữ kiện đến với nàng quá đột ngột. Hình ảnh Đức đã nhập vào hồn nàng. Nàng rơi tình. Bà Lợi thương con, chìu chuộng con, nhưng trong đáy tâm hồn bà vẫn tồn tại nỗi xót thương; mỗi khi mẹ lià con, bà trở nên cô độc. Mắt bà ướt.
Suốt buổi không nghe Đức nói điều gì. Chàng lặng lẽ, độc thoại, mắt chàng tàn trử một điều gì; Đức sợ đời khám phá dấu tích của mình, nơi tiềm ẩn nỗi đau thầm kín. Thơm đẹp, trong sáng, nụ cười đậu trên môi khi bước qua. Đức bẽn lẽn cúi xuống.
Quá vui, trong ngày dạm hỏi, họ chia nhau miếng trầu, hào hứng kể cho nhau nghe nhiều kỷ niệm của một thời đã qua. Cả hai thông gia có cuộc sống giản đơn từ xưa nay, bất vụ lợi, họ trọng nhau bằngchữ nghiã, chữ tình.
Ông bà Quảng thuyết phục Đức, giải thích những kinh nghiệm sống, bí quyết làm người, tất cả dựa trên nền tản đạo đức. Đức hiểu ý của cha mẹ mình. Điều quan trọng duy nhất của ông bà Quảng là thấy Đức lập gia đình, trước khi ông bà lìa đời; dù ra sao thì sao. Đứng trước hoàn cảnh nầy khó cho Đức suy nghĩ. Đức không muốn phụ lòng đấng sinh thành, người đã dày công nuôi nấng và bao che cho chàng. Đức hiểu điều đó. - Phải chăng là phép lạ - Đức nghĩ như vậy.Chàng quay về với thực tại. Nuốt đau thương.
Gần đây; phong cách Đức có nhiều thay đổi, gây cho mọi người chú ý, Đức cảm thấy khó chịu. Nam nhi phải vững mạnh, Đức nhu mì làm cho người ta nghi ngờ, mình là phái yếu hay là “ pê-đê”. Nghe tin Đức sắp lấy vợ, hoài nghi của bà con, hàng xóm dần dần tan biến.
Đêm mưa, cảnh vắng, gió xé không gian, buồng Đức đèn còn sáng, ngọn đèn lồng lên bởi gió. Bụi tre bên ngoài rên, hoà điệu với tiếng cóc kêu. Nghe thê thảm, cô liêu. Chàng thừ người ngồi đọc sách sinh lý, sách hôn nhân. Ông Quảng nằm bất động, lắng tai nghe mưa rơi, tiếng mưa như nhắc nhở, như báo thức, ông nhìn lui quá khứ, nhắm mắt tâm nguyện. Bổng nghe tiếng khóc sụt sùi, ông giựt mình; tiếng mưa hay tiếng khóc ? Dớm gót xem chừng, thấy Đức gục đầu lên bàn, ngọn đèn chiếu yếu ớt. Bà Quảng lặng im trong chăn chiếu, thổn thức. Ngừng mưa, trăng lưỡi liềm lấp ló bên song, hình như trời sắp về sáng. Căn nhà lặng với không gian.
Thơm nghĩ tới Đức ở cái tính nhu mì, ít nói, làm yếu lòng Thơm. Đức nghĩ tới Thơm, gái ngoan hiền, hiếu đạo, giàu lòng nhân ái, vị tha. Mấy điểm đó Đức vừa ý; vả lại, thấy Thơm có chút nhan sắc dể ngó.
Tính tình Thơm, làm cho nhiều chàng trai trong làng để tâm, nhưng nàng khiêm ái với mọi người.Thơm giữ tấm lòng son sắc với Đức. Như một ước hẹn. Từ chỗ thân quen đến chỗ thông gia là điều hiếm quí. Đức tôn trọng nhân phẩm, chưa một lần tỏ thái độ sỗ sàng với Thơm. Họ giữ thể cho nhau. Tình yêu đôi lứa trở nên thanh cao. Bà Lợi cảm thấy yên tâm; thấy con mình được yêu, nhìn Đức bà hài lòng và xứng đáng là con rể của bà .
Ngày cưới sắp đến. Đức Thơm rộn ràng lo lắng, sắm lể vật. Hôn lể tổ chức trong vòng gia đình, đơn giản và kiệm ước ngân sách.
- Mong sao hai đứa thương nhau là được rồi. đòi hỏi nhiều them tội cho tụi chúng. Bà Lợi cất lời chí tình với bà Quảng. Hai bà thảo luận để ngày cưới được viên mãn. Bà Lợi hân hoan, bà Quảng ngoài tươi trong héo, lòng bà lúc nào cũng phập phồng. Ông Quảng bi thảm hơn, ông ít nói lại càng ít nói, thụ động; mặc dầu mừng cho con mình lấy được người vợ ngoan hiền, hiếu thảo. Ông thầm mừng nhưng ông sợ hoàn cảnh của Đức, nếu Thơm khám phá trước ngày cưới thì ăn nói làm sao với nhà gái. Hai ông bà dằn xé với nội tâm, gần như đe dọa mỗi khi nghĩ đến. Bà Quảng bước lại gần tủ áo, rón rén mở hộp nữ trang xem lại cái khâu vàng , đôi bông tai mã não mà bà cất giữ từ lâu để cưới dâu…đó là sính lể cho Thơm. Bà nghĩ tất cả là của tạm, bà mong sao đừng xẩy ra điều gì chạm phải hạnh phúc dâu con bà. Nghĩ đến; bà thương bà, thương con bà, thương Thơm. Bà chắc lưỡi,thở ra, nước mắt lưng tròng. Trông thảm. Thơm ôm mẹ khóc nức nở,bà Quảng,dì Ngãi,bà con nội ngoại đến dự khóc lây,tiếng khóc sụt sùi,nghe não lòng.
- Con đi theo chồng, về làm dâu, làm con người ta, mạ một mình đơn côi,lầm lủi mạ buồn lắm Thơm ơi.Mạ mi vui buồn với mi, chừ mi bỏ mạ mi đi, mi quên cái than già nầy rồi. Mẹ Thơm khóc như đưa đám.
- Con lạy mạ. Con đâu bỏ mạ. Mạ đừng buồn. Con về thăm mạ thường xuyên. Con xin mạ. Thơm nói.
Dòng chảy lăn trên gò má Thơm, thấm ướt giọt tình sầu. Đức đau khổ, không cầm nước mắt. Bà con đứng quanh đó mủi lòng vuốt ve bà Lợi.
Rước dâu về nhà trai, trời xuống chiều, xe đậu trước ngõ, nhà ông Quảng rực sáng, hương đèn bay phất phới. Dưới bếp người đứng, kẻ ngồi, chờ thấy mặt cô dâu, chú rể. Bà con nôn nóng chờ đợi, con Mực sủa, đúng giờ nạp lễ, tiếng người xì xào đi vào, đứng trước bàn thờ ông Quảng Thịnh mặc áo the đen , đầu bịt khăn đóng, đi đôi guốt mộc, trông ông đường bệ, gương mặt đanh lại nhưng vẫn không che được nỗi lo.
Thơm rầu rầu, cúi gầm mặt, không nói, lặng đứng nhớ thương mẹ, nàng liếc mắt, cảnh vật tự nhiên xa lạ đối với nàng. Đức đứng cạnh bên, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn Thơm. Đức dâng lòng thương yêu Thơm nhiều hơn. Bà Quảng đến gần Thơm, nói vào tai, không ai nghe rõ. Bà dặn dò, âu yếm cầm tay Thơm. Bà mĩm cười lùi bước. Trong tiệc cưới người ta chúc tụng nhau; riêng Đức lòng mang nặng suy tư.
Tiệc tàn, Thơm ra tay sắp xếp việc nhà. Da mặt Thơm hồng thắm, không phấn son, nàng đẹp ra, tóc nàng tỏa mùi bồ kết, lóng lánh nữ trang đeo trên tay; những thứ đó không hấp dẫn với Thơm lúc này. Nàng miên man trong những suy nghĩ khác. Men rượu thấm vào người, Đức mềm nhủn, gục đầu trên tay ngủ. Nhà đã vắng khách; bà Quảng ngang qua buồng của Đức, đưa mắt nhìn vào rồi ngoảnh mặt đi nhanh. Bà nguyện cầu cho đôi trẻ hạnh phúc, đó là niềm ao ước cuả bà.
Thơm nghỉ tay, ra giếng cởi đồ, múc nước xối lên người, nước chạy tới đâu mát tới đó,Thơm dòm xuống lãnh địa cuả mình, nàng cảm thấy lung linh dưới ánh trăng non; đêm tối trời, nàng sung sướng tắm.
Hai ông bà đã vào giường từ lâu, dành lại cái không khí đó cho Đức với Thơm, tắm rửa xong nàng ngồi một mình với cái bàn tre, nghe ngóng, không nghe tiếng gọi của Đức, nàng xò tay vào áo nâng đôi vú của mình, đứng dậy, bước vào buồng, Đức ngủ như trẻ con, mặt Đức bột sửa, gợi cho Thơm một cái hôn âu yếm. Ra bếp lấy nước uống, đoạn nhẹ nhàng chui vào giường, nằm cạnh bên Đức,Thơm tháo bớt nút áo cho thoáng mát, vú hồng bềnh bồng trôi, Đức ngáy lớn; Thơm nhớ về mẹ mình, nhớ nhà, nhớ giàn mướp thân thương mà nàng phải lià xa. Nàng mệt mỏi, mắt lịm vào đêm đen.
Gần rạng sáng, gà gáy canh một, Đức thức giấc, quàng tay ôm Thơm, úp mặt vào nách, mùi thịt da bốc hơi, chàng hít từng hơi dài, ngậm trong hơi thở, lông búp măng bị động làm nàng nhột, trở mình. Đức vuốt lên tóc, lên mặt. Thể xác Thơm nằm trải rộng lên giường. Đức trằn trọc trong cái cảm giác nửa vời đó. Sau ngày cưới mệt nhọc, thao tác nhiều, tay chân bả rã cho nên cả hai ngủ ngon, quên việc động phòng của đêm tân hôn. Họ dành lại cho ngày hôm sau…
Trời trong, mấy chùm sao lấp lánh chiếu, bụi cây, bờ dậu còn ngủ, cỏ ôm sương. Cảnh vật đìu hiu, quạnh vắng của thôn quê luôn tiềm ẩn một cái gì bí mật trong đó, khó mà biết ý người ở đây.
Con Mực nằm chờ chủ dậy, ngáp dài, mắt buồn nhìn xa. Đức chưa ra khỏi buồng.Thơm ngồi đun nước, mắt hoen đỏ, ngủ ít, người bơ phờ. Ông bà Quảng nhìn nhau không nói. Nhắp chén trà, ôn chuyện cưới hôm qua.
Sau một ngày làm việc; Thơm có thói quen tắm đêm, trăng còn lu, nàng trần truồng, nổi bậc giữa bóng đêm, nàng xối nước, tóc dán sát vào da, trắng nõn nà, gợi cảm, đường nét tuyệt vời như tranh loã thể. Đức nhìn ra từ cửa bếp, mấy bụi dứa, bụi gai chấn con mắt, đêm đen đặc, khó mường tượng. Trong lòng Đức thấy khẩn trương.
Đêm về lắng xuống trời khuya.Tiếng rục rịch trên giường nghe rõ. Đức ôm nàng, nói khẽ, nàng nghe tiếng được, tiếng không, con tim nàng bồi hồi, mắt nhắm chờ đợi, đêm đầu đời.Thơm tháo nút áo, để hở khuôn ngực cong cong vành núi, thả mình, tóc chảy dài xuống bờ vai. Chân nàng đụng phải chân của Đức, nàng đụng mạnh hơn, gát lên. Đức còn êm, chưa thấy động đậy, chưa chịu cổi quần,Thơm suy nghĩ vụng; thường khi, đàn ông thấy gái là sỗ sàng, là ôm đầm.- Sao Đức lãnh cảm như vậy? Hay chàng lãnh cảm với mình.Thơm mạnh dạn, mở toạt nút áo, đôi vú vội vàng tung ra khỏi nịt vú, rung rinh với cõi đêm. Đức rung động; nghiêng người ôm mặt Thơm hôn ríu rít, còn thụ động chưa chịu cỗi hết đồ, chàng thọc tay vào quần Thơm, xoa bóp, mân mê, không chịu đựng được, Đức kéo quần nàng, chùm lông nhô lên, sợi mượt mà, máu trong người Đức sôi sùng sục, chàng nhào vào mình Thơm, hôn tới tắp khắp châu thân nàng, Đức cào cấu, cắn xé, bấu vào thịt da nàng. Ôi! thể tính của tình yêu, của mầu nhiệm ban phát, Đức choáng váng như kẻ say; đôi vú vương mình, dựng đứng ,thở cùng nhịp đập con tim, Đức như con thú dữ ngậm mồi, hầm hừ, nhục thể nằm đó mà không thụ hưởng được; khổ cho Đức vô cùng. Đức tiếp nối cơn tình dục, cào cấu, bấu xé, hôn hít túi bụi, lần mò khắp thân thể nàng, đi thẳng xuống bờ vực thẳm, nơi động thần thất đầy cỏ mật bao quanh, chàng úp mặt vào thung lũng tình yêu, liếm láp chút hương tình, nước nhờn chảy lên ngọn nguồn rong rêu đó. Thần xác Thơm nhảo ra. Nàng không chịu nỗi sự làm tình như vậy của Đức. Thơm muốn Đức làm tròn nghiã vụ đạo vợ chồng.
Mảnh trăng non, xuyên qua cửa, e lệ núp trong mây.Thơm nhìn xuống phần dưới cuả Đức, nàng hoàng hồn thấy Đức là cục thịt phẳng lì, chỉ có một núm như hạt đậu đỏ, lớn hơn nốt ruồi tướng, bao quanh đám lông khô, lưa thưa trông vô duyên và quái lạ. Đức nằm đơ, bất động, thể xác Đức không còn cảm tính như nàng nghĩ. Nàng không tin chính mình. Bàng hoàng, rùng mình, không dám nhìn, kinh khủng. Đức hóa thân bèo bọt, dã tràng, vỡ toang. Không còn là ấn tượng đẹp của thương yêu, tất cả sụp đổ. Nàng úp mặt lên gối, miệng lưỡi đắng nghét. Nàng cần cấp cứu nhưng biết là vô vọng. Thơm đuổi bóng tối, đẩy mình vào khoảng trống. Nhận sự im lặng vô biên. Bên ngoài con Mực tru không thành tiếng.Tiếng thở của vợ chồng Quảng Thịnh nghe rõ mồn một.
Đức ôm Thơm trong vòng tay của kẻ chiến bại, bạc phước, cần được băng bó, cần được xoa dịu. Đức; nạn nhân của sự bi thương. Thơm tuyệt vọng. Trạng thái tâm linh nàng phải đương đầu nhiều khía cạnh khác nhau…thân phận làm người phải gánh chịu bao tai biến. Nàng đuối với lý trí , lý trí đuối với thân phận . Cuối cùng; nàng phó cho định mệnh.
Thơm chưa một lần nghe qua trong đời và chưa bao giờ nghĩ có điều đó. Ác thay! thế gian giấu kín, để rồi nàng phải nhận lãnh thương đau.Tương lai nàng chết từ đây. Nàng trách nàng; quá cả nể, quá nhân phẩm, quá ước lệ, để rồi rướt lấy hậu quả. Nàng nghĩ; đáng ra nàng mạnh dạn, khám phá những cái mà đời cấm đụng chạm, thì nay nàng đâu có khổ phải lấy người chồng hẩm hiu với số phận an bài.Thơm không biết dùng từ gì để gọi trên cơ thể của Đức. Hắn không giải thích, hắn rơi vào trạng thái lơ lũng giữa mê hồn trận. Hắn thu mình ốc sên; Thơm muốn nghĩ gì thì nghĩ. Thơm bây giờ là chủ. Hắn biến mình là kẻ thừa sai. Hắn biết mình vô dụng, mang lưỡng tính trong người thì làm gì được hơn. Hắn nằm xuôi tay. Thơm trụt xuống giường và bước đi xiêu vẹo của người tuyệt vọng. Tóc rối bời.
Ngồi lặng bên bếp lửa,Thơm ôm vòng đôi chân, đầu gục xuống, tóc tả tơi. Nàng nhìn ra ngoài, trời đen đục, không gian lạnh câm. Bà Quảng rón rén đến gần, nước mắt Thơm lăn chậm trên má, nhỏ giọt buồn; bà ngồi cạnh Thơm, thỏ thẻ, phân trần ngọn ngành.Thơm vẫn không hiểu được nghiã lý cuộc đời.
- Tại sao; sự thật mà đời ém nhẹm, lên án, biệt đãi hay tại tập quán xã hội cho điều đó không đẹp, xấu xa? Thơm tỏ ra hận đời.
Nàng phân vân trong đầu. Bà Quảng ôm Thơm vào lòng, nói trong nước mắt. Đây là lần thứ hai, nàng nhận vòng tay của mẹ; lần thứ nhất mẹ nàng ôm vào lòng, khi cha nàng qua đời. Vòng tay âu yếm, ràng buộc với chữ hiếu. Giờ đây; Thơm hiểu sự lặng câm đó. Đức không có dương vật, ông bà Quảng đi tìm vợ cho Đức để làm gì ?
- Mạ nói cho con biết rằng; con là người thứ ba biết việc nầy. Bà nhấn mạnh cho Thơm hiểu từng chi tiết của sự giấu kín.
- Bọ mạ sợ thằng Đức có mặc cảm, sanh chứng đi tới con đường tự vận. Sợ thiên hạ dèm pha tội nghiệp cho thân nó. Bọ mạ muốn nó bình thường như mọi người. Có những người bình thường mà chắc gì có hạnh phúc lâu dài. Mạ biết đây là thiệt thòi cho con. Cái đó tùy con quyết định; ở hay đi, mạ không cưỡng ép con. Bà Quảng nói vào tai nàng,Thơm nghe tiếng ngất trong họng bà.
Thơm suy nghĩ nhiều đêm, nàng muốn trở về với mẹ mình, bộc bạch cho bà hay tình huống của nàng. Thơm thấy không ổn, gieo buồn cho mẹ, cho bà con xóm làng, liệu có trả lại đời sống bình thường cho nàng ? Thơm bỏ ý định đó. Không khéo gieo thêm tiếng thị phi, có một đồn mười. Ầm lên làm thương tổn danh dự cho nàng và cho mẹ nàng. Thơm đối diện với ngõ cụt, ngậm đắng .
Thơm cảm nhận được niềm đau từ mình, từ mọi người. Để rồi mùa xuân lặng lẽ trôi trong đời nàng.Thơm thầm trách thân phận mình; gánh chịu như bà Quảng gánh chịu. Nàng cảm thông sâu xa hoàn cảnh đó. Đứng xa, nhìn sau lưng bà Quảng nấu cám cho heo ăn, tự nhiên Thơm thấy thương mến bà vô hạn. - Nếu mình ở điạ vị đó mình xử lý như thế nào? Nàng tự nghĩ. Thơm thấm nhuần lần lần vai trò của mình, quên thì thôi, nhớ thì buồn. Nàng biết cái phận số đẩy đưa nàng. Thôi; trong nhờ, đục chịu, có kêu cũng không thấu trời. Chẳng biết nói gì hơn.
Ông bà Quảng hết lòng thương yêu Thơm như con gái mình. Bà lãnh tất cả công việc nhà, để Thơm an thần, ngơi nghỉ, như thể xoa dịu Thơm, bà mở lượng hải hà,vị tha cho Thơm hài lòng. Một hành động gần như chuộc tội đối với nàng dâu. Thơm ý thức trách nhiệm và nghiã vụ của mình đối với ông bà Quảng và Đức.Thời gian phôi pha, dần dần Thơm quen với nếp sống. Đức lúc này làm ăn chăm hơn mọi khi, dành dụm, đem niềm vui về cho Thơm, lắng nghe những gì Thơm nói. Thơm chủ động toàn bộ trong gia đình ông bà Quảng. Họ cảm thấy hạnh phúc dâng cao. Hai ông bà thảo luận với vợ chồng Đức;họ muốn có một đứa con nuôi. Tạo cảnh đầm ấm cho Đức Thơm.
- Chóng thật! mới đây mà đã gần hai năm về sống bên cạnh Đức. Nàng suy nghĩ. Thời gian âm thầm trôi.
*
Con đường đất nằm ở giữa, rẻ hai bên là bờ bụi, cỏ hoang,những hàng cây cao mọc đan vào nhau, che khuất một khoảnh trời. Con đường chạy thẳng tắp xuống bến nước. Dòng sông êm đềm chảy, nước trong xanh, ánh sáng lóng lánh chiếu.Thơm nhúng chân vào nước, nước mát chạy vào người. Nàng cảm thấy dể chịu. Rổ rau rửa kỹ, thèm nước, nàng muốn lội ra xa để tắm. Người mỗi lúc mỗi đông ở bến chợ. Nàng quay lưng về nhà, cúi đầu đi trong suy tư. Bỗng nghe tiếng gọi tên mình; đứng lại. Nàng thấy người đàn ông tuổi ngoài ba mươi, tay cầm rựa, tay cầm cưa.
- Thơm phải không? Còn nhớ anh không? Người đàn ông hỏi.
Thơm mơ hồ chưa nhận ra. Hắn nói tiếp như khôi phục nàng. Hớn hở trong lời nói.
- Em còn nhớ Lài không? Lài là em gái anh. Thuở còn học với nghau một lớp. Người đàn ông nói.
Thơm thấy thời gian qua nhanh, con người cũng qua nhanh; tất cả đổi thay. Nàng nhận ra người đàn ông, đon đả hỏi.
- Anh Đợi ; lâu quá em quên. Xin lỗi anh. Thơm nói.
Đợi không ngờ gặp Thơm ở đây; mừng quá, quên hết chuyện thăm hỏi, chỉ nói cười mông lung.
- Anh làm gì ở đây ? Nhà anh ở đâu ? Thơm nói. Đợi không muốn ai biết tông tích của mình. Những câu hỏi vô tình của Thơm làm cho hắn áy náy, dù chẳng ngại gì, nhưng kẻ gian thường hay nghi ngờ, nhất là việc phòng gian bảo mật.
- Anh làm thuê. Nhà ở đầu thôn. Anh chờ người bạn. Đợi nói.
Đang vấn an thì người đàn ông lớn tuổi đến, họ nói bằng mắt Đợi vội vàng từ giả Thơm, Ngoãnh nhìn lui thì bóng hai người đã khuất vào bụi rậm.
Được tin Đợi bịnh, hiện trú nhà người thợ mộc, Thơm đến thăm. Đợi nằm liệt giường, cảm nặng, môi khô, giọng nói khàn, đôi mắt nhìn Thơm như mắt cá sấu, râu tủa ra lởm chởm, gương mặt hốc hác. Nhìn phong cách Đợi, Thơm hình dung ra đươc con người của Đợi. Tuy nhiên, vị tình đồng hương, nàng cảm thương cho người anh bạn mình; xa xứ, làm ăn vất vả, cô độc. Hôm sau, Thơm đến thăm với nồi cháo cá, nàng muốn Đợi chóng khoẻ để đi làm. Ít hôm nữa, Đợi về Sình, thăm quê. Đợi về làng trong chiến dịch đặc biệt. Thơm chỉ biết Đợi về quê. Tiện đường Thơm gởi ít lon nếp mới về cho mẹ. Ngày sau Thơm đến để gởi quà.
- Em lấy chồng bao lâu rồi? Có con chưa ? Đợi nói.
Lời nói như chất vấn,Thơm nghi ngờ trong câu hỏi của Đợi, như có vấn đề. Đợi hỏi tiếp:
- Chồng em làm thợ may có đủ sống không ? Đợi nói.
- Dạ cũng đủ qua ngày. Anh thường hay ốm đau. Thơm nói.
Thơm cúi gầm mặt xuống đất. Thơm dối lòng. Che cái bịnh bẩm sinh của chồng mình. Đợi hỏi nhiều chi tiếc về Đức. - E ; Đợi biết việc kín đáo của Đức Nàng phân vân trong lòng. Đợi là một tay giao liên, nằm vùng, hoạt động cách mạng, cho nên chuyện của Thơm không phải là chuyện khó đối với Đợi. Chuyện vãng khá lâu, mỗi khi nói Thơm không nhìn vào mắt Đợi; nàng biết, trong đôi mắt vẩn đục của chàng. Đợi liếc nhìn Thơm, nụ cười đểu trên môi, thấy khuy nút để hở, lộ vòng ngực ra ngoài, Đợi chớp ngay vào mắt. Phút giây này đưa Đợi về với qúa khứ. Đợi lọt mắt xanh, từ thuở Thơm ở tuổi mười bảy. Và tấm tắc trong lòng.
Bặt thời gian; Thơm trổ mã đẹp hẳn ra. Đợi không dằn được trước cái hấp lực của Thơm. Đợi nghiêm nét mặt của người anh; nhưng ai thấu được trong tâm can chàng là con hổ mang. Đàn ông có hiền lành, có vô tư, có ngây ngô cách mấy khi mà thấy của quí của đàn bà thì con heo lòng đâu có nằm yên, trở về với mãnh thú, quên hết, vùi đầu vào vũng tội lỗi một cách hài lòng…Đợi cầm lấy tay Thơm. Trong người chàng chuyển biến. Thơm biết; đàn bà nhạy bén hơn cả đàn ông. Nàng rút tay ra khỏi bàn tay thô bạo của Đợi.
- Xin anh. Đừng anh. Em phải về. Thơm nói.
Lời nói dịu dàng của Thơm không dập tắc ngọn lửa dâm dục nơi Đợi. Nhà vắng chủ, xóm vắng người, mất lý trí. Đợi mạnh tay cản Thơm đi, tay hắn níu vào vạt áo, mấy khuy nút bung ra, để lộ hình hài, đôi vú nhào ra, thách thức Đợi. Hắn mờ mắt, ôm Thơm hôn túi bụi, không chống cự nổi sức đè nặng của người đàn ông. Chữ trinh của nàng bị xâm phạm. Thơm cảm thấy tội lỗi với Đức với ông bà Quảng Thịnh. Đợi riết Thơm vào lòng. Thơm quị trước tính dục của Đợi. Trận mây mưa bắt đầu, Thơm bó tay nhưng nàng vụt nghĩ trong đầu, một ý nghĩ khác…Đợi ngất dại dưới nhan sắc cuả Thơm, ngất dại trước kỳ quan tuyệt mỹ của tạo hóa. Đợi không còn là một chiến sĩ anh hùng. Hắn chìm trong biển đêm, hụp lặn với dục vọng. Thơm buông thả, mặc cho định mệnh hành xử. Đợi làm tình như kẻ đói, hắn gục đầu lên bãi sa mạc hoang vu của Thơm, Đợi vuốt ve, xóc xới đám cỏ ướt của nàng cho thỏa dạ, nước trong hang động tuôn trào tự hồi nào, nàng không hay biết, Đợi đẩy “cây thần lực” vào qũi đạo Thơm, nàng rung cả người, nghe tiếng kêu của máu, hai chân Đợi quấn chặt, vài phút sau, xuất tinh, tinh khí bắn mạnh vào huyệt lộ, chạy hối hả vào tử cung, trứng rụng xuống, hân hoan đón nhận, người Thơm bé nhỏ trong lòng hắn, lông cọ với lông như hai luồng âm dương nối lại nhau, ắt phải nổ. Đợi ưỡn người, nhảy nảy như con thú sa lưới.Thơm bấu rách một lằn da sau lưng của Đợi. Hắn không nghe đau. Thơm nhắm mắt ngất dại và bay bỗng lên cao. Đợi ngã xuống giường, ngất xỉu, để lại vài giọt tinh trùng chết trên mình nàng. Thơm vội vã đứng dậy, quay người lầm lủi hướng về nhà, đứng lại, vuốt tóc, vuốt mặt lấy bình tĩnh.Tới nhà trời đã xế chiều. Gió chặt đức không gian, xô giạt những hàng cây bên đường. Thơm rùng mình, con chó Mực đón nàng ở đầu ngõ, đưa mũi khịt vào chân nàng, theo nàng vào nhà. Lát sau Đức đẩy cổng bước vào. Bà Quảng ngong ngóng chờ con về.
- Gởi nếp về cho mạ con chưa? Bà Quảng nói.
Lời thăm hỏi ân cần và nồng hậu, không thấy dấu hiệu nghi ngờ.Thơm an tâm. Đức đến gần âu yếm vuốt tóc vợ, đôi mắt chàng vui.Thơm cảm thấy tội lỗi.
- Hôm nay có khoẻ không Thơm. Đừng làm việc quá sức nghe. Đức nói
Lời thăm hỏi dịu dàng của Đức, tuy bình thường, nhưng động lòng trắc ẩn nàng, Thơm thấy đau trong tim.
- Còn anh bửa ni làm ăn có được không? Thơm nói
Đức vui khi thấy vợ quan tâm; nàng xăn tay áo làm cơm, dọn bửa ăn tối.
Nằm bên cạnh Đức, nhìn chàng ngủ trong mệt mỏi của một ngày làm việc, bỗng nhiên, nàng thương yêu nhiều hơn. Nước mắt ứa ra, nghiêng mình ôm Đức vào lòng, dỗ giấc ngủ .
Sau đó; Thơm bỏ quên tất cả, đốt cháy chuyện của Đợi. Nàng xem như không có gì xẩy ra; dù Đợi đã biền biệt ra đi, con đường cuối thôn sẽ không bao giờ nàng đặc chân tới. Nàng tắm sạch dấu tích đã vướng vào người, để trở về với mái ấm gia đình: người cha già cặm cụi, người mẹ già chịu đựng và người chồng bẩm sinh của mình. Trong cái tình thiêng liêng cao quí đó. Mặt trời sáng lên cho một ngày bắt đầu. Vợ chồng Quảng Thịnh thấy vui trong lòng. Người ta đọc được trên đôi mắt của họ sự mãn nguyện .
Hai tháng sau; Thơm thấy có dấu hiệu thay đổi trong người. Tắt đường kinh; Thơm hoảng. Buồn nôn, mệt mỏi.Thơm sợ! Triệu chứng báo động. - Vậy phải đối chất như thế nào? Nàng vật lộn với trí tưởng.
Nên nói cho ai hay trong ba người mà nàng phải làm nghiã vụ. Cuối cùng; Thơm đem tâm sự đến với bà Quảng. Nàng kể những diễn tiến xẩy ra với Đợi.
- Mạ còn nhớ ngày con đi gởi mấy cân nếp về cho mạ con không? Thơm nói.
Ngày Thơm bị đè chặt trong tay Đợi. Thơm từ chối cái gọi là “ hãm nàng”.
Nàng nghĩ rằng: … trong khoảnh khắc, chống lại sự cưỡng bách của Đợi, chính khoảnh khắc đó là dự mưu của nàng. Thơm nhận tội . Bà Quảng thoáng nét buồn, giây lát, lòng vị tha trở lại ngay trên gương mặt từ bi của bà. Bà đem chuyện này thưa với ông Quảng.
- Mình có phước. Trời đất đền bù cho mình. Mình phải ăn mừng chớ. Ông nói trung thực. Bà Quảng an tâm vừa đi vừa nghĩ đến tương lai cho gia đình bà.
Thơm nói thẳng với Đức. Đức như trên cao rớt xuống, chới với mặt mày, nàng vuốt ve, giãi bày.
- Việc này xảy ra cũng nằm trong cái lợi cho bọ mạ, cho cả hai gia đình và ngay cả cho anh; có thiệt gì đâu. Tui bỏ anh mà đi theo người khác kể. Tui biết đây là điều sai trái, mất tiết hạnh, mất phẩm giá đối với anh và bọ mạ. Xin anh hiểu cho. Tui vẫn thương anh, vẫn yêu anh như ngày mới cưới, hơn hai năm ăn ở với nhau tôi đã bỏ anh đi theo người khác chưa? Để rồi anh coi, nay mai bà con, làng xóm người ta chưởi anh hay khen anh rồi thì anh biết.
Đức ngẫm nghĩ và biết phận mình. Chàng cầm lấy tay nàng như thừa nhận hành động của Thơm là hợp lý, hợp tình. Không còn gì phải thắc mắc.
Giờ đây; Đức Thơm sống như nghĩa vợ chồng và nhìn nhận cái bào thai trong bụng là của chính mình làm ra. Họ nhìn nhau mỉm cười thỏa mãn.
Ông bà Quảng Thịnh sẽ có cháu bồng. Vài tháng nữa Đức làm cha. Thơm sinh hoạt có phần chậm chạp, rã rời chờ ngày sinh sắp tới.
*
Gia đình ông Quảng ăn lể đầy tháng cháu nội đích tôn, bà con hai họ, xóm làng đến dự đông vui. Hội đồng thôn cũng có mặt hôm đó
- Mới một tháng mà thằng nhỏ liến quá chừng. Bà con xầm xì.
Thơm nghe rõ lời chúc của người ta, nàng vững dạ. Đức lăng xăn mời, gọi. Tiếng cười nói vang lên trong buổi tiệc.
- Thằng cu đặc tên gì chị. Dì Ngãi hỏi.
- Bọ thằng Đức đâu ? ông quay lại .
- Ông cúng đầy tháng đặc tên cho thằng cháu nội chưa? Bà Ngót nói.
- Đặc tên Lộc. Quảng Thịnh nói
Mọi người khen cái tên hay.Thơm bế con vào lòng, vạch áo cho con bú. Mẹ Thơm đến gần, cầm tay thằng cháu ngoại hôn ríu rít và trầm trồ khen thằng nhỏ không ngớt lời. Đức cảm nhận được hai chữ hạnh phúc là gì.Tiệc tàn, ông Quảng chậm rãi ngụm từng chén rượu. Lòng ông thấy thanh thản lạ thường; dưới chân con Mực thè lưỡi liếm quanh miệng, nhớ khúc xương ngon chủ cho chiều nay .
*
1975; những ngày đầu giải phóng miền Nam.Thơm thoáng thấy Đợi đạp xe ngang qua chợ, người gầy, già trước tuổi, hai mắt trũng sâu, trong bộ đồ đại cán, đeo túi vải, dép râu, nón cối, đạp chậm rãi. Lộc chỉ tay về phía đông người, cười duyên dáng.Thơm cúi đầu hôn con. Mây đen kéo đến, dội xuống cơn mưa dữ. Nàng bế con chạy đụt mưa. Hai mẹ con cười khanh khách. Ông Quảng ngồi chờ cháu giữa trời chuyển mưa.
Đức bồng Lộc trong tay cười vui, đứng bên cạnh Thơm. Đèn nhà ông Quảng Thịnh bực sáng hơn thuở xưa. Cảnh nhà trở nên ấm cúng. Bà Ngót mỉm cười, lộ nét hạnh phúc.
Thôn xóm êm đềm dưới lũy tre xanh, dòng sông âm thầm trôi cho một cuộc tình câm…
(ca.ab.chestermere . tiếtđoanngọ.2008)
* ‘Không; tôi chẳng lấy gì làm hối tiếc’