Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.170
123.223.261
 
Đọc “Trăng cài bến gió” của Thanh Phong
Ninh Giang Thu Cúc

 

 

… Em là trăng non ngàn tỏa bóng

Anh là gió lồng lộng mây trời…

(Thơ Thanh Phong)

Trăng cài bến gió – cái tựa đề của tập thơ, mới nghe đã thấy lung linh giữa đôi bờ mộng thực, cho ta thấy tác giả là một kẻ khá lãng mạn – đó là cảm nghĩ đầu tiên. Nhưng còn một ẩn dụ lớn lao hơn mà người thơ muốn gửi gắm trong cái trăng, gió, mênh mang trừu tượng ấy là một thực thể tương quan, một thủy chung gắn bó, một quấn quýt mặn nồng, cho hai cái tên định mệnh - Thanh Phong – Bạch Hằng.

Vâng! Trăng và gió vẫn đời đời tồn tại, vẫn hiện hữu bên nhau bằng tâm cảm cho dù gió có rong chơi mải miết tận phương trời, và trăng có khi khuyết khi đầy theo vòng quay của vũ trụ càn khôn…

Tập thơ Trăng cài bến gió của nhà thơ Thanh Phong do nàng thơ Bạch Hằng in ấn và phát hành rộng rãi làm món quà tinh thần đến với bằng hữu gần xa. Bài viết này chỉ nêu một số bài tiêu biểu.

Không một người làm thơ nào trên hành tinh này lại thiếu đi mảng sáng tác: quê hương. Vâng! Quê hương rộng lớn là dải đất cong hình chữ S kéo dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau là quê hương Việt Nam thân yêu, là Tổ quốc của mỗi con người, của mỗi công dân đất nước Lạc Hồng, ngoài quê hương chung ấy mỗi chúng ta đều có mảnh trời riêng – một bờ tre, giếng nước, một mái nhà với vườn cây rợp bóng đó là mảnh đất cắt rốn chôn nhau, đó là nơi chốn dìu ta từng bước đi chập chững đầu tiên, nghe ta bập bẹ tiếng mẹ ơi ngọng nghịu đầu tiên – đó là miền thánh địa thời thơ ấu và biến thành cố hương khi ta cất bước phong trần trả nợ áo cơm nơi quê người đất khách, ai ai mà chẳng có một cố hương để vọng tưởng thương mong – Thanh Phong cũng vậy:

 

Nhớ cố hương

 

Xa quê biền biệt mấy năm trường

Gác lạnh canh tàn nhớ cố hương!

Hoa lá khoe màu ru lối ngõ,

Bướm ong trải cánh dạo quanh vườn.

Xuân đi Hạ đến lòng nao nức,

Thu vãn Đông về dạ vấn vương

Hỡi gió trăng ơi xin thấu hiểu!

Tình quê trĩu nặng khách tha phương

Vâng! Tình quê trĩu nặng khách tha phương – cho dù đi đâu, ở đâu, tận chân trời góc bể nào thì hai chữ quê hương vẫn ngự trị trong tâm hồn của mỗi người, hình ảnh quê hương vẫn in đậm trong ký ức, quê hương cho Thanh Phong thể xác và tâm hồn, thân thế và sự nghiệp, những điều ấy được nhà thơ tóm tắt trong bài: Thanh Phong tự bạch

Quê tôi có tháp Dương Long

Có đền Nguyễn Huệ có dòng Kôn xanh.

Tân Mùi, ba mốt năm sanh

Thanh Phong bút hiệu tên mình Nguyễn Phong…

Nói đến quê hương là nói đến Mẹ, chữ Mẹ được viết hoa bằng tất cả niềm thương yêu tôn kính – Mẹ đồng nghĩa với quê hương, cụm từ này không thể tách rời, không người con nào không ôm nỗi nhớ mẹ làm hành trang trên vạn nẻo sông hồ chỉ khác nhau ở cách diễn dải tỏ bày khi cần bày tỏ, tác giả Thanh Phong kể về nỗi: Nhớ mẹ

Bâng khuâng nhớ thuở còn thơ,

Con ăn cơm trắng, mẹ bo bo dùng

Trời đông gió rét lạnh lùng

Chăn bông con đắp mẹ trùm vải thưa

Ngày hè oi bức nắng trưa

Võng kêu Mẹ hát đu đưa con nằm…

Đêm đêm mẹ khấn lâm râm

Cầu xin đức Phật gia ân phước lành

Cho con khỏe mạnh tinh anh

Tương lai sự nghiệp rạng danh với người…

Rất hạnh phúc cho một dân tộc luôn lấy lễ nghĩa và tình cảm làm chuẩn mực cho cuộc sống, làm thước đo đạo đức cho mỗi con người, đất nước Việt Nam, con người Việt Nam rất tự hào với bao truyền thống tốt đẹp. Tôn sư trọng đạo là một trong những truyền thống ấy – mỗi con người chúng ta luôn gánh trên hai vai bốn ân sâu nghĩa nặng. Ơn đất nước quê hương, mẹ cha, thầy tổ, bạn bầu, với quan niệm không thầy đố mày làm nên; muốn sang thì bắt cầu kiều, muốn hay muốn giỏi phải yêu kính thầy. Vì thế mới có những người học trò làm quan đến đại thần nhất phẩm, bỏ áo mão cân đai đi đầu trần chân đất cúi mình vào ba gian nhà cỏ; cung kính khoanh tay hầu thăm thầy dạy học cũ với lòng biết ơn vô hạn, và niềm hạnh phúc trùng phùng sau tháng năm xa cách nhớ thương. Ngày xưa như thế và ngày nay cũng thế, học trò ngày xưa và học trò ngày nay họ cùng gặp nhau ở tấm lòng nhân nghĩa, tấm lòng ấy được thể hiện qua bài thơ Nhớ ơn thầy của người học trò Thanh Phong tóc trắng sương pha:

Nhân ngày nhà giáo Việt Nam

Gợi em nhớ lại những năm học đường

Nhớ thầy, cô giáo thân thương

Bao năm giảng dạy ở trường Bình Khê

Thời gian thấm thoát nhanh ghê

Bốn lăm năm vắng nay về gặp nhau

Trải qua những cuộc bể dâu

Thầy trò tóc đã bạc màu sương pha…

Đúng vậy người học trò ngày xưa và người thơ hôm nay tóc đã hai màu tiêu muối, thế thái nhân tình đã nếm đủ nhục vinh – phong trần lắm bận phong lưu lắm lần, bây giờ đang điểm lại tuổi mình sau bao ngày tháng miệt mài, giữa cõi phù sinh vinh hoa giả tưởng với:

 

Bảy mươi tuổi tự vịnh

 

Dốc cổ lai hy bước chạm rồi

Trăm năm đỉnh tới ráng trèo thôi

Qua thời năng nổ gây cơ nghiệp

Đến lúc thong dong ngắm đất trời

Cuộc sống ngàn phương nhờ vợ tính

Tình thơ vạn nẻo hết mình chơi

Trăng cài bến gió hồng đêm mộng

Dệt trải vần thương gởi lại đời

Đọc xong bài Bảy mươi tuổi tự vịnh, có lẽ không ai là không thích cặp luận ở bài này với cách diễn đạt nửa trang trọng nửa đùa vui dí dỏm ở cụm đối: nhờ vợ tính – hết mình chơi, thơ luật Đường mà giọng điệu cứ như của lớp người trẻ làm thơ mới.

Theo quan điểm Khổng Mạnh – và xã hội một thời quân chủ phong kiến Đông phương – thì người phụ nữ gương mẫu của gia đình là người đầy đủ tam tòng: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Và tứ đức: công, dung, ngôn, hạnh – đó là những đức tính phải có của người đàn bà Á đông nề nếp, bây giờ nền quân chủ ở Việt Nam đã cáo chung song song với “cái học nhà nho đã hỏng rồi”… Thế nhưng không phải vì vậy; mà phụ nữ của đất nước này tung hê mọi buộc ràng của kỷ luật khắt khe bất thành văn bản ấy, họ cứ mẹ truyền con nới liên tục tự nguyện đội cái “vòng kim cô” với niềm đau hạnh phúc, từ khi mạng nặng cái duyên kiếp đàn bà, cái thiên chức làm con gái, làm dâu, làm vợ… để hai sương một nắng chợ sớm đò chiều cho bếp hồng luôn ấm lửa thương yêu. Nếu không vậy dễ gì mà nhà thơ Thanh Phong cấu tứ nên bài thơ cảm tạ để tặng người vợ hiền, người phụ nữ tiêu biểu có tên gọi Bạch Hằng.

 

Cảm tạ

 

Cảm tạ ơn trời giúp Nguyễn Phong

Được trang hiền nội kính yêu chồng

Ba sinh gắn bó tròn câu hẹn

Một dạ trung trinh vẹn chữ tòng

Lặng lẽ vầng trăng ngời ngõ trúc

Thong dong cánh gió trải dòng sông

Đầu xanh chợt thoáng sương thu đọng

Vẫn sưởi lòng nhau ánh mắt trong

Không phải ai ai sinh ra lớn lên là có một mối tình hoàn hảo, có sẵn một người vợ, một người yêu lý tưởng để chung sống bên nhau… mà điều ấy còn tùy thuộc vào nghiệp duyên của mỗi con người, duyên tiền định đã đưa đẩy cho nhà thơ Thanh Phong gặp được người con gái Gò Công trọn bề tình lại rất vững vàng nội lực, để phấn đấu và chịu đựng bao chuyện vui buồn trong cái cõi nhân sinh phiền toái để giữ được tấm tình ân nghĩa với kẻ mất người còn cho trong êm ngoài ấm thủy chung. Thanh Phong thật hạnh phúc khi có được người: Bạn đời

Giữa dòng đời bôn ba xuôi ngược

Gặp em rồi neo bước phong trần

Miền Nam mạch sống trong ngần

Đẹp câu duyên nợ thắm vần thơ yêu

 

Chợt mới đó, tuổi chiều đã tới

Thời gian trôi chẳng đợi ai đâu

Tóc xanh nay đã bạc màu

Đôi ta chung thủy chia sầu, sẻ vui

 

Em giúp anh đẩy lùi bệnh tật

Lo thuốc thang tất bật đêm ngày

Nhỏ to an ủi giãi bày

Đã qua hoạn nạn thoát tay tử thần

 

Em là trăng non ngàn tỏa bóng

Anh là gió lồng lộng mây trời

Gió trăng trăng gió liền đôi

Đầu non cuối biển suốt đời bên nhau

 

Nước non mãi một màu xanh biếc

Ta dìu nhau nhịp bước tình thơ

Bồng bềnh mái tóc bạc phơ

Đường đời chung lối dòng mơ chung thuyền

Thơ lục bát của Thanh Phong hiền như buồng cau, nải chuối trong vườn xanh mượt mà của mảnh đất Bình Khê nhân nghĩa – nơi có bao bậc anh hùng nghĩa sĩ vì nước quên thân, nơi có người mẹ hiền lưng còng tóc trắng ngày ngày tựa cửa ngóng trông con qua bao năm tháng – đến lúc con công toại danh thành mong báo đền ơn dưỡng dục sanh thành thì mẹ đã theo luật tử sinh về nơi miên viễn và nỗi đau mất mẹ xé nát lòng con…

 

Tuần hương tưởng niệm

 

Mùa xuân năm ấy tái tê

Ngàn mây ủ rũ bốn bề lặng yên

Gió xuân nâng bước mẹ hiền    

Vào đêm mười sáu tháng giêng trăng tròn

Nỗi đau xé nát lòng con

Nhớ thương từ mẫu mỏi mòn canh thâu

Miền thánh địa cội nguồn cho mỗi chúng ta vọng tưởng đó là vùng trời đầy ắp hương hoa của tuổi ấu thơ dưới gối mẹ cha, bên thầy, bên bạn, tung tăng hai buổi đến trường hồn nhiên như nắng sớm reo vui, ăn no, ngủ kỹ chẳng vướng ưu tư, chẳng buồn cơm áo bởi “hết gạo thì có Đồng Nai, hết củi thì có Tân Sài đem qua”. Nếu quay ngược được thời gian hẳn không ít người muốn trở lại thời thơ ấu, vì không đủ phép mầu để quay về lại tuổi nguyên sơ nên mới nhớ như nhà thơ Thanh Phong:

Nhớ thời thơ ấu

Nhớ quá bao năm đã vắng nhà

Nhớ thời thơ ấu vút trôi qua

Nhớ cha dạy bảo – lời nghiêm nghị

Nhớ mẹ khuyên bày – giọng thiết tha

Nhớ ánh dương lên chim ríu rít

Nhớ hoàng hôn xuống dế ngân nga

Nhớ mùa lúa chín vàng thơm ngát

Nhớ sớm tinh sương rộn tiếng gà

Thanh Phong – Bạch Hằng không chỉ là một cặp vợ chồng “tương kính như tân” mà họ còn là đôi bạn đạo cùng tổ cùng thầy, họ dắt dìu nhau tu tập, dìu bước nhau trên hành trình tìm đến ánh đạo vàng qua kinh điển, và cả thực tế bằng chuyến hành hương về đất Phật, người ở tiếp sức mạnh tinh thần cho kẻ ra đi qua bài:

 

Chúc em

 

Chúc em thượng lộ bình an

Về thăm xứ Phật đạo vàng thăng hoa

Nơi đây đức Phật Thích Ca

Niết Bàn nhập diệt than xa cõi đời…

 

…Em đi anh rất hân hoan

Cùng chung thầy bạn Đạo Tràng Pháp Hoa

Đón thiên niên kỷ mới qua

Cầu mong nhân loại hoan ca thái bình

Mới nhìn vào tựa bài “Nhớ người xưa” khách thơ cứ tưởng là Thanh Phong đang để lòng về dĩ vãng, hướng đến một bóng hồng cố nhân nào đấy ở tuổi thanh xuân. Nhưng nội dung không phải thế. Người xưa mà Thanh Phong đề cập ở đây là một thi nhân thời Thịnh Đường bên Trung Hoa là Tư Huân viên ngoại lang Thôi Hiệu, tác giả của bài thơ Hoàng Hạc Lâu nổi tiếng…

Trong chuyến du lịch Trung Quốc người thơ Việt Nam đã đặt chân đến Lầu Hoàng Hạc với mục đích chiêm ngưỡng nơi chốn từng gợi thi hứng cho thi sĩ Thôi Hiệu phóng bút thành tuyệt phẩm để đời, đến chốn cũ Thanh Phong xúc động và hai bài Đường luật liên vận mang tên “Nhớ người xưa” ra đời:

 

Nhớ người xưa

 

Người về tiên cảnh chín tầng mây

Hoàng Hạc Lâu kia vẫn chốn này

Lồng lộng nắng vàng ngan ngát tỏa

Mênh mông mây bạc chập chùng bay…

Niềm hạnh phúc lớn và nỗi hệ lụy phiền não cũng lớn rộng vô cùng của người thơ là họ trao gởi và đón nhận quá nhiều tình cảm của người mộ điệu, của khách tri âm tri kỷ gần xa, người mang nghiệp viết lách họ có niềm vui là đến đâu cũng được mọi người tự nguyện đón tiếp và tiễn đưa mà không cần phải lệnh lạc thông báo thông tư như ở giới quan chức, từ ngàn trước đến ngàn sau, năn nghệ sĩ là loại vua không ngai và quan thì không có phẩm hàm cấp bậc, họ chỉ có thơ và bạn:

 

Nghĩa bạn tình thơ

 

Chào mừng quý khách sáng hôm nay

Không ngại đường xa sức yếu gầy

Đồng Phó An Nhơn về chẳng thiếu

An Nhơn Bình Định đến thêm đầy…

Phiêu bồng khăn gói gió đưa là cái bệnh của người thơ vì thế chẳng ai ngạc nhiên khi thấy nội dung trong thi phẩm Trăng cài bến gió hết một nửa dành cho phần ký sự du lịch, bước chân của Thanh Phong đặt khắp nẻo sông hồ từ trong nước đến hải ngoại, nơi chốn nào ông cũng ghi lại bao hình ảnh, cảnh sắc thân yêu thơ mộng và hùng vĩ mà tiêu biểu là bài:

 

Thăm Đền Hùng

 

Vờn trông mây núi chập chùng

Nay là ngày cuối Đền Hùng về thăm

Đường đi Vĩnh Phú xa xăm

Một lòng viếng Tổ bao năm chưa từng

Đây rồi cảnh cũ Đền Hùng

Phụng thờ chư Tổ con Rồng cháu Tiên…

Ai là con dân đất nước Việt Nam lại không tự hào với nền dân trí với lớp người khoa bảng mà tên tuổi đã được khắc lên bia đá nghìn năm tại Văn miếu Quốc Tử Giám ở thủ đô Hà Nội. Nhà thơ Thanh Phong đã bồi hồi ghi lại kỷ niệm một lần đến với :

Quốc Tử Giám

Ngôi nhà Quốc Tử Giám đâu

Xin đi mấy phố bước mau đến liền

Đá rùa bia đội bảng tên

Trạng nguyên tiến sĩ danh lên bảng vàng…

Là người Phật tử thì ngôi chùa là mái nhà thân thương của họ vì thế bất luận nơi chốn nào, địa phương nào, vùng miền nào mà họ dừng chân trên hành trình du lịch thì Chùa là chỗ họ tìm đến đầu tiên, trong cuộc du hành phương Bắc, tác giả Trăng cài bến gió đã tìn đến ngôi chùa mà nhà thơ Huy Cận đã một lần đưa vào thơ đó là chùa Tây Phương và Thanh Phong cũng đã viết về ngôi chùa này cũng với tựa đề:

 

Chùa Tây Phương

 

Tây Phương chùa cổ là đây

Tượng phật nghìn mắt nghìn tay ánh vàng…

Cuộc rong chơi nào cũng phải đến hồi kết thúc – chuyến hành phương Bắc của Thanh Phong đã khép lại với bao luyến tiếc ngậm ngùi giữa người về kẻ ở, giữa cảnh và người… đa cảm là tố chất của nhà thơ, người thơ đi đến đâu là gieo mầm tri ngộ và gặt quả lưu luyến thương. Chúng ta nghe nỗi luyến thương của Thanh Phong:

Hà thành ơi! Mãi thân thương

Đoàn tàu chuyển bánh còn vương nỗi lòng

Người xưa có câu: “Chồng khôn vợ được mang giày, vợ ngoan chồng được lâu ngày cậy trông”. Đem câu ấy áp dụng vào đời sống của nhà thơ Thanh Phong có lẽ đúng, nếu không phải thế Thanh Phong đã chẳng viết:

 

Thôi đành nhờ vợ

 

Bắt chước bạn bè tết tặng thơ

Nghênh xuân khai bút đón giao thừa

Đường thi năm vận lời chưa thoáng

Lục bát vài câu ý đã mờ

Sự nghiệp huy hoàng không dám ước

Công danh rực rỡ chẳng còn mơ

Thôi đành nhờ vợ ngày hai bữa

Thỉnh thoảng tìm vui đến Hội thơ

Nói thỉnh thoảng đi hội thơ là một cách nói khiêm tốn thôi chứ 365 ngày trong một năm có lẽ Thanh Phong đã sống trọn với thơ từ khi nhập cuộc, vì đến với thơ muộn, nên Thanh Phong yêu thơ sâu sắc nồng nàn và thủy chung với thơ cho đến phút cuối đời.

“Tái ông thất mã” – một thành ngữ thuần Hán đã có tự ngày xưa – sự rủi may nào cũng mang tính bù trừ, Thanh Phong ý thức được điều đó hơn ai – vì ông là người trong cuộc – ông là người từng mất quá nhiều và được khá lớn nên ông:

 

Tự biết mình

 

Trong may có rủi – rủi mà may

Cuộc sống muôn màu – cuộc tỉnh say

Trái đạo trái đời nên vội tránh

Phải tình phải lý cứ làm ngay

Bén duyên bén nợ cơ trời đó

Đừng giận đừng lo cõi thế này

Ánh đuốc lương tri ngời ánh đuốc

Tự ta ta biết tự ta hay

Mới nhìn dáng dấp oai phong với vai năm tấc rộng thân mười thước cao ai cũng nghĩ Thanh Phong nghiêm nghị khó gần – nhưng không – người thơ này rất biết đùa và đùa rất ý nhị, chúng ta nghe ông đùa qua bài thơ:

 

Tường thuật ngày Quốc tế Phụ nữ (8-3)

 

Lễ trọn nguyên ngày “tám tháng ba”

Quý bà chưng diện đẹp như hoa

Thoáng trông ai đó như tiên nữ

Nhìn kỹ người đây đúng vợ mà

Lỡ hứa khoe tài ôm hết việc

Thầm vui nỗ lực ráng tròn ca

Ước gì sống mãi trên trăm tuổi

Rõ mặt yên hùng “tám tháng ba”

Không phải giữa cõi ta bà bon chen tất bật này – chúng ta dễ dàng làm được những gì mình muốn, mình tâm niệm, nếu thiếu yếu tố cộng hưởng, thiếu nhân tố tích cực để biến những ước muốn những tâm niệm vì mọi người thành thực tế lợi lạc cho đồng loại, nhà thơ Thanh Phong may mắn có được những điều kiện thuận lợi bởi: Thiên thời, địa lợi, nhân hòa – Ông viết bài thơ “Trọn phỉ nguyền” như một lời tri ân sâu sắc đối với cuộc đời, cuộc tình, cuộc hôn nhân mà ông đã nhận được do duyên lành của tiền kiếp xa xưa:

 

Trọn phỉ nguyền

 

Ông tơ bà nguyệt khéo xe duyên

Tình nghĩa đôi ta trọn phỉ nguyền

Thu chớm trăng treo vàng cuối ngõ

Xuân về hoa nở ngát đầu hiên

Dòng đời thanh thản hòa chung bước

Cuộc sống yên vui ước vẹn tuyền

Khúc nhạc vần thơ dìu lối mộng

Ru hồn lữ khách lạc cung tiên

Người viết lời giao cảm để dẫn thơ qua mọi nẻo đường hỉ, nộ, ái, lạc, xin được có mấy lời thưa gửi tâm sự cùng khách yêu thơ – tập “Trăng cài bến gió” của nhà thơ Thanh Phong có 146 bài đủ thể loại gói trọn một đời người, một đời thơ của tác giả vì thế quý vị thể tình cho người chọn đã tham lam trích dẫn.

Nguyện đem công đức này hồi hướng cho cố Phật tử Pháp Đức Thanh Phong và mọi loài mọi vật được sống trong an lạc thái hòa giữa triền tử, sinh, thành, hoại.

 

 

 

 

Ninh Giang Thu Cúc
Số lần đọc: 936
Ngày đăng: 16.01.2020
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Mùa Xuân trong thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ - Chế Diễm Trâm
“Cùng tử ngộ gia hương” - Ninh Giang Thu Cúc
Vài ý về chữ dùng trong thơ (9) - Nguyên Lạc
Sự thật trần truồng - Võ Công Liêm
Nghệ thuật của Viết và Đọc - Võ Công Liêm
Sắp xếp lại ý thức viết - Võ Công Liêm
“Cha và con lính trận” Tài sản lớn nhất của tác giả - Nguyễn Tiến Nên
Nghệ thuật của tâm trí - Võ Công Liêm
Chỉ là đợt thử mắt bên phải (Tham luận tại Hội thảo “Văn học hải ngoại: thành tựu và tiềm năng” - California, 27/1/2007) - Đỗ Quyên
Đọc “Lục bát chiều” Võ Miên Trường - Nguyên Bình BRVT