“Câu thơ một chữ cái
Câu thơ bắt nhịp nỗi buồn”
(Một ngày trái mùa xuân – Trần Thị Huê)
Trần Thị Huê xuất hiện không ồn ào, phô trương. Thơ chị gánh vác những đằm lặng của người “đàn bà đã cũ”. Chị viết như để giải thoát khỏi ràng buộc của cuộc sống, để được là chính mình. Đọc “Thế giới ngủ trong đường viền”, giọng thơ tự thuật, tâm tình của chị từng xuất hiện ở các thi tập trước, nhưng nay đậm nét, độc đáo hơn. Khai mở phần vô thức, có thể nói, là tín hiệu thám mã những ám tượng, hấp dẫn của diễn ngôn “chảy qua cơn mê” và cảm quan phái tính của người đàn bà thơ “đợi bàn tay che kín nỗi buồn” trong “Thế giới ngủ trong đường viền”.
Thơ luôn tạo sinh những luật chơi. Sự chơi có vai trò quan trọng đối với quá trình cách tân thơ, đưa đến cái hay, cái mới và xác lập mối quan hệ tương tác giữa tác giả - tác phẩm - người đọc. Thi sĩ hoàn toàn linh hoạt, tự do, chủ động, bày biện các chiều cạnh của thế giới theo luật chơi của mình. Càng nhiều khoảng lặng, điểm dừng, điểm đứt gãy, trật khớp thì sự vẫy gọi, làm đầy văn bản càng lớn. Từ người chơi, người tham gia và kể cả luật chơi đều không ngừng dịch chuyển, biến đổi theo tính chất tắc kè hoa của ngôn ngữ. Tất nhiên, để giải phóng và thăng hoa cảm xúc, sự liên tưởng ở người đọc, thi sĩ phải là người đầu tiên ý thức sáng tạo luật chơi. Sự chơi của thơ sẽ rơi vào khiên cưỡng, áp đặt nếu thi sĩ chỉ là “thợ thơ”. Xuất phát điểm của thơ và cái đích của thơ, xét cho cùng, đều bắt nguồn từ vóc hình “tự nhiên” của nó. Nhưng nó (thơ) chỉ thực sự có hồn, có cảm xúc, tạo sự lay động khi thi sĩ biết vượt lên trên thủ thuật luyện chữ, khắc chữ. “Thế giới ngủ trong đường viền” của Trần Thị Huê đã có những cuộc “vọc” chữ khá thú vị. Tập thơ là chuỗi dài các cuộc đối thoại giữa người đàn bà thơ với anh, với vạn vật xung quanh. Lúc nào người đàn bà thơ cũng chủ động tạo các cuộc đối thoại, muốn “nói với”, “nói cùng”, phơi bản thể mà tâm sự, giãi bày. Nói với anh, với vạn vật, thực chất là người đàn bà thơ đang tự đối thoại với nỗi đơn độc của mình. Đó là dạng đối thoại trong độc thoại. Đối thoại theo hướng “vô âm”. Chị để người đàn bà thơ đối diện, chất vấn đồng thời với hai con người, hai phía thời gian, nhằm tạo ra nhiều tiếng nói, nhiều điểm nhìn. Rồi chị huy động mọi cảm xúc của người đàn bà thơ đặt lên cảm xúc của người đàn ông, của vạn vật mà xác tín bản thể: “Em vẽ lên trang giấy những mảng màu khác lạ/ Nói với dòng kẻ/ Màu nguyên gốc tô hết con đường/ Cho dù anh khó lòng cắm hoa vào đó/ Người ta chỉ đi qua/Và tựa lưng vào cái khác/ Mảng màu nói thật lòng/ Chỉ vẽ hết con đường gần như anh đã biết/ Bản nhạc buồn/ Hôn lên ánh mặt trời uống vật cản ngày em không thể nuốt/ Ngày xanh ngồi bên câu thơ/ Ngổn ngang ý nghĩ/ Ý nghĩ lớn đầu ngón tay/ Đủ để nói với anh/ Màu nguyên gốc tựa như ánh bình minh lớn lên từ biển/ Nhẫn nại trước phong ba/ Và biết cõng cánh chuồn trong nắng/ Trước yên bình/ Ngày mới không tên” (Ngày mới không tên).
Thời gian đêm được chị đẩy lùi về miền hồi ức, nơi người đàn bà thơ đã từng có một tình yêu đẹp. Rồi chị dùng không gian đặc đêm lôi kéo người đàn bà thơ ra khỏi miền ấy, để người đàn bà thơ đối diện với thực tại đầy chua xót, bẽ bàng. Không - thời gian đêm vì thế như là nhân chứng làm rõ phận đời của người đàn bà thơ. Đồng hiện không - thời gian giữa quá khứ và hiện tại, giữa ngọt ngào, hạnh phúc với đơn chiếc, trống vắng, chị phản ánh rõ nét hơn thế giới nội tâm của người đàn bà thơ, vừa đa cảm, phức tạp vừa khó dò đoán, suy xét. Một mặt, người đàn bà thơ muốn lãng quên khuôn mặt người đàn ông, mặt khác, lại muốn đào xới, lật tung. Câu chuyện về người đàn ông cứ vắt từ đêm này sang đêm khác, không nguôi thổn thức: “Em kể anh nghe/ Những dấu chấm than dài trên trang giấy/ Những câu chuyện dành riêng cho anh phía ấy đơn côi/ Đêm tròn xoe đôi mắt/ Đêm dài trên mái tóc/ Đêm mảng màu xanh thắm/ Đêm của suối mát trong lành/ Đêm không phải con tàu anh đi cùng chuyến/ Đêm/ Là em phía ấy lặng thầm” (Đêm). Qua những câu như: “Căn nhà chật bóng tối”, “Dán sẵn vào bức tường chết”, “Những bậc thang có chữ số”, “Những dòng chữ tựa cọng rơm rối”, “Khuôn mặt cửa sổ sao phủ kín trời”... có thể hình dung người đàn bà thơ đang ngồi trước văn bản vào những đêm khuya, bên ô cửa sổ nhỏ “lạnh ngắt”, trong một căn nhà có cầu thang được đo “bằng lời nói” mà ngẫm nghĩ về thân phận và cuộc sống. Xét về mặt không gian, điểm nhìn của người đàn bà thơ bị giới hạn, trói buộc. Ngay cả nhan đề tập thơ “Thế giới ngủ trong đường viền” cũng đã thể hiện sự chật chội. Không gian riêng tư của người đàn bà thơ được chị thu hẹp lại, gói lại, có đường, có viền, có nét và đậm tính nữ: “Thế giới ngủ trong đường viền của chiếc túi xách”. Xét về mặt thời gian tâm lý, vạn vật không cố định một chỗ, mà đang trương nở và bị khuấy đảo. Kết cấu dạng “dài hơn”, “nhiều hơn”, “chật”, “khâu”, “vá”, “xếp”, “gọi”, “chẻ đôi”, “chia hai phía”... là những căn cước thấu hiểu tâm trạng của người đàn bà thơ. Người đàn bà thơ đã lấy cuộc đời mình ra mà làm “sống động” những ký tự: “Là em phía ấy lặng thầm/ Những chùm hoa không còn biết nở/ Những bài thơ không còn biết hát/ Nhưng chuyện buồn cứ thế mãi ngân lên/ Căn nhà chật bóng tối/ Căn nhà khép lại/ Mùa trăng vãn tiếng ve ngân/ Và rồi mọi chuyện qua đi/ Những tiếng động vồ vập/ Những cầu thang ai chia lối khác” (Đêm); tự cô đặc mình trong đường viền của bức tranh cuộc đời, tự xem mình là kẻ đứng phía sau, là kẻ bên lề: “Chừng ấy năm đi dưới bàn chân/ Nghe xát và êm khoảng khuyết/ Chân viết hẳn một nét huyền chảy dài mi mắt/ Tóc khâu hoài niệm trăng ngọt nằm nghiêng” (Thế giới ngủ trong đường viền). Chuỗi đơn chiếc này láy đi láy lại, dồn ép “nỗi đoạn trường” của người đàn bà thơ: “Nghiêng về đơn phương đặt vào bàn tay trống/ Phương trời cứ ráo riết gió thổi cứ xoay quanh vành môi trái tim/ Dán sẵn vào bức tường chết/ Năm canh chạy dài/ Mất hút” (Dài hơn cuộc đời anh đang có).
Những chấn thương tâm hồn sinh tạo ảo giác, khiến cho các sự vật hiện tượng xung quanh người đàn bà thơ đều biến dạng. Xuất phát từ điểm nhìn của ô cửa nhỏ nhưng sự tưởng tượng, sự vỡ bung nội cảm trong người đàn bà thơ quá lớn, khiến thế giới cứ chập chờn thực ảo. Lúc này, những xung năng vươn dậy, làm méo mó, xô lệch, đứt gãy mọi thi ảnh. Trang giấy, ô cửa sổ, chiếc cầu thang, căn nhà không thể chứa hết nỗi niềm của người đàn bà thơ. Nỗi niềm căng chật, trườn ra bên ngoài: “Chuông gọi nói mỗi câu/ Mọi ràng buộc xếp gọn dưới đáy ba lô/ Nghiêng về đơn phương đặt vào bàn tay trống/ Phương trời cứ ráo riết gió thổi cứ xoay quanh vành môi trái tim/ Dán sẵn vào bức tường chết/ Năm canh chạy dài/ Mất hút” (Dài hơn cuộc đời anh đang có). Không - thời gian đêm (lặp lại đến 53 lần) trở thành khoảng nối giữa bên trong và bên ngoài, có và không, thực và mơ, có lý và phi lý. Người đàn bà thơ xem đêm như là trò chơi. Nhưng người đàn bà thơ không thể nào quán xuyến được luật chơi. Đêm cố hữu, đậm đặc lên cơ thể và ngôi nhà của người đàn bà thơ. Đêm bám riết lấy cơ thể của người đàn bà thơ, chồng chất suốt năm canh, và chồng từ đêm này sang đêm khác: “Đêm dài không thể ghép nguyên nụ hôn”, “Gợi mắt buồn trắng đêm”, “Đêm dài của ngàn vì sao đang bủa vây bàn tay nhỏ bé”, “Đêm dài trên mái tóc”, “Để cho tóc rối úa màu với đêm”, “Bốn mùa và đêm rơi vào đáy mắt”, “Làn môi vẽ con đường son đỏ/ Gợi mắt buồn trắng đêm” (Nẻo có đôi)... Tuy nhiên, khoảnh khắc hiện hữu, được là chính mình ấy càng làm cho cơn mộng ảo thêm phần tê tái. Người đàn bà thơ bị đêm bủa vây, giăng kín. Càng hạn định, người đàn bà thơ càng muốn nổi loạn, bứt phá và vượt thoát. Người đàn bà thơ tìm mọi cách chơi/đùa/nghịch với đêm, áp thân thể lên đêm, lấy thân thể giao hòa với đêm để cảm nhận từng sát na hiện hữu. Thân thể lẫn tâm hồn bươn khỏi không gian chật hẹp, tìm đến sự vô biên của thời gian, sự rộng lớn của vũ trụ: “Mắt đêm gãy đôi”, “Gọi đêm tràn ra ngoài khung cửa”, “Đêm tràn phố thị ướt ngôi nhà hướng về phía núi”,... Do vậy, đối thoại cũng là phương tiện để người đàn bà thơ tự tạo ra sự gây hấn với bản thân. Lằn ranh gây hấn ấy nảy nở những góc nhìn “biến dạng”, “phi lý”. Trần Thị Huê đặt các thi ảnh có lý bên cạnh các thi ảnh phi lý rồi phá vỡ, nhảy cóc liên tục. Những ý tưởng nhảy cóc, những màu sắc siêu thực cứ cuộn vào nhau, gối lên nhau, lăn lộn cùng nỗi niềm của người đàn bà thơ. Lẽ sinh tồn của vạn vật xung quanh chính là hiện thân bóng hình và thân phận người đàn bà thơ: “Đồng hồ treo tường lạc giọng”, “Mảng màu nói thật lòng/ Chỉ vẽ hết con đường gần như anh đã biết” (Ngày mới không tên), “Chỉ có làn nước trong veo neo vào tận cùng của đáy cốc/ Và rồi nhẫn nại tập đi” (Ngọn cỏ bắt đầu biết mọc), “Mặt trời hái nhiều nếp nhăn xếp đầy tay”, “Không gian khâu ngàn vết thương”,… Có lúc đành lòng đến là tê tái: “Đêm cứ mang em ra làm trò đùa mãi thế”; thậm chí phải nhận sự trả giá của đêm: “Em vô tư người đàn bà vô tư chẳng biết mắt đêm đã gãy”; và hành trình phía trước dẫu “Đường đi trong chiếc guốc/ Đường đi chìm vào khoảng lặng im” (Người đàn ông của chị); song người đàn bà thơ của chị chưa bao giờ ngừng khát khao khẳng định tiếng nói của trái tim, vẫn rất kiêu hãnh, ngạo nghễ về nỗi cô đơn của mình và thổ lộ cái “nhân vị đàn bà”: “Mặt trời quay về hướng núi/ Chị cuộn mái tóc dài che khuôn mặt/ Che số phận của mình và người đàn ông giấu mặt/ Chị đã cưới sau mưa” (Người đàn ông của chị). Ở đó, người đàn bà thơ biết “nói thật lòng”, biết thỏa thuận theo lí lẽ riêng: “Nếp vải chừa lề/ Đủ dành cho hạnh phúc” (Sợi chỉ). Như thế, thái độ hiện sinh của người đàn bà thơ là thái độ thặng dư giá trị, vẻ đẹp của nỗi buồn: “Chỉ ước cắm vào mình minh những cánh hoa thơm”, “Tay bưng mặt trời còn lại phía cao vút cát vàng”, “Bản nhạc của tôi thành chong chóng bay lên”,…
Nội hàm tiếng nói trong “Thế giới ngủ trong đường viền” được mở rộng, không chỉ là tiếng nói của người đàn bà thơ mà còn là tiếng nói của những thân phận đàn bà: “Em hóa thành câu thơ/ Gọn/ Câu thơ một chữ cái/ Câu thơ bắt nhịp nỗi buồn” (Một ngày trái mùa xuân). Nếu độc giả dùng lý trí để giải mã, khó có thể cảm thụ được những khoảnh khắc vong thân, khát vọng “vá lành cơn khát” của “đôi môi thèm son” rất đỗi nhân bản trong thế giới vô thức của người đàn bà thơ. Vì “Thế giới ngủ trong đường viền” của Trần Thị Huê là thế giới của “ý nghĩ nhiều hơn thời gian đã nghĩ”.