Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.138
123.227.549
 
Thung lũng trăm năm: Tiểu thuyết (Chương 4: Cuộc gặp gỡ định mệnh)
Võ Anh Cương

 

 

Hai tuần trăng trôi qua kể từ ngày hai anh em họ Trương leo lên đỉnh núi Bi Đúp, Trương Đại Quá và Trương Thái đã dò khắp chân núi nhưng vẫn không tìm ra xứ sở của người loắc choắc. Lương thực cạn kiệt họ săn bắt hái lượm để sống qua ngày. Cũng may muôn thú dưới chân núi Langbiang và Bi Đúp khá nhiều với tài thiện xạ của Trương Thái  cái ăn không là điều khó kiếm. Người Lạch lại không ăn thịt nai cho nên con vật này trở thành thức ăn của anh em họ. Tuy vậy họ không phải là những người lạm sát, Trương Đại Quá thường nói với Trương Thái:

- Vạn vật sinh ra là để phục vụ con người, con người là chúa tể của muôn vật nhưng dù sao muôn vật cũng là sinh linh cũng ham sống sợ chết. Vì vậy chỉ khi thật cần thiết chúng ta mới săn bắn để có cái ăn em không nên lạm sát. Như vậy mới sống hợp với đạo lý của tự nhiên.

Tuy không hiểu lắm nhưng Trương Thái cũng vâng lời người anh. Cậu không ham giết chóc nhưng ăn thịt cá hoài cũng xót ruột  nên Trương Thái thường chế biến thêm món rau rừng để thay đổi bữa. Món rau mà Trương Đại Quá thích nhất là món canh lá bép nấu với tấm và đọt mây rừng. Đây là một món ăn hàng ngày của người Mạ mà thầy cậu truyền lại cho cậu. Quả thật món rau rừng này rất ngọt  nếu có vài con cá suối nấu thêm vào thì món canh rất đậm đà. Trương Thái sống trong thiên nhiên hoang dã rất vô tư hình như cậu là một phần tử của núi rừng, cây cỏ. Một hôm Trương Thái nói với Trương Đại Quá:

 

- Quá đại ca em thấy mấy hôm nay anh ăn chẳng ngon miệng có lẽ anh đã thèm cơm rồi phải không? Hay là anh em ta vào một bon của người Lạch xin đổi chút gạo anh thấy thế nào?

Trương Đại Quá ngạc nhiên:

- Em có gì để đổi, ta lang thang trên cao nguyên này cũng gọi là lâu ta nghĩ khi túng bấn ta xin gì thì người Lạch cũng giúp thôi nhưng em lại muốn trao đổi là ý làm sao?

Trương Thái cười bí hiểm:

- Quá đại ca cứ theo em, em không muốn xin gạo của người Lạch em chỉ muốn trao đổi thôi!

Hai người đi theo một con đường mòn rời khỏi chân núi Bi Đúp, trên đường  đi hai anh em có tâm trạng khác nhau. Với Trương Thái ở đâu cũng vậy  cậu là một phần của núi rừng Langbiang, cậu rất vui khi có thêm một người anh kết nghĩa cậu mong hai anh em cứ sống với nhau thì cậu mãn nguyện lắm rồi. Còn Trương Đại Quá  trong những tao ngộ anh gặp thời gian qua, anh thấy rằng mục đích của đời mình rất khó đạt được. Anh là một người trọng chữ tín như thầy anh thường dạy cho nên khi đã hứa với Trương Thái  chừng nào tìm ra linh dược cho Thái anh mới yên tâm đi tìm sừng tê giác cho mình. Cho đến lúc này Trương Đại Quá vẫn chưa có một tia sáng nào trong việc tìm chiếc sừng tê ngoài mẩu chuyện Trương Thái nghe lóm từ sư phụ. Nhưng Đại Quá vẫn hy vọng với nỗ lực của mình mục đích đời anh sẽ đạt được. Anh sẽ lấy cô Ba làm vợ, anh sẽ đi tìm một vùng đất khác tỷ như cao nguyên Langbiang để chung sống hạnh phúc bên cô Ba. Trong sâu thẳm tâm hồn Trương Đại Quá thấy cuộc sống như vậy thì tầm thường quá nhưng làm gì để có một cuộc sống khác thì Trương không biết.

Với hai tâm trạng khác nhau  anh em nhà họ Trương đi xa chân núi Bi Đúp. Xa xa một làn khói tỏa trong cảnh chiều hôm Trương Thái hớn hở nói:

- Quá đại ca có lẽ chúng ta sắp đến một bon của người Lạch rồi. Tối nay chúng ta sẽ ngủ ở đây thôi.  

Đúng như Trương Thái nói  một lát sau hai anh em trông thấy một dẫy nhà dài. Từng làn khói tỏa ra trong dẫy nhà đó như vậy là dân làng đang nấu cơm chiều. Nghĩ đến từ cơm Trương Đại Quá thấy bụng mình sôi lên, quả là đã từ lâu hai anh em anh chưa có hột cơm nào trong bụng. Là một người tiết dục Trương Đại Quá không bao giờ để lộ việc thèm khát một thứ gì ra ngoài mặt nhưng chiều nay một cơn gió thoảng qua mang mùi cơm đang chín tới đến mũi anh khiến anh nhớ vô cùng những chiều quê mà anh đã xa lâu lắm rồi. Quê hương là một lời réo gọi đến héo hắt cả ruột gan!

Đang chần chừ trước cửa thì một người đàn ông đứng tuổi xuất hiện trước chiếc thang được đẽo bằng một thân cây rừng. Thấy ông già Trương Đại Quá cung kính vòng tay lại và tiến lên một bước, anh chào:

- Chào bác chúng cháu là kẻ lỡ độ đường, chúng cháu xin tá túc ở bon ta đêm nay  được không?

Ông già nhìn hai anh em:

- Chàng trai hai người từ đâu đến, muốn ngủ ở bon ta đêm nay à. Được thôi mời vào!

Ông già nói tiếng Kinh bằng một âm điệu hơi cứng, Trương Đại Quá hơi ngạc nhiên khi gặp một người thạo tiếng Kinh ở một bon nhỏ bé và hẻo lánh này. Hai anh em theo ông già vào nhà bên trong có khoảng hai chục bếp đang đỏ lửa, mùi cơm từ các bếp bốc ra thơm nức mũi. Ông già mời hai người ngồi xuống nhà rồi nói:

- Hai chàng trai ta tên là K’Rè là già làng ở bon Cây Ngo đỏ này, còn hai người là ai sao lại đến bon ta? 

Trương Đại Quá trả lời:

- Thưa với già làng cháu tên là Trương Đại Quá còn em cháu tên là Trương Thái, hai anh em chúng cháu đang đi tìm cây thuốc để sư phụ em Thái chế thuốc cứu người. Mấy hôm nay hết cả lương thực chúng cháu xin với già làng cho chúng cháu được tá túc qua đêm nay.

Trương Đại Quá định nói thêm nữa nhưng Trương Thái đã cướp lời:

- Chúng cháu không để già làng thiệt đâu cháu xin đổi vật này lấy gạo được không?

Nói xong Trương Thái cho tay vào bọc và lấy ra một bụm nhỏ hạt cườm có màu đỏ và xanh lạ mắt. Những hạt cườm đó chỉ nhỏ bằng một nửa hạt bắp và có một lỗ nhỏ ở giữa có lẽ dùng để xâu lại với nhau. Trương Đại Quá ngạc nhiên hết sức anh không biết Trương Thái có những vật này. Còn ông K’Rè tỏ ra thích thú với món quà của Trương Thái, ông cầm từng hạt lên và ngắm nghía thật kỹ. Một lúc lâu ông già nói:

- Được lắm ta chịu đổi!

Nói xong ông già quay qua nói với một người thanh niên đang xì xào vì những hạt màu xanh đỏ vui  mắt của  Trương Thái. Trương Đại Quá không biết ông K’Rè nói gì nhưng vẻ hài lòng hiện rõ lên mặt mấy chàng trai. Ông K’Rè quay qua nhìn anh em họ Trương:

- Đêm nay hai anh em ngủ lại bon ta  sáng mai ta sẽ lấy gạo cho, còn vật này để con Ka Thiếu bắt chồng.

Nói xong ông già ra hiệu cho một người thiếu nữ mang cơm đến và mời hai anh em ăn. Cơm gạo rẫy thật là ngon tuy thức ăn không có gì chỉ vài cọng rau rừng nấu lên mà Thái gọi là canh. Muối là một thứ cực hiếm ở đây chỉ những người bệnh mới được ăn muối, bon Cây Ngo đỏ chưa đi đến xứ sở của những người Chăm Pa  nơi có những ngọn tháp huyền bí để đổi lâm sản lấy muối và sắt được. Ông già K’ Rè cho anh em Đại Quá biết như vậy. Nghe ông K’Rè kể Trương Đại Quá cảm thấy thương những người Lạch thiếu thốn những thứ tối cần thiết cho đời sống thường ngày. Anh hỏi:

- Vậy dân làng ta phải ăn lạt à?

Ông K’Rè chậm rãi nói:

- Không đâu ta đốt cỏ tranh lấy tro ăn thay muối mà!

Thì ra là như vậy người ta có thể dùng tro tranh để ăn thay muối. Trương Đại Quá lấy làm ngạc nhiên khi khám phá ra điều này. Anh sống một thời gian cũng gọi là dài trên cao nguyên  nhưng hôm nay mới biết chuyện này, quả là đi một ngày đàng học một sàng khôn như ông bà thường nói. Còn Trương Thái cậu sống trên cao nguyên này và chưa bao giờ đi xa những cánh rừng những trái đồi tròn và những con suối suốt ngày đêm cứ róc rách chảy nên cậu không ngạc nhiên một chút nào. Cậu biết chuyện tro tranh có thể ăn thay muối cũng như người ta có thể tước một thứ vỏ cây I e để dệt nên quần áo. Thái hỏi ông K’Rè:

- Vậy chừng nào bon ta đi đổi sản  vật lấy muối hả bác?

- Ta cũng tính tới mùa trăng sau khi tuốt lúa xong là sẽ lên đường thôi.

Bây giờ là giữa mùa mưa, Thái nhẩm tính như vậy có lẽ khoảng ba tuần trăng nữa là bon Cây Ngo đỏ lên đường đi đổi muối. Thái nói:

- Vậy ta đem theo vật gì để đổi?

Ông K’Rè nhìn vào bếp lửa đang cháy, ánh lửa rọi khuôn mặt khắc khổ của ông lung linh trên bức vách được đan bằng những tấm liếp tre ông chậm rãi nói:

- Ta biết có một thứ mà người Kinh rất thích, loại cây đó có trên xứ sở của chúng ta. Mùi nó rất thơm khi ta đốt lên mà thơm rất lâu. Người Kinh gọi nó là trầm hương các cháu có biết không? 

Đang ngồi Trương Thái nhảy dựng lên:

- Bác có không  bác K’Rè, bác đổi cho cháu một ít được không? Bác muốn đổi thứ gì cũng được cả!

Ông K’Rè thản nhiên trả lời:

- Ta không có!

Trương Thái thất vọng:

- Vậy mà bác định đem trầm hương đi đổi lấy muối mang về!

- Đúng vậy ta định đem đổi trầm hương lấy muối mang về để cho lũ làng khỏi lạt cái miệng, người già không run cái chân, ngươi trẻ không còn thắc mắc hỏi ta chừng nào đi đổi cái muối mang về cho bon Cây Ngo đỏ!

Trương Thái hỏi:

- Vậy chứ bác lấy thứ của hiếm đó ở đâu? 

Cậu nhìn ông K’ Rè với một cặp mắt chế giểu, một nụ cười tinh quái lấp lánh trong cặp mắt màu nâu sáng lấp lánh trên gương mặt thông minh sáng láng. Ông già K’Rè vẫn điềm nhiên như không nhìn thấy thái độ của Thái, ông trả lời:

- Ở đâu à ta cũng không biết!

Thật là hết chỗ nói Trương Thái nghĩ thầm trong bụng, cậu cho rằng ông già người Lạch này có lẽ bị điên nên cậu thôi không nghĩ nhiều đến trầm hương nữa. Nhưng trong đêm rừng vắng lặng Trương Thái không tài ngủ được với những ý nghĩ rối rắm trong đầu. Cũng vì hai tiếng trầm hương mà ông già Lạch nói hồi chiều. Thầy cậu thường dạy trầm hương là một dược liệu quý hiếm nó là một vị thuốc không thể thiếu được trong một số bài thuốc cổ phương. Thầy thường dặn rằng trong những ngày dong ruỗi đó đây  cậu phải chú ý đến loại thuốc này và tìm cách đem về cho thầy một ít khi có dịp. Cho nên khi nghe ông K’Rè nói đến trầm hương Trương Thái nhảy dựng lên là vậy.

Tiếng gà rừng eo óc gáy  hơi sương xâm nhập vào cánh cửa khép hờ bếp lửa vẫn còn âm ỉ cháy, một làn khói mỏng manh bốc lên khiến Thái bất giác thấy lạnh và hơi nhớ nhà. Cậu xa nhà đã từ lâu  không biết sư phụ đã về chưa kể từ buổi sáng hôm ấy lúc cậu bước ra khỏi cánh cửa để tiến về núi Langbiang thì thầy của Thái cũng đã sớm xa nhà hai mùa trăng trước. Cậu không biết cha mẹ mình là ai nên luôn coi thầy là người thân duy nhất. Thầy vừa là cha, vừa là mẹ và đôi khi thầy còn là người bạn lớn tuổi của Thái. Tuy ham chơi và được thầy chiều chuộng từ thuở nhỏ nhưng không vì vậy mà cậu không ham học hỏi. Sư phụ là một người chuyên trị bệnh cứu người ông có nhiều bí phương mà ông học được từ những ngày lang bạt giang hồ. Nhưng tính ông không ở yên một chỗ được nên hễ ở không một thời gian là ông tìm cớ để ra đi. Thái cũng vậy, Thái nghe trong thiên hạ có chuyện gì lạ là không thể nào chịu được cậu phải tìm hiểu cho thật rõ mới thôi. Chiều nay ông K’Rè nói đến trầm hương tuy trong lời nói cậu có ý chế giễu ông già nhưng bên trong Thái lờ mờ nhận thấy đây là một chuyện nghiêm túc chứ không phải là một chuyện mua vui. Trầm hương, hai tiếng đó như thôi thúc Thái tìm cho ra đáp số để thỏa trí tò mò. Không chỉ là tò mò trầm hương còn là một loại dược liệu quý giá mà thầy thường nhắc nhở và căn dặn phải đem về cho thầy khi có dịp.

Trong khi Trương Thái đang nhớ nhà, nhớ thầy thì bên kia bếp lửa Trương Đại Quá cũng như Trương Thái  anh trăn trở và không ngủ được. Lâu nay hai anh em ngủ ngoài hoang sơn nay lại được ngủ bên bếp lửa ấm cúng trong căn nhà sàn anh lại thao thức nhớ nhà. Nỗi nhờ cứ âm ỉ trong lòng Trương Đại Quá chỉ chực nửa đêm là vùng dậy, trong đó hình ảnh cô Ba chiếm hết tâm trí của Trương. Mục tiêu của cuộc đời tuy đã định xong nhưng trong lúc thao thức như vầy Trương có cảm giác đời mình thiêu thiếu một điều gì đó. Trương Đại Quá cứ tự chất vấn mình nhưng câu trả lời hầu như còn bỏ ngõ.

Mọi người trong dẫy nhà dài lục tục thức dậy. Hai anh em Trương Thái cũng dậy với mọi người. Biếng nhác là một thói xấu đối với những người sống gần gũi với thiên nhiên và lệ thuộc vào thiên nhiên để có cái ăn cái mặc. Trương Thái biết rất rõ điều này nên Thái bao giờ cũng dậy sớm. Còn Trương Đại Quá là con nhà võ nên trong sinh hoạt hàng ngày, Trương vẫn giữ được thói quen đi một bài quyền trong sương sớm. Vừa xong thức cuối cùng ông K’Rè bước đến bên anh:

- Ta đã lấy cho hai gùi gạo rồi đấy các cháu vào nhà ăn sáng đã. 

Hai túi nhỏ được đan bằng những sợi lát đựng đầy cơm nóng hổi. Không một chút khách khí Trương Thái ăn ngon lành món cơm điểm tâm sáng. Cậu lấy chiếc ống tre đựng muối và nhón một hột cho vào miệng. Vị mặn của muối khiến cho cơm ngon hơn rất nhiều. Ông K’ Rè nhìn anh em Trương ăn cơm ông không nói gì chỉ trầm ngâm nhìn vào đống lửa giờ chỉ còn là một đống than đỏ đang tàn với một sợi khó mỏng manh. Đang ăn thấy ông K’Rè như vậy Trương Đại Quá chợt nhớ chuyện đói muối của bon Cây Ngo đỏ, anh nói:

- Cháu có lỗi với già làng quá mời bác dùng cơm với muối, muối anh em cháu cũng còn một ít đây!

Ông K’Rè nhìn hai anh em với cặp mắt cảm động:

- Các cháu mời ta thì ta cảm ơn lắm ta xin các cháu một ít muối nhưng ta chỉ để dành muối này cho những người bệnh thôi mà!

Nói xong ông cẩn thận lấy một chiếc lá khô màu xam xám gói chỗ muối mà Trương Thái vừa dốc ra khỏi chiếc ống tre và không giấu diếm vẻ thèm thuồng trên gương mặt nhăn nheo. Thấy vậy Trương Đại Quá nói:

- Bác cứ ăn đi cháu sẽ chia một nửa số muối của anh em cháu cho bon làng.

- Chàng trai tốt quá  ta thay mặt bon Cây Ngo đỏ cảm ơn chàng trai nhưng ta đã nói: muối này chỉ dành cho người bệnh thôi mà!

Ngừng một chút như để suy nghĩ kỹ ông nói tiếp:

- Ta muốn mời hai cháu đi cùng lũ làng lấy trầm hương các cháu có đi không?

Trương Thái lại nhảy dựng lên:

- Sao hồi hôm bác nói không biết chỗ có trầm hương mà?

- Ta không biết mà nhưng cha của cha ta thì biết!

Trương Thái la lên:

- Vậy mà bây giờ bác mới nói, tụi cháu sẵn sàng đi tìm trầm hương với bác. Vậy chừng nào chúng ta đi hả bác?

- Ta nói rồi khoảng ba tuần trăng nữa ta sẽ lên đường đổi trầm hương lấy muối và sắt của người Kinh. Vậy bây giờ ta đi tìm trầm hương chỗ cha của cha ta chỉ. Các chàng trai ngày mai lên đường được chăng?

Trương Thái nhẩy cởn lên vui sướng. Cậu bao giờ cũng khát khao khám phá những chuyện lạ trong thiên hạ. Mà trong thiên hạ chuyện lạ không bao giờ cạn, cho nên Trương Thái rồi sẽ cả đời lang bạt giang hồ như thầy cậu thôi.

Đoàn người đi tìm trầm hương của bon Cây Ngo đỏ lên đường. Ngoài ông già K’Rè còn có hai người thanh niên mạnh khỏe, một người tên là K’Sa, một người tên là K’Quang. Họ là hai anh em ruột khoảng trên dưới hai mươi tuổi. K’Sa là anh, anh mang theo một cây ná làm vũ khí phòng thân và cũng là để săn thú làm thức ăn cho cả đoàn. Còn K’Quang cầm trên tay một cây xà gạc, nước thép lấp lánh chứng tỏ nó sắc bén phi thường. Quả vậy Trương Thái khi nhìn thấy cây xà gạc cậu hỏi mượn K’Quang và chặt thử vào một thân cây ven đường, thân cây cở bắp chân Thái bị tiện ngọt sớt và đổ xuống làm một con chim hốt hoảng bay lên. Thấy vậy Trương Thái la lên:

- Anh Quang cây xà gạc của anh bén quá, hôm nào anh rèn cho em một cây nghen?

- Có sắt là được thôi mà!

K’Quang cười nhe hàm răng trắng trên khuôn mặt đen đúa vì nắng cháy, Trương  Thái thấy vậy cũng cười theo khiến không khí trong đoàn trở nên vui vẻ. Mặt trời vừa mọc, ánh nắng ban mai xua tan sương mù vương vất trên những cành cây, bụi cỏ. Còn dưới thung sâu sương mù đậm đặc một màu trắng đục khiến khung cảnh nơi đây trở nên huyền ảo. Đi đầu là ông K’Rè với một chiếc khố quấn quanh hạ bộ, ông già trông cứ như một bức tượng đồng hun. Chiếc gùi trên lưng ông đựng lương thực và một ít vật dụng khác không làm cho ông khó chịu. Hình như nó là một phần cuộc sống của những người Lạch như ông. Với chiếc xà gạc trên tay, ông già vừa đi vừa phát những bụi cây, lùm cỏ mọc ven đường. Thấy ông K’Rè cứ cặm cụi đi mải Trương Thái gợi chuyện:

- Già làng ơi ta đi đến chỗ nào hả bác?

- Ta đến dòng sông K’Rông Nô thôi mà.

- Từ chỗ này đến sông K’Rông Nô có xa không hả bác?

- Một ngày đi năm, sáu cái xà gạc khi nào trăng tròn thì tới thôi!

Trương Thái nhẩm trong đầu. Bây giờ là cuối tháng trăng chỉ là một lưỡi liềm mỏng, vị chi khoảng 15 ngày sẽ tới nơi. Tính như vậy nên cậu hỏi tiếp:

- Vậy là khoảng mười lăm ngày sẽ tới sông K’Rông Nô nhưng một cái xà gạc là sao hả bác?

- Là để cái xà gạc trên vai chừng nào mỏi quá thì đổi qua vai khác thôi mà!

Trương Thái nhẩm tính và la lên:

- Như vậy là mất một canh giờ rồi. Một ngày ta đi năm, sáu cây xà gạc vị chi là mất đến năm, sáu canh giờ hết nửa ngày!

Trương Đại Quá góp chuyện:

- Em tính đúng đó Thái à chúng ta phải đi khoảng nửa tháng trời sẽ đến sông K’Rông Nô, dòng sông này ta đã từng ghé qua rồi.

Vừa đi Trương Thái vừa nói:

- Lâu nay em không bao giờ tính toán về thời gian cả cứ mặc cho nó trôi thôi. Hết buổi sáng thì sẽ đến buổi trưa, hết trưa sẽ đến chiều…đó là chuyện của ông Trời!

- Không được em phải tính chớ. Mọi người đều có quỹ thời gian của riêng mình, em phải sử dụng quỹ này sao cho lợi nhất. Nhưng thôi em còn nhỏ lắm, ta sẽ chỉ dạy em dần từng bước một.

Hai anh em nói chuyện với nhau còn ba người Lạch thì im lặng  hình như câu chuyện của anh em họ Trương không ăn nhập gì đến họ cả hoặc giả họ không quan tâm đến những khái niệm như “thời gian”, “đời người”…mà Trương Đại Quá nói với Trương Thái. Quả đúng như vậy  đang đi, K’Sa bỗng dừng lại và kéo căng dây ná. “Phụt”… mũi tên xé gió lao đi, tiếng một con min (một giống bò rừng) trúng thương kêu lên  thảm thiết làm khuấy động cả không gian im ắng nãy giờ.

Trương Thái reo lên:

- Anh Sa hay quá vậy là trưa nay ta có món thịt min ăn rồi.

Cậu hăm hở chạy lại chỗ con thú săn được. Nó đã chết, một dòng máu đỏ đang chảy ra ướt đẫm bãi cỏ xanh. Đó là một con min còn non có lẽ chỉ trên một tuổi nhưng đã lớn bằng một con bò trưởng thành. Mũi tên xuyên đúng vào tim con vật nên nó chết ngay khi trúng thương. Trương Thái tỏ ra vui sướng vì con mồi săn được còn ba người Lạch thì vẫn thản nhiên như không, họ không lộ vẻ gì là vui mừng một chút nào! Trương Thái nhìn con vật một cách tiếc rẻ:

- Chà con min này to quá làm sao ta mang đi cho hết?

Ông già K’Rè không nói gì, ông dặn K’Sa và K’Quang làm thịt con vật và hú lên ba hồi dài. Âm thanh của tiếng hú được ngọn núi trước mặt đồng vọng lại vang mải một hồi lâu mới hết. Khoảng một canh giờ sau khi Trương Thái đã nướng xong món bò rừng với lá lốt mọc hoang bên bờ suối. Khi nồi cơm của hai anh em đã chín tới thì tiếng người trò chuyện với nhau đã râm ran trước thung lũng dẫn vào chỗ năm người đi tìm trầm hương. Đó là một đoàn người toàn là đàn bà và trẻ con, họ vui vẻ tiến vào chỗ con min giờ này đã được chia thành từng tảng thịt. Hóa ra những người đi tìm trầm chưa đi xa khỏi cánh rừng mà những người đàn bà và trẻ con bon Cây Ngo đỏ thường đi hái nấm và rau rừng nên ông K’Rè hú gọi bọn họ đến mang con thịt về cho lũ làng ăn. 

Ông K’Rè trầm ngâm bên tẩu thuốc được làm bằng một loại tre lên nước vàng óng, ông nhìn đám trẻ con vui vẻ bên tảng thịt tươi roi rói với một ánh mắt chan chứa yêu thương. Trương Thái mau miệng:

- Chỗ thịt này đủ cho bon Cây Ngo đỏ ăn vài ngày, dân làng thường làm món gì hả bác?

- Nướng hoặc luộc thôi  nhưng mà thiếu cái muối ta phải chấm với tro tranh!

Mặt trời trên đỉnh đầu  nhóm người chia hai sau khi ăn trưa xong. Nhìn mấy đứa trẻ con đen nhẻm ăn ngon lành món bò nướng lá lốt  với mấy nắm cơm, Trương Đại Quá biết rằng bọn trẻ đã từ lâu chưa được ăn ngon như vậy, anh nói với ông K’Rè khi nhóm đàn bà và trẻ con bon Cây Ngo đỏ khuất sau bụi cây rừng:

- Ta phải cố tìm ra trầm hương để đổi muối cho dân làng, nhìn bọn trẻ đói muối tội quá!

Ông K’Rè không trả lời, hình như ông đang nghĩ một điều gì đó. Ánh mắt ông trở nên xa xăm, ông tiến lên phía trước với những bước chân vững chắc.

Buổi chiều đoàn người đi tìm trầm hương vượt qua những quả đồi tròn. Rừng thông với những chiếc lá nhọn chỉa lên trời, màu xanh của lá ánh lên trong nắng vàng trong tiếng suối reo quả là một khung cảnh tuyệt mỹ. Vùng đất này thanh bình quá, Trương Đại Quá vừa đi vừa nghĩ như vậy. Quê anh cũng có rừng, trong rừng những loài thảo mộc mọc xen với gai góc luôn là những trở ngại cho những người đi rừng. Còn ở đây anh không hề thấy một loại cây gai nào cả. Ấy vậy mà hiểm nguy lại đến từ phía khác. Đang đi Trương Thái ngừng lại và nói:

- Hình như có tiếng người đang rên. Quá đại ca, anh có nghe không?

Trương Đại Quá lắng nghe. Quả thật có tiếng người đang rên rỉ, Đại Quá xăm xăm tiến về phía dòng suối dưới chân đồi. Một người đàn ông đang nửa nằm nửa ngồi, đầu dựa vào thân một cây thông. Trương Thái chạy vội đến bên người lạ, cậu hỏi :

- Sao bác lại nằm đây?

Người đàn ông đang nhắm mắt nghe tiếng nói của Thái, người lạ nhướng mắt một tia vui mừng lộ ra, ông ta chỉ phều phào:

- Rắn!

Nghe tiếng “rắn” Trương Thái hốt hoảng lùi lại một bước nhưng cậu vụt hiểu và vén ngay quần của người đàn ông. Nhìn bắp chân sưng vù tím bầm, Trương Thái lo lắng nói:

- Quá đại ca anh nhìn xem có phải với lỗ răng như  vầy có phải là rắn lục không anh?

Trương Đại Quá ngồi xuống và quan sát. Nhìn vết thương và chỗ bị cắn Trương Đại Quá đồng ý với nhận định của Trương Thái: đúng là loại rắn lục! Tuy đây không phải là loại rắn cực độc nhưng nếu không cứu kịp thì cũng rất nguy hiểm. Chưa biết phải làm gì anh đang tần ngần thì Thái đã săm soi chung quanh:

- Em tìm chút dược liệu anh coi chăm sóc giúp người ta!

Nói xong cậu chạy vào cánh rừng trước mặt và mất hút vào trong đó. Nhìn vết thương và nghe tiếng rên của người lạ, Trương Đại Quá sực nhớ đến viên ngọc của ông già bán quán tặng cho. Tuy ông già chỉ nói rằng viên ngọc rắn này chỉ trừ tà khí khi đi vào vùng nước độc anh chưa sử dụng lần nào, khi thấy chân người đàn ông càng lúc càng tím bầm, Trương Đại Quá lấy viên ngọc rắn ra với một chút hy vọng trong lòng. Anh đặt viên ngọc rắn lên chỗ vết thương rồi nói:

- Bác ráng nằm im.

Trương Đại Quá hồi hộp nhìn viên ngọc. Màu ngọc vẫn sáng như bình thường. Người đàn ông bị nạn đang cố nén tiếng rên  nhưng vẻ đau đớn vẫn hiện rõ trên khuôn mặt khắc khổ của ông ta. Trương lo lắng hỏi:

- Bác đau lắm phải không?

Hỏi xong, Trương thấy mình thật là ngớ ngẩn, bị rắn cắn thì đau lắm chứ còn gì nữa. Anh chỉ hy vọng một lát nữa Thái về sẽ có biện pháp cứu người này còn anh thì có lẽ đã hết cách rồi. Nghĩ như vậy nên Trương nhìn đăm đăm vào cánh rừng mà Thái vừa chạy vào. Không biết Trương Thái tìm loại dược liệu gì mà sao lâu quá không thấy cậu ra? Trương sốt ruột quá đỗi, anh đi tới đi lui vẻ nôn nóng hiện rõ trên nét mặt. Chưa lần nào Trương Đại Quá nôn nóng như vậy. Anh thầm trách người em sao không mau mau cứu người, kiểu nay không biết có cứu kịp người này không nữa?

Nãy giờ Trương Đại Quá quên mất người đàn ông, khi sực nhớ anh quay lại thì người lạ đang ngủ, vẻ đau đớn biến mất trên gương mặt ông ta! Trương ngạc nhiên  anh vén quần người đàn ông và nhìn vào vết cắn cái chân tím bầm hồi nãy giờ không còn nữa, thật là kỳ diệu! Trương Đại Quá sung sướng với kỳ tích vừa xảy ra:  viên ngọc rắn đã hút nọc độc ra khỏi vết thương, quả đây là báu vật mà ông già Tư đã cho anh. 

Khi Trương Đại Quá còn đang kể với ba người Thượng về viên ngọc rắn, Trương Thái trở về với một nắm cây cỏ trên tay. Thấy người đàn ông bị rắn cắn đang ngủ yên Thái ngạc nhiên hỏi:

- Quá đại ca anh cứu người bằng cách nào mà hay quá vậy?

Trương Đại Quá kể lại chuyện viên ngọc rắn cho Thái nghe, Thái nói:

- Vậy là anh có bảo vật rồi chỗ thuốc này không cần dùng nữa.

Nói xong  cậu vứt ngay nắm cây thuốc trên tay xuống đất và gọi người bị nạn dậy:

- Bác ơi  bác thấy trong người ra sao rồi?

Người đàn ông lấy tay dụi mắt:

- Ơ sao chân ta hết đau rồi, cám ơn các cháu đã cứu ta, các cháu tài quá!

Nói xong người đàn ông đứng lên một cách bình thường như chưa hề bị rắn cắn bao giờ, nét mặt ông ta chưa tan hết vẻ ngạc nhiên. Ông ta nhìn Trương Đại Quá và nói:

- Ta họ Võ tên là Vô Thường  hôm nay ta được các cháu cháu cứu nạn, ta đội ơn các cháu vô cùng, các cháu có thể cho ta biết tên được không?

Trương Đại Quá chưa kịp trả lời thì Trương Thái nói:

- Bác ơi  bốn biển đều là người một nhà, bác nhớ làm gì chuyện vặt vãnh đó. Đây là anh cháu  họ Trương  tên Đại Quá, còn cháu tên Thái. Ba người Lạch này là già làng K’Rè, anh K’Quang và anh K’Sa. Còn bác vì sao bác đi vào vùng này và bị rắn cắn vậy?

- Ta là người xứ Quảng Nam  vào Phan Rang tìm việc làm, tại đây ta được mộ  vào làm bếp phụ nấu ăn cho một ông quan người Tây lên vùng đất này khảo sát. Đoàn khảo sát của ông quan Tây đóng dưới chân núi xanh kia. Hôm qua ta theo dấu con nai rừng và lạc mất đoàn, sáng nay ta định đi tìm về đoàn nhưng  tới đây thì bị rắn cắn. May mà mạng ta lớn chứ không thì chưa biết chừng hồn ta giờ này đã lên đường du địa phủ rồi?

Tay ông Vô Thường chỉ về phía núi Langbiang, nơi mà đoàn người của Trương Đại Quá vừa rời xa. Thấy vậy Trương Thái nói liền:

- Bọn cháu cũng từ chân núi Langbiang đi ngang qua đây, bác cứ theo hường bắc là sẽ gặp đoàn của bác. Quái lạ sao chúng cháu không gặp đoàn người của bác cà?

Thắc mắc của Thái cũng chính là thắc mắc của Trương Đại Quá còn ba người Thượng chẳng lộ vẻ gì ngoài mặt, hình như những người này coi sự hiện diện của ông Võ Vô Thường cũng tự nhiên như gặp con nai, con thỏ trong rừng.

Ông Vô Thường chắp hai tay lại xá anh em Đại Quá và ba người Thượng, ông nói lời cảm ơn một lần nữa và nhắm hướng núi Langbiang mà đi. Chẳng mấy chốc bóng ông mất hút vào mênh mông cây rừng xanh thẫm.

Đoàn người đi tìm trầm hương cũng tiếp tục lên đường. Hai anh em nhà họ Trương đã bắt đầu quen với vẻ im lặng của ba người Thượng, họ nói chuyện với nhau mặc cho ba người Thượng lặng lẽ đi bên cạnh.

Mười mấy ngày sau  đoàn người đi tìm trầm hương đến dòng sông K’Rông Nô. Đó là một dòng sông hẹp, nước chảy khá xiết tạo nên những âm thanh vang vọng cánh rừng già hai bên bờ.

 

CHƯƠNG 5

LẠC MẤT NHAU 

 

 

Võ Anh Cương
Số lần đọc: 1081
Ngày đăng: 21.06.2020
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Thung lũng trăm năm: Tiểu thuyết ( Chương 3: Chuyện cũ) - Võ Anh Cương
Thung lũng trăm năm: Tiểu thuyết (Chương 2: Bái Sư) - Võ Anh Cương
Thung lũng trăm năm:Tiểu thuyết (Chương 1: Hai anh em) - Võ Anh Cương
Đặc nhiệm chính phủ (Chương 1: Phố của mùi lanh chanh) - Nguyễn Thị Kim Lan
Đền rùa vàng (phần cuối) - Ngô Nguyên Dũng
Đền rùa vàng (phần 2) - Ngô Nguyên Dũng
Đền rùa vàng (phần 1) - Ngô Nguyên Dũng
Tình yêu cuối cùng của Dostoievsky - Vương Kiều
Chuyện cái mũi khoan và bom dị bào - Đỗ Quyên
Giết con chim nhại - Phạm Văn
Cùng một tác giả
Hồng Mây (truyện ngắn)
Về xứ sương giăng (truyện ngắn)
Hàm Luông (truyện ngắn)
Thung lũng tình yêu (truyện ngắn)
Ma xó núi (truyện ngắn)
Hai ốm (truyện ngắn)
Sương khói quê nhà (truyện ngắn)