Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.188
123.217.803
 
Lan man về các nhà thơ Huy Cận, Xuân Diệu, Vương Bột…cùng cánh cò hay cánh vịt trời
La Thụy

 

Rảnh, mình đọc bài Tràng Giang - thơ Huy Cận, lòng man mác cùng mây trời, hoàng hôn và chim chiều nghiêng cánh

 

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

 (Huy Cận)

 

Bất chợt liên tưởng mấy câu trong bài “Thơ Duyên” của Xuân Diệu

 

Mây biếc về đâu bay gấp gấp

Con cò trên ruộng cánh phân vân

 (Xuân Diệu)

 

Rồi lan man với lời bình thơ của Hoài Thanh:

 

“Từ cánh cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt hơn một ngàn năm và hai thế giới”  (Thi nhân Việt Nam)

 

“Lạc hà dữ cô vụ tề phi

Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc”

  (Vương Bột)

 

Ai đó đã dịch thành:

 

Chiếc cò cùng với ráng sa

 Sông thu cùng với trời xa một màu

 

Và cứ thế lan man đến Đằng Vương Các Tự của Vương Bột. Ôi chao, cái ông thi sĩ thời Sơ Đường này, ông đã lưu dấu ấn lại trong truyện Kiều của Nguyễn Du qua một câu thơ điển tích thật hay:

 

“Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa”

 (Kiều)

 

Và trong một câu thơ điển tích khác cũng thật hay của Tô Đông Pha:

“Thời lai phong tống Đằng Vương Các”

 

Hai câu thơ điển tích của hai nhà thơ lớn ấy bắt nguồn từ giai thoại:

 

“Con của vua Cao Tông nhà Đường bấy giờ làm Thái Sử ở Hàng Châu, được phong là Đằng Vương, có dựng một cái gác bên sông Tầm Dương gọi là Đằng Vương Các. Lúc Diêm Bá Dư ra giữ chức Đô Đốc Hàng Châu, đặt tiệc tại gác Đằng Vương để thết tân khách. Muốn khoe tài chàng rể, bảo làm trước một bài tự, rồi mời tất cả các nhà quyền quý, các mặc khách tao nhân xa gần đến dự; và yêu cầu mỗi người làm một bài tự ngay bữa tiệc.

Vương Bột lúc bấy giờ, tuổi vừa 15, 16. Hay tin ấy, nhưng vì đường xá xa xôi có mấy trăm dặm, không đến họp được, lấy làm tiếc. Một ông già khuyên chàng cứ sửa soạn thuyền buồm, tự nhiên sẽ có gió thổi. Quả nhiên đêm đó có gió lớn. Vương cho thuyền khởi hành, và hôm sau tới Đằng Vương các vừa kịp lúc vào tiệc. Và một cuộc thi tài văn học xảy ra, bài Đằng Vương Các Tự đã xuất sắc đoạt giải”

 

Bài tự “Đằng Vương Các” viết theo thể biền ngẫu, dùng nhiều chữ cầu kỳ, nhiều điển khó hiểu nhưng lời thì khá đẹp mà rất khó dịch. Trong bài, Vương Bột nhắc qua địa lý và nhân vật ở quận, nơi xây gác Đằng Vương, rồi tả chủ khách trong tiệc, phong cảnh chung quanh khi ngồi trong gác trông ra, sau cùng kể cảm tưởng của chính mình.

 

Cuối bài, có 8 câu tuyệt diệu, nhất là 4 câu cuối:

 

        Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,

        Vật hoán tinh di, không độ thu?

        Các trung đế tử kim hà tại?

        Hạm ngoại trường giang không tự lưu.

  

Nghĩa:

 

       Đầm nước mây vờn ngày tháng trôi,

       Mấy phen vật đổi với sao dời.

       Đằng Vương thuở trước giờ đâu tá?

       Sông lớn ngoài hiên luống chảy hoài.

       (Tương Như dịch)

 

Trong văn nghiệp sáng rực của một cuộc đời ngắn ngủi, tác phẩm làm cho tên tuổi Vương Bột trở nên bất tử lại chỉ là hai câu thơ tả cảnh tuyệt bút, cùng một đoạn thơ tám câu ở cuối bài Đằng Vương Các Tự. Hai câu thơ tả cảnh tuyệt tác đó là:

 

“Lạc hà dữ cô vụ tề phi

Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc”

 

Hai câu thơ tuyệt bút ấy lại bị người đời sau cho là thừa chữ “dữ”, “cộng” (“dữ, cộng” cùng nghĩa “với”,“cùng”).  Nếu bỏ hai chữ này thì càng tuyệt hơn, vừa gọn vừa thanh thoát, lại nhất khí:

 

Lạc hà cô vụ tề phi,

Thu thủy trường thiên nhất sắc.

 

Lạc hà là ráng chiều buông xuống, cô vụ tề phi là con vịt trời cô đơn đang cùng bay. Thu thuỷ là sông nước mùa thu, trường thiên nhất sắc là trời rộng mênh mông, chỉ có một màu.

Con vịt trời cô đơn này không lẽ cũng là chú Uyên Ương gãy cánh của Kahlil Gibran đang trải mối sầu lẻ bóng vào ráng chiều?

 

VỤ (鶩) trong từ Hán Việt là con vịt trời (dã áp  野 鴨). Khổ một nỗi, các dịch giả Việt Nam đã chuyển ngữ “cô vụ” là “Chiếc cò, cánh cò cô lẻ” nên gây nhầm lẫn trong trí nhớ của một số người, khi họ đọc câu thơ Hán Việt theo hồi ức, thành “Lạc hà dữ cô LỘ tề phi”. Vì LỘ 鷺 là con cò (Lộ diệc vũ trùng trung chi nhất - Thơ Nguyễn Công Trứ).

 

Đằng Vương Các Tự là bài “tự” về Gác Đằng Vương, là bài phú về Gác Đằng Vương, còn được gọi tắt là bài Đằng Vương Các.

Gọi như vậy để phân biệt với “bài thơ Đằng Vương Các”. Cái gọi là “bài thơ” Đằng Vương Các, thật ra chỉ là đoạn thơ cuối cùng trong bài Đằng Vương Các Tự. Tuy chỉ là một đoạn thơ, một bộ phận trong bài Đằng Vương Các Tự, nhưng 8 câu thơ cuối thật hay. Nếu tách riêng ra thì 8 câu thơ này là một bài thơ hoàn chỉnh. Vì vậy, nó được nhiều văn nhân thi sĩ tán dương và ngâm ngợi. Tám câu thơ cuối bài còn được đưa vào giảng dạy trong nhà trường và trở nên “bài thơ Đằng Vương Các” và cụm từ “vật hoán tinh di” (vật đổi sao dời) được sử sụng như thành ngữ. Mời thưởng thức!

 

ĐẰNG VƯƠNG CÁC

 

Đằng Vương cao các lâm giang chử

Bội ngọc minh loan bãi ca vũ

Họa đống triêu phi Nam phố vân

Châu liêm mộ quyển Tây Sơn vũ.

 

Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,

Vật hoán tinh di kỷ độ thu

Các trung đế tử kim hà tại ?

Hạm ngoại Trường giang không tự lưu.

 

DỊCH:

 

Gác Đằng cao ngất bãi sông thu,

Ngọc múa vàng gieo nay thấy đâu ?

Nam Phố mây mai quanh nóc vẽ,

Tây Sơn mưa tối, cuốn rèm châu

 

Đầm nước mây vờn ngày tháng trôi,

Mấy phen vật đổi với sao dời.

Con vua thuở trước giờ đâu tá ?

Sông lớn hoài hiên luống chảy hoài.

 TƯƠNG NHƯ dịch

 

Lan man rồi lại lan man, nhưng cũng đến lúc hết lan man…

                                     

La Thụy Đoàn Minh Phú

 

 

 

 

La Thụy
Số lần đọc: 2837
Ngày đăng: 27.12.2021
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Thi pháp mảnh vỡ và tâm thức cội nguồn trong thuồng luồng mắt biếc của Nguyễn Minh Nữu - Hoàng Kim Oanh
Thu Vàng, tiếng hát đi tìm kỷ niệm. - Trương Văn Dân
Nguyễn Dương Quang: Thế gian chết hết chỉ còn đêm… - Hoàng Kim Oanh
Khoảng lặng từ những nỗi đau và sứ mệnh của người cầm bút * - Trần Hoài Anh
Lẽ vô thường trong thơ Trang Tử, Nguyễn Bính, Xuân Diệu - La Thụy
Làm sao công cuộc cách mạng thơ ca Việt Nam sẽ có trong nay mai - Lê Hưng Tiến
Từ Sâm – nỗi làng đau đáu - Bùi Thị Diệu
Làm văn - Võ Công Liêm
Thơ Quang Dũng nhìn từ trường tiếp nhận của phê bình văn học miền Nam 1954 – 1975 (*) - Trần Hoài Anh
Rồng – từ biển Đen tới đất Việt - Đỗ Ngọc Giao
Cùng một tác giả