Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.147
123.225.897
 
Những kỷ niệm và sẻ chia cùng em trai Đỗ Tư Nghĩa
Đỗ Tư Nhơn

 

 

Giờ đây Nghĩa đã về với tổ tiên, ông bà, thầy mợ nơi cõi vĩnh hằng sau 75 năm:

 

“Bước lững thững qua trần gian một bận          

Đã thấy sầu in vết dưới chân im”

                                       (Bi khúc I.1972)

 

Những kỉ niệm với gia đình, bè bạn còn trong ký ức của những người thân, từng gắn bó kết giao tình cảm. Ba chị em chúng tôi: Đỗ Thị Như Mai, Đỗ Tư Nhơn, Đỗ Tư Nghĩa vốn nguyên quán là làng Cui, Tuy Lộc, Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Cụ cố tổ làm chức quan Đề lại Hoằng Hóa, được thờ tại đền Nghè Cáy từ xưa cho đến bây giờ - thuộc Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. Bố chúng tôi vào Quảng Trị làm viên chức thừa phái dinh Tuần Vũ đóng tại Thành cổ, nhưng mất sớm lúc tôi vừa lên ba, Nghĩa còn trong bụng mẹ.

 

Nghĩa cất tiếng chào đời ở làng ngoại Quảng Điền, Triệu Phong – Quảng Trị khi gia đình tản cư về đây, sống trong căn nhà của ông bà ngoại đã qua đời. Biết bao kỷ niệm giữa bom đạn chiến tranh, với những mùa mưa lụt nước mênh mông mà ba chị em chúng tôi cùng chịu đựng nơi miền quê này.  Khoảng 7,8 năm sau, gia đình tôi chuyển lên thị xã Quảng Trị, mẹ buôn bán kiếm sống nuôi con ăn học. Chúng tôi có chung kỷ niệm ấu thời. Từ lúc nhà ở gần trạm điện cho đến khi sống giữa làng Thạch Hãn cùng bạn bè chơi bi, đánh đáo, ù mọi, đánh căng và làm báo viết tay. Những năm học trung học Nguyễn Hoàng, Nghĩa nổi tiếng giỏi Văn, Anh Văn, kết bạn với Đoàn Đức, Lê Mậu Minh, Nguyễn Thắng, Nguyễn Văn Quang, N.T. Kim Cúc, N. Đình Hạnh, Ng. Văn Phụ… cho đến bây giờ. Tình bạn đó thân thiết, thầm lặng, lâu bền. Tôi và Nghĩa đều yêu thích văn chương sách báo. Khi quyển sách “Ý thức mới trong văn nghệ và triết học” của Phạm Công Thiện ra đời, anh em chúng tôi tìm mua cho mình mỗi người một tập, Nghĩa đọc kỹ, gạch đỏ những đoạn văn tâm đắc. Sau này chính Nghĩa cho biết đã chịu ảnh hưởng của Phạm Công Thiện khá đậm. Mẹ của chúng tôi tần tảo, thương yêu các con vô cùng, mà chưa thể nào chúng tôi báo đáp thì mẹ đã qua đời. Đó là mùa xuân năm 1971, Tết đó, sau những ngày buôn bán cuối năm vất vả, mẹ tôi nhuốm bệnh. Vợ chồng tôi, Nghĩa, Thắng ở một bên giường mẹ lo lắng, rồi nhờ chị Định, y tá truyền nước biển. Ngày mồng một, mẹ tôi còn nhận biết, nhưng tờ mờ sáng mồng hai, mẹ ra đi không lời trăn trối. Anh em chúng tôi vô cùng buồn đau, thương tiếc. Ở tầm hồn Nghĩa, bắt đầu có sự hụt hẫng vì “Đìu hiu trái đất đâu còn mẹ”.

 

Một biến cố thứ hai đã ném Nghĩa và người dân Quảng Trị ra khỏi quê nhà, đó là mùa hè đỏ lửa năm 1972. Tất cả chạy loạn vào trại tạm cư Đà Nẵng – Quảng Nam. Nghĩa đưa bà nội vào Đà Lạt nương náu tại nhà người cậu ruột một thời gian rồi về Bảo Lộc dạy học. Tâm thức Nghĩa buồn đau vô vọng, đã gởi vào 4 bài Bi Khúc được sáng tác vào năm này. Những tâm hồn đồng điệu tìm đến với nhau: Lê Miên Tường, Trần Thoại Nguyên, Trần Nhơn, Huy, Nguyễn Đạt, chú Minh An, Hoàng Như Bứa, sư Viên Ngộ đã gặp gỡ và kết bạn với Nghĩa. Có người đã sớm ra đi, có người vẫn còn đâu đó, vẫn nhớ đến Nghĩa. Suốt 9 năm dạy học tại Bảo Lộc đã để lại trong tâm hồn Nghĩa những kỷ niệm đẹp. Đó là mối tình với Hoài An – cô giáo Đà Lạt xa nhà. Năm 1976, lễ cưới được người cậu tổ chức cho Nghĩa – An đàng hoàng tại Đà lạt.

 

Trong tập hồi ký “B’Lao và tôi thuở ấy” Nghĩa viết năm 2018 đã nhắc lại:

 

“Nhờ dạy học ở B’Lao, mà tôi “bén duyên” với Hoài An, người bạn đời của tôi – mẹ của hai đứa con gái của tôi. Rồi tôi nhờ Hoài An, mà bây giờ tôi được sống tại Đà Lạt, một thành phố thơ mộng…”

 

Năm 1981, vợ chồng Nghĩa được chuyển lên dạy trường Nguyễn Du Đà Lạt, Nghĩa bắt tay vào việc dịch thuật. Cuộc sống mỗi lúc một khó khăn đã tác động vào tâm hồn Nghĩa, những bài thơ nhức nhối, trăn trở được viết vào năm 1983, 1984 sau này in vi tính đó là tập thơ “Gởi Tình Yêu – Gởi Cuộc Đời”.  Đôi ba niềm vui đã đến, là khi các tập sách dịch được xuất bản từ năm 1986 như “Khi bố còn thơ, Như cơn mưa bay đi, Những cuộc phiêu lưu của Sherlock Holmes”. Nghĩa đã gởi về cho chúng tôi và bạn bè với chữ ký tặng, bạn bè chia sẻ niềm vui cùng Nghĩa qua những bức thư hồi âm.

 

Cuộc đời không phải bao giờ cũng yên ả, gia đình Nghĩa bỗng phải chia hai. Vào năm 1992, Nghĩa quyết định ở lại VN, để cho vợ và hai con sang Mỹ định cư theo theo diện gia đình vợ bảo lãnh. Chúng tôi góp ý, khuyên Nghĩa rất nhiều lần nên cùng đi với gia đình.

 

Ban đầu, lúc vợ con ra đi, Nghĩa đến ở với anh bạn Nguyễn Diệp, trong khu đất Sở Giáo Dục – Đà Lạt. Hôm tôi lên thăm, gặp ở đây Hoàng Như Bứa, Thái Tuấn họa sĩ và anh Nguyên, cha của Thái Tuấn ở Quảng Trị mới vào. Buổi tối rất vui, còn nhớ mãi. Một thời gian ngắn sau, Nghĩa về thuê căn phòng trọ gần nhà cũ đường Nhà Chung, cạnh nhà thờ Con Gà, ở đó suốt 30 năm cùng những chồng sách cũ, mới ngập cả phòng.

 

Rồi một bức tâm thư gởi Hoài An – (vợ Nghĩa) sau 10 năm xa cách. Nghĩa chân tình nói với Hoài An rằng: nếu có một người đàn ông biết yêu thương Hoài An và hai con, có trách nhiệm với gia đình thì nên đồng ý. Còn về phần Nghĩa, bấy lâu quen cuộc sống độc thân, không bị ràng buộc khó sống chung trong một gia đình.

 

Sống với Đà Lạt với hoa dã quỳ thơ mộng, nhưng cũng có lúc tâm hồn Nghĩa chợt nhớ quê cũ Quảng Trị, với bạn bè người thân một thuở gắn bó. Mùa xuân 2004, con gái thương yêu đưa Nghĩa về thăm chúng tôi, cùng hưởng một cái Tết đoàn tụ, trong khói hương, tưởng nhớ tổ tiên, ông bà, thầy mợ. Nhân dịp này, tôi dẫn Nghĩa về thăm quê ngoại, gặp vợ chồng em Nguyễn Công Hậu, Nguyễn Công Đức, Nguyễn Công Quý, Lê Quang Thừa, thắp hương ở lăng mộ các ngài. (Tôi không rõ tâm tư Nghĩa lúc này thế nào? Còn nhớ chút gì ngày xưa thơ dại?). Rồi tôi và Nghĩa vào Huế thăm mộ bố chúng tôi ở chân núi Ngự Bình, gặp các bạn thời sinh viên… Lần này chúng tôi muốn Nghĩa ở lại Quảng Trị, để anh em cùng sống bên nhau lúc già yếu, bệnh tật.  Nhưng độ 2, 3 tuần Nghĩa cảm thấy buồn, nhớ Đà Lạt, hơn nữa trời lạnh quá làm Nghĩa bị mệt, phải chia tay Quảng Trị sau khi gặp được những bạn cũ như Đình Hạnh, Văn Quang, Văn Phụ... Nghĩa ký tặng sách mới được xuất bản.

 

Tôi lên Đà Lạt thăm Nghĩa nhiều lần, có lúc cùng đến nhà chị Hạnh – con người cậu ruột, ăn chè, hát cho nhau nghe. Có năm, lên Trúc Lâm thiền viện thỉnh kinh sách, Nghĩa mua tặng tôi nhiều tập, dĩa CD giảng đạo của quý thầy. Nghĩa nghiên cứu sâu xa và thực hành về đạo Phật cho nên sau này dịch sách của các đạo sư, ni sư thật rõ ràng, chú thích rất bổ ích cho người đọc.

 

Vốn liếng triết học Đông Phương và Tây Phương cũng tạo cho Nghĩa niềm say mê khi chuyển ngữ các tác phẩm mang giá trị tư tưởng lớn của nhân loại: Nghệ thuật sống, Suy niệm mỗi ngày, Kahlil Gibran, Phiếm thần luân… Năm 2018, trường Bảo Lộc tổ chức làm đặc san Về lại trường xưa, Nghĩa và tôi đều gởi bài tham gia. Học sinh cũ của Bảo Lộc thường lên thăm viếng chúng tôi lúc lành mạnh cũng như khi ốm đau. Đó là một cái duyên trong cuộc sống, tình thầy trò gắn bó. Kỷ niệm của anh em tôi ở Đà Lạt rất nhiều, nhưng gần đây nhất là lần gặp Nghĩa, cùng nhau đến vườn tượng của Phạm Văn Hạng, hôm đó có Thân Trọng Sơn, cô Linh Tiên. Anh Hạng có nhã ý: sẽ đưa linh cửu Nghĩa về đây để bạn bè đến tiễn biệt trước khi đến đài hóa thân. Nghĩa mỉm cười cảm ơn. Trên đường về, anh em chúng tôi đến thắp hương cho Nguyễn Diệp vừa qua đời trước đó.  Đêm hôm ấy, ăn cơm xong tôi đến phòng Nghĩa nói chuyện, cuối cùng đồng ý nhờ anh Nguyễn Văn Cam liên hệ với một ngôi chùa gần đây. Lúc tôi chuẩn bị ra về, Nghĩa đưa cho tôi địa chỉ, điện thoại của một vài người để liên hệ khi cần.

 

Gần Tết, nghe tin Nghĩa bị tai biến phải nhập viện lúc đó tôi không vào được, ra Tết con trai tôi đã vào thăm chú. Lần này Nghĩa còn đi lại, ngồi, tay chân cử động được nhưng nói không rõ. Lần thăm sau, khi đã về lại nhà cũ của gia đình Nghĩa ký tặng bộ sách từ điển Bách khoa toàn thư triết học 4 tập bằng Tiếng Anh cho thư viện Khoa học Tổng hợp TP HCM. Người cháu trai đã liên hệ, mang sách đến cho thư viện. Họ gởi giấy cảm ơn, điều này làm cho Nghĩa cảm thấy vui.

 

Mùa Giáng Sinh 2020 đến sau những trận lụt nối tiếp nhau ở miền trung, chúng tôi lại vào thăm Nghĩa, có sách mới xuất bản. Nghĩa liền ký tặng tôi và tặng các bạn ở quê nhà.  Chẳng bao lâu Nghĩa bị tai biến lần hai, tôi và con trai lên thăm vào 27 tháng chạp, chuẩn bị đón Tết Tân Sửu. Bệnh tình của Nghĩa nặng hơn, tuy mắt còn sáng, trí óc hiểu biết nhưng chân tay không cử động được, Nghĩa cảm thấy buồn vô vọng. Nhiều bạn bè gần xa đã đến thăm Nghĩa, từ Sài Gòn có vợ chồng Đoàn Đức, anh Võ Cẩm cùng BS Nhi con cô giáo cũ của Nghĩa. Ở Nha Trang có vợ chồng bạn Cúc- Lộc, vợ chồng Khang-Hằng, bạn thơ Trần Thoại Nguyên, Phạm Văn Hạng, Nguyễn Văn Cam, vợ chồng anh Bảo Cử, đều đến động viên Nghĩa, tình bạn thật đáng trân quý.

 

Khi chúng tôi về lại Quảng Trị, được tin Nghĩa bị dịch tràn màng phổi, phải thở oxy, giữa lúc dịch Covid đang lan tràn. Con gái Nghĩa bằng mọi cách đã về bên bố giai đoạn cuối đời. Chúng tôi thường liên lạc với nhau để biết tình hình sức khỏe của Nghĩa, khi nguy kịch, khi tạm ổn.

 

Nhưng rồi Nghĩa đã trút hơi thở cuối cùng vào lúc 6g15 sáng 16.09.2021 bên cạnh con gái và 3 cháu điều dưỡng, ông cậu tu sĩ Phật Giáo. Nhờ sự giúp đỡ của anh bạn Nguyễn Văn Cam, cậu Trí, 3 cháu điều dưỡng, cháu Diễm Thư đã tổ chức mọi việc cho đám tang trọn vẹn, trang nghiêm theo nghi lễ Phật giáo. Chú Nghĩa nhờ tu hành nhiều kiếp nên cuối đời gặp được nhiều duyên lành, được vợ, con quan tâm, nhất là cháu Diễm Thư thương yêu bố vô cùng, hiếu hạnh làm theo những điều bố mong muốn.

 

Bạn bè, bà con, học sinh cũ gần xa đã đến phúng viếng, gởi vòng hoa chia buồn cùng gia đình. Đêm cuối cùng tại nhà, các sư thầy, ni cô, bạn thân của Nghĩa đã đến tâm sự với thần thức Nghĩa thật ấm cúng cảm động.

 

Nghĩa là một con người quen sống thầm lặng, ít giao tiếp nhưng khi từ giã cõi đời lại được nhiều người thương tiếc về nhân cách, tâm hồn, sự khiêm tốn và tài năng qua các tác phẩm dịch và thơ để lại cho đời.

 

Nhà thơ Bùi Minh Quốc và nhóm “người hiền Đà Lạt”mà Nghĩa từng kính phục, đã gởi đến hai câu đối:

 

“XE THIÊN CỔ ĐƯA NGƯỜI VỀ CỰC LẠC

CHỐN HỒNG TRẦN BÈ BẠN LUỐNG ĐAU THƯƠNG”

 

Buổi sáng di quan, xe tang đi qua thành phố, qua hồ Xuân Hương như để cho Nghĩa chào tiễn biệt. Đến đài hóa thân, sau nghi lễ, anh Nguyễn Văn Cam thay mặt người anh trai đọc những lời tâm tình trước lúc chia tay. Bình tro được đặt trên bàn thờ, thần thức Nghĩa nghe kinh cầu siêu Vãng sanh Tịnh Độ. Sau 49 ngày, tro sẽ được rải trên hồ nước trong xanh của Đà Lạt.

 

Từ nay Nghĩa đã hòa vào thiên nhiên nhập vào thế giới của linh hồn, một thế giới tồn tại bằng năng lượng, ánh sáng mà BS. Harrison đã ghi lại trong sách “Hành trình của linh hồn” Nghĩa đã dịch xong chưa được in.

 

“Sen hồng từng đóa ngạt ngào

Linh hồn trong trẻo hòa vào thiên thu”

 

                                                                     

Thị Xã Quảng Trị 01.10.2021

 

Đỗ Tư Nhơn
Số lần đọc: 571
Ngày đăng: 06.07.2022
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Người con dâu nhà họ Phan - NP Phan
Cha lo ngày mới - Hoàng Xuân
Võ bằng hữu - Đỗ Nhựt Thư
Hạ Long du ký - Phan Ngọc Anh
Chiến tranh, ở loài người - Nguyễn Hàng Tình
Quan hộ đê bắc thành Lê Đại Cang - Nguyễn Anh Tuấn
Cơm gà - Hoàng Xuân
Dọc đường văn nghệ (Phần 84) Hải Thụy, nhà thơ giang - hồ - văn - nghệ thực sự dễ thương - Trần Dzạ Lữ
Dọc đường văn nghệ (Phần 82) Trường Thi, sự nghiệt ngã của một người làm thơ - Trần Dzạ Lữ
Tháng Tư, Lê Đạt - Nguyễn Đức Tùng