“Đừng tưởng cứ đợi là chờ.
Cứ âm là nhạc, cứ thơ là vần.”
(Khuyết danh)
*
“Nhân vật chính yếu của lịch sử văn học là thể loại.”
(M. Bakhtin)
*
“Mỗi tác giả, tác phẩm phải là một chữ, một câu
trong bài-thơ-chung của nghệ thuật thi ca.”
(Đ.Q.)
MỤC LỤC
1. “Hoặc là xuất hiện bằng một kiệt tác, hoặc là tự vặn cổ mình!”
2. Một đại diện hải ngoại tạo ảnh hưởng đến sinh hoạt văn chương trong nước
3. Sơ lược về thể thơ văn-kể và thơ Nguyễn Đức Tùng
4. Một tác giả hàng đầu trong “Dòng thơ cần giải thích giá trị”
5. Các đặc điểm như là rào chắn thơ Nguyễn Đức Tùng tới bạn đọc
6. Quan hệ hiện đại và hậu hiện đại trong thơ Nguyễn Đức Tùng
7. Tương lai của các loại hình nghệ thuật như thơ Nguyễn Đức Tùng
8. Những lời tạm kết
Chú thích & trích dẫn
Phụ lục:
1. Trích lược và diễn giải bài của Trần Văn Tích
2. Về văn chương Việt, nhân hai trường hợp khác nhau - thơ Nguyễn Đức Tùng và tiểu thuyết Thuận
**
1. “Hoặc là xuất hiện bằng một kiệt tác, hoặc là tự vặn cổ mình!”
Bằng vế đầu, Honoré de Balzac nói với các thiên tài khác, đó là tâm sự giữa những đấng bậc phi thường; vế sau hẳn vị thiên tài văn học Pháp ngụ ý với cánh văn nghệ sĩ “bất bình thường”.
Nguyễn Đức Tùng cũng như không hiếm các tay bút theo kiểu tác giả bất-bình-thường, theo nghĩa nghiêm trang, tử tế nhất của từ này. Kiệt tác cả trăm năm, dăm trăm năm mới xuất hiện. Còn những-cái-cổ-đang-vặn thì nhiều, nhiều lắm...
Thơ Việt đương đại đã tạo thời vận cho những-cái-cổ-đang-vặn, nhất là vào thời kỳ hậu Đổi mới ở Việt Nam tạm coi là khoảng thời gian 1995 - 2015. Nguyễn Đức Tùng là một trong số đó, kiên trì và sôi nổi. Hơn thế, anh thuộc vào số ít các nhà thơ nổi lên từ thời đó mà vẫn sôi nổi và kiên trì cho đến tận các năm 2020s này - khi mà thơ cũng như văn chương tiếng Việt, cả trong lẫn ngoài nước, lâm vào giai đoạn "nổ bong bóng".
Đấy là một người làm thơ; về cung cách từ truyền thống đến (hậu) hiện đại; về nhân thân có tuổi tác, trải nghiệm, hành trình cuộc đời neo lên đủ các thăng trầm từ đáy vực cho đến lầu cao của xã hội người Việt từ 1954 đến nay, trong đó có miền Nam Việt Nam và hải ngoại; và theo đuổi một đường hướng sáng tạo phải nói là “kỳ khôi” trong một thể thơ chưa ổn định của thi ca tiếng Việt mà chúng tôi, tại đây, đề nghị được định danh là thơ văn-kể[1].
2. Một đại diện hải ngoại tạo ảnh hưởng đến sinh hoạt văn chương trong nước
Đấy là một trong không nhiều người Việt hải ngoại thẩm thấu và đam mê nối kết văn thi hữu trong-ngoài nước, qua hàng loạt bài phỏng vấn, phê bình, biên tuyển… cũng như phổ biến tới độc giả Việt Nam thi ca Bắc Mỹ hiện đại. Nói một cách tương đối, giới văn chương tiếng Việt hải ngoại từ sau 1975 với chừng năm bảy vị đại diện đã có ảnh hưởng đến sinh hoạt văn học trong nước: Khánh Trường và Phạm Thị Hoài (về tạp chí); Đặng Tiến và Thụy Khuê (phê bình, biên khảo); Nguyễn Hưng Quốc và Khế Iêm (nghiên cứu, lý luận); và Nguyễn Đức Tùng (bình luận, đối thoại thơ).
Đấy là còn là một trong những người miền Nam giàu tâm ý với nền thi ca miền Bắc và biết từ đó rút ra cái hay, lọc đi cái dở cho thơ và hoạt động thi ca của mình. Người viết chưa được biết tay thơ thứ hai nào khác có chí có lòng vừa cao vừa khó như thế, ở hải ngoại? Thơ và bạn thơ miền Bắc ảnh hưởng lớn đến hành trình văn học của anh – người hiển nhiên luôn đặt thơ miền Nam trong lòng. Nói riêng trường hợp Nguyễn Đức Tùng, nếu như không có biến cố 1975, nếu như không ra hải ngoại, nếu như không trực tiếp sống cùng thơ Bắc Mỹ, và nhất là nếu như không còn gắn bó với thơ trong nước, chúng tôi cả nghĩ cây bút này sẽ không thể có thơ như đang là.
Nhân vật chính của chúng ta hôm nay, tự nội tâm cho tới sáng tác, là kẻ mê đắm và hiểu biết sinh hoạt văn học hiện đại và đương đại ở khắp cả Việt Nam cùng hải ngoại: khách quan để chính xác; khoa học nên hiệu quả; chủ đích trong tư thế. Số này thật ra không nhiều. Những người đi trước - ở các lĩnh vực văn nghệ khác nhau - phải kể Đặng Tiến, Nguyễn Mộng Giác, Trương Vũ, Ngô Thế Vinh, Thụy Khuê, Hoàng Khởi Phong… Nhấn mạnh vậy, vì Nguyễn Đức Tùng thuộc loại tay bút rất, rất phụ thuộc ngoại cảnh: không có môi trường sáng tác, thiếu vắng bạn viết, hụt hẫng diễn đàn, vẻ như chàng chẳng thể viết nổi hoặc viết không đặng tâm ý.
Xin được phân chia, với mốc các năm là tương đối, 4 thời kỳ làm thơ của tác giả: Thời kỳ thứ 1 - ở Việt Nam (không có nhiều thông tin, bài vở); Thời kỳ thứ 2 - ra hải ngoại cho tới cuối thập niên 1990, đây là giai đoạn "truyền thống": các sáng tác đều là thơ vần điệu theo các thể loại truyền thống; Thời kỳ thứ 3 - khoảng thời gian 2000 - 2015; Thời kỳ thứ 4: từ 2015 đến nay. Hai thời kỳ sau có thể gọi là giai đoạn "(hậu) hiện đại".
Trước đây, in chung vài lần nhưng nhà thơ chưa hề xuất bản riêng tập thơ nào. Thi tập đầu tay Thơ buổi sáng với 3 phần sáng tác: Thơ, Haiku, và Trường ca. Phần chính yếu là Thơ bao gồm gần 140 bài, trong đó khoảng mươi bài cũ từ trước thời kỳ 3; chừng 80 bài mới của thời kỳ 4; còn lại tầm 40 bài thuộc về thời kỳ 3.
Trong làng văn chương - báo chí hải ngoại, về mặt hiệu quả ở phẩm lẫn lượng của các sáng tác, nhà thơ tham gia rất trễ, ngay cả so với những thi hữu lứa sau. Thiển ý chúng tôi, ở 2 thời kỳ đầu, thơ của anh chưa thể coi là thành đạt; và trên thực tế tác giả không tạo dấu ấn giữa dư luận và văn giới chuyên nghiệp thời đó. Thời kỳ 3 thực sự là "mùa hoàng kim" cho thơ Nguyễn Đức Tùng nhờ thể tài thơ văn-kể. Và hiện đang thời kỳ 4 - không chỉ với thơ - tác giả tung hoành ngoạn mục, về số lượng sáng tác cùng thi hứng tràn trề, trên hầu hết các thể thơ tự do, từ haiku qua thơ trữ tình (kiểu bình thường) cho tới thơ dài/trường ca.
3. Sơ lược về thể thơ văn-kể và thơ Nguyễn Đức Tùng
Tạm gọi là thể thơ văn-kể, để khu biệt giữa những hình thức/dạng thơ “phi truyền thống” từ sau thời Thơ mới như các thể thơ đã được định danh: thơ tự do, thơ không vần, thơ văn xuôi, thơ hình họa, thơ khẩu ngữ, v.v… Đặc biệt để so với thơ-kể, một cách gọi khá quen thuộc của thể thơ Tân hình thức Việt.
Ở đây chỉ mới phác họa về thơ văn-kể; và cũng lần đầu tiên khái niệm này được dùng để khảo sát cho một trường hợp cụ thể Nguyễn Đức Tùng - người đã dự phần dài hơi và nhiều triển vọng trong sự phát triển “vô tổ chức” của thể thơ này.
Về đặc điểm, thơ văn-kể kiểu như Nguyễn Đức Tùng: hình thái căn bản là thơ tự do không âm vần; không tạo nhịp điệu qua từ ngữ, khó nhận biết khi nào kết thúc một câu thơ qua trật tự bên ngoài; tức là thường xuống dòng, ngắt câu theo nội dung câu thơ; ít dùng nghệ thuật tu từ; nhiều bài tựa như thơ dịch.
Các chỗ khuyết đó so với thơ bình thường khiến thể thơ văn-kể thường lâm vào thế gắng gượng, giả tạo; tức là dễ bị coi không-là-thơ.
Và đây là một số tiêu chí để thơ Nguyễn Đức Tùng vẫn là “thơ”: Nhịp điệu bên trong được tạo qua ý tưởng; Tứ thơ chính xác, ám ảnh; Cảm xúc sinh ra bằng ý tưởng; Hình tượng đa tạp, đôi khi rất ấn tượng… Nhất là, chỉ cần dùng “lửa” thử thơ hiện đại của Roman Jakobson - “Thơ là một ngôn ngữ tự lấy mình làm đối tượng” thì thơ Nguyễn Đức Tùng ổn. Có điều thơ này là ngôn ngữ tư duy, không là ngôn ngữ hình tượng.
Điểm lại các tiêu chuẩn đến từ hình thức văn xuôi và phương thức kể nói chung: có đầu đuôi trình tự; tỏ ra chú ý, coi trọng điều gì đó; không chau chuốt về văn chương; có nội hàm của một thông tin, một câu chuyện nhỏ; hành văn chân phương giọng thư từ, báo cáo, hồ sơ; không coi trọng âm tiết, vần nhịp; trực tiếp, ngắn gọn; có ý đồ nhất định; lấy trật tự thời gian, không gian làm mốc.
Chúng ta thử so sánh thơ văn xuôi và thơ văn-kể.
Thơ văn xuôi: câu, ý quyện thành dòng chảy về cả hình thức (không xuống/ngắt dòng, có khi không biết hoa, không dùng các ký hiệu chấm phẩy) lẫn cú pháp (kết cấu chủ-vị-bổ ngữ thường bị vi phạm); nhiều câu/đoạn không có ý, nghĩa logic của văn xuôi mà tạo ấn tượng cảm xúc giống thơ bình thường; có nhịp điệu đến từ hình thức ngôn ngữ…
Trong khi đó, thơ văn-kể ngược lại những điều trên, xuống/ngắt dòng như thơ tự do bình thường; cố gắng giữ ngữ pháp chuẩn; các câu/đoạn có ý, nghĩa, toàn bài có đích và thường có câu kết tạo sốc.
Có thể ví thơ bình thường như chạy việt dã vài kilômét; thơ dài và trường ca: maratông; thơ văn xuôi: chạy trình diễn quanh sân vận động; còn thơ văn-kể là cuộc chạy 100 mét.
Hình dung nếu độc giả ngoại quốc đọc bản dịch thơ văn-kể của Nguyễn Đức Tùng thì sao? Dễ hiểu, vì gần như nội dung, ý tưởng được giao chuyển trọn vẹn. So với thơ Tân hình thức Việt, thơ văn-kể thuận lợi hơn khi chuyển dịch ra các ngôn ngữ quen thuộc nhờ sự tường minh của ý nghĩa, không có nhịp điệu chung và không bị ràng buộc bởi kỹ thuật vắt dòng.
Với chúng tôi, hình thể chung của thơ văn-kể như có đã lâu, bắt nguồn từ nhiều thể loại văn hóa truyền thống. Chính bài Tình già của Phan Khôi từng khởi động Thơ mới cũng có thể xem là một dạng như vậy, ở lối kể trực tiếp, có cốt truyện tình tiết, có điệu có nhịp mà không vần...
Trong dòng thơ kháng chiến và cách mạng đã có không ít sáng tác là thơ văn-kể hoặc mang ít nhiều biểu hiện. Sang thời hiện đại, nhiều tác giả đã dùng như thủ pháp, thậm chí làm nên một trong những bút pháp thành tựu như ở Chế Lan Viên.
Vào những năm 2010s khi các sáng tác hậu hiện đại xâm lấn, không ít tác giả hiện đại cũng nhận ảnh hưởng để có thơ văn-kể: Thanh Thảo, Thường Quán, Trần Tiến Dũng, Phan Cung Việt, Lưu Mêlan… Lối viết này thường rất thuận tay cho đa số tác giả hậu hiện đại, trong từng bài hoặc ẩn hiện từng câu, đoạn.
Thật lý thú: thơ Tân hình thức Việt đã dùng “kể” như một bút pháp chủ lực, tạo sự lôi cuốn kỳ dị nhưng với ngôn ngữ của “thơ” – tức là có nhịp điệu bằng các kỹ thuật nối dòng, lặp lại… Và, Thơ kể - Poetry Narrates chính là tên của một tuyển tập thơ Tân hình thức Việt.
Để góp phần nhận ra các điều trên, mạn phép so sánh 2 loại văn bản từ một bài tiêu biểu cho thể thơ văn-kể kiểu Nguyễn Đức Tùng. Chúng tôi thấy đây cũng là bài thơ tương đối hay về nghệ thuật trên mặt bằng thơ Việt hiện nay.
Bản 1 là bài thơ gốc của tác giả. Bản 2 là bản “văn xuôi” do người viết chuyển toàn bộ các chữ từ Bản 1, có thêm bớt các dấu chấm phẩy.
Bản 1:
“Quê hương
Anh bỏ nhà đi năm mười bảy tuổi
Cầm tay em gái dặn dò
Săn sóc mẹ cha
Chăm lo vườn tược cửa nhà
Đừng quên con chó nhỏ
Anh đi một mạch ba mươi năm
Khi về mẹ cha đã mất
Em gái không còn
Con chó chôn ở góc vườn
Cà đang ra nụ, hoa khế rụng đầy sân
Anh ngạc nhiên
Thấy nhà sạch sẽ
Bàn thờ ngát thơm hương khói
Ngồi ở cửa sau
Một con khỉ lông vàng
Đang ăn chuối”
Bản 2:
“Quê hương
Anh bỏ nhà đi năm mười bảy tuổi. Cầm tay em gái dặn dò: Săn sóc mẹ cha, chăm lo vườn tược cửa nhà, đừng quên con chó nhỏ. Anh đi một mạch ba mươi năm. Khi về mẹ cha đã mất. Em gái không còn. Con chó chôn ở góc vườn. Cà đang ra nụ, hoa khế rụng đầy sân.
Anh ngạc nhiên, thấy nhà sạch sẽ. Bàn thờ ngát thơm hương khói. Ngồi ở cửa sau, một con khỉ lông vàng, đang ăn chuối.”
Có thể thấy Bản 2 không được là “thơ”, ngay khi đọc như thể thơ văn xuôi.
Theo quan sát sơ bộ, dễ dàng “chuyển văn bản” cho chừng hai phần ba (2/3) số lượng bài thơ văn-kể của Nguyễn Đức Tùng.
Bởi vậy, nếu như tạo được "thi pháp thơ văn-kể" của văn học Việt thì Nguyễn Đức Tùng sẽ là tác giả đầu tiên thành công ở thể thơ chưa ổn cố này?
Và ngay cả khi đó, dù thể thơ văn-kể không thể ảnh hưởng mạnh đến thơ Việt, nhưng đó sẽ là một trong các nguồn trợ lực để thơ Việt thăng hoa, thêm nhiều thành tố ngõ hầu trở nên tài sản chung của nhân loại. Nhãn tiền, bằng cơ sở lý thuyết chặt chẽ, với thực hành sáng tác thành phong trào đủ rộng trong-ngoài Việt Nam, với “thủ lĩnh” - thi sĩ Khế Iêm - dấn thân toàn phần vì trường phái, hơn hai thập niên qua, thơ Tân hình thức Việt đã rất gắng công, dần dà đạt được điều như trên.
4. Một tác giả hàng đầu trong dòng-thơ-cần-giải-thích-giá-trị
Nguyễn Đức Tùng còn là một trong vài cây bút đầu tiên khiến người viết, từ nhiều năm qua hình thành, tìm hiểu dòng-thơ-cần-giải-thích-giá-trị như là một nhóm các tác giả thơ Việt cần phương pháp tiếp cận riêng.
Thêm lần nữa, chúng ta hãy lưu tâm về “dòng thơ cần giải thích giá trị” Việt Nam từ những nhà thơ:
a. Có lối viết mới-lạ khó nhận chân, đã/đang/tiềm năng đề xuất bút pháp/thi pháp thơ, góp phần đáng kể thay đổi hình thể và phẩm chất thi ca Việt hiện nay.
b. Chưa/ít được giới phê bình và dư luận nhìn nhận/đúng đắn/đầy đủ.
Nói nôm, đó là những tác-giả-khó.
Danh sách dòng-thơ-cần-giải-thích-giá-trị bao gồm 32 tác giả đương đại cập nhật 18/10/2022):
Chân Phương, Đặng Huy Giang, Đinh Thị Như Thúy, Đoàn Huy Giao, Khế Iêm, Hoàng Xuân Sơn, Lê An Thế, Lê Đình Nhất Lang, Lưu Mêlan, Mai Quỳnh Nam, Mai Văn Phấn, Ngô Tự Lập, Ngu Yên, Nguyễn Đình Chính, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Đăng Thường, Nguyễn Đức Tùng, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Thanh Hiện, Nguyễn Thị Ánh Huỳnh, Phan Nhiên Hạo, Phạm Phú Hải, Trần Khiêm, Trần Thiên Thị, Thường Quán, Trần Nhuận Minh, Trần Tiến Dũng, Trương Đăng Dung, Tuyết Nga, Uyên Nguyên, Vũ Lập Nhật, và Vương Ngọc Minh[2].
Phương pháp tiếp cận là khảo sát trong hệ thống và định giá trong tương quan khi nương theo những tiêu chuẩn đối lập (hay-dở, đổi mới-nguyên cũ, hiện đại-truyền thống, cách tân-cổ điển, tiêu biểu-bình thường, nổi danh-chìm khuất).
Ở thập niên trước, các tìm hiểu với 3 tác giả Tuyết Nga, Mai Văn Phấn và Nguyễn Quang Thiều[3] đã được công bố.
Cho tới nay, ngay cả với toàn tập Thơ buổi sáng (nhìn chung là không “khó” đọc lắm”) cũng thật khó thấy hết các lý do vì sao khó tìm hiểu thơ Nguyễn Đức Tùng hơn nhiều “tác giả khó” khác ở cùng cái “dòng thơ khó” này!?
Quan niệm rằng mỗi tác giả, tác phẩm là một chữ, một câu trong bài-thơ-chung của nghệ thuật thi ca, chúng tôi cố gắng bình giá từng nhà thơ của Dòng thơ cần giải thích giá trị như những liên-tác-giả. Bàn về tác giả này cũng có thể luận đến tác giả hay chuỗi tác giả khác, trong hoặc ngoài hệ hình. Không chỉ nghệ thuật thi ca, mà còn văn-hóa-của-thi-ca.
Liên tác giả cùng Nguyễn Đức Tùng gần như chẳng có ai, về lối viết. Rất nhiều bài thơ của anh không là sáng tác có vấn đề, vì chỉ hiểu/cảm sai lệch một chút, thậm chí không hiểu/cảm, là chẳng thấy vấn đề gì. Mọi thứ tưởng bình thường, có khi tầm thường. Thế cũng thành thơ. Cả hình thức lẫn nội dung. Nhưng đó lại là các tổ hợp ngôn tự ám ảnh âm ỉ. Con-mắt-thứ-ba chưa nhìn ra? Thì sau con-mắt-thứ-ba…
Với tác giả này 3 đối tượng đọc là thơ-cho-người-đọc, thơ-cho-người-viết, và thơ-cho-nhà-phê-bình được đan quyện.
Theo 4 tiêu chí quyết định văn học, kiểu này ở thơ Nguyễn Đức Tùng chuyển hóa về thẩm mỹ thi ca (nếu như thành công!?) dù chưa rõ ràng về đặc trưng thể loại, còn về phương cách sáng tác và hình thức ngôn ngữ lại bình dị và căn bản, tưởng không là thơ. Đây là thứ văn-học-khó tự thân, như một sáng tạo đòi ly biệt hệ hình đang có về thực chất nhưng còn trong dáng vẻ ngập ngừng.
Đây còn là kết quả từ sự song hành 2 dòng văn hóa Đông-Tây, cạnh tranh giữa 2 nhân sinh quan của 2 ý thức hệ, và bất ổn trong 2 hình thức văn-thơ. Trên tam giác ấy, Nàng thơ chông chênh ở 2 đỉnh sau; nói gọn, tác giả của những bài thơ văn-kể chưa tạo ra thi pháp mới; nhưng có thể?
Thử nhìn Nguyễn Đức Tùng từ tác giả khác ở thái cực bên kia, về nhiều mặt. Như chúng tôi từng phân tích, Nguyễn Quang Thiều có thơ không là loại văn-học-khó tự thân; chỉ “khó” tùy theo dư luận và bị ảnh hưởng nhiều bởi các yếu tố ngoài thơ, thậm chí phi/phản thơ; đáng kể: có thi pháp ổn cố đến gan góc trên cả 4 tiêu chí làm nên văn học. Nếu được ví trường thơ Nguyễn Quang Thiều là cánh rừng nguyên sinh Cúc Phương - đến đó và chỉ cần đến đó, đi hết chiều tây sang đông, sống qua đêm sang ngày… là có thể thấu hiểu về rừng; thì mỗi cụm thơ Nguyễn Đức Tùng khi là khóm sen Đại Nội thành Huế, lúc là nhành hoa sứ chùa Hoa Nghiêm – mà sen ấy nên ngắm ở Đại Nội, hoa sứ đó cần thưởng tại Hoa Nghiêm.
Xét đặc điểm thi ca Nguyễn Đức Tùng để so sánh trong Dòng thơ cần giải thích giá trị. Thơ văn-kể của anh có từ khoảng năm 2005 đến nay như một lối viết, với riêng chúng tôi, chưa từng thấy[4] trong thơ Việt! Về trào lưu: đây là thơ hiện đại mang một số biểu hiện hậu hiện đại. Về thể tài, dung hòa 3 yếu tố: tính thời cuộc/luận đề, sự phân tâm, và giọng hài hước. Về lý thuyết, các sáng tác như thế sẽ có hình thức đúng nội dung và nội dung hợp hình thức: với đề tài thời cuộc, chủ đề suy tưởng thì hình thức trần thuật, tự sự sẽ hợp hơn hình thức trữ tình trong giọng điệu ngân nga; phong cách biếm hài sẽ làm trí tuệ trở nên khách quan hơn; cảm giác phân tâm, phi lý lại làm tăng độ ẩn dụ, song le tính thơ bị yếu đi do kém tu từ, âm điệu. Việc còn lại là kết quả thực hành, là nghệ thuật thể hiện; nói nôm: thơ có hay không? Quan trọng hơn cả: bạn đọc tiếp nhận ra sao?
Tính lấp lửng, chia trí người đọc - qua đó tạo thi cảm - của thơ Nguyễn Đức Tùng được tạo bởi ý tưởng. Đôi khi bằng hình ảnh, chứ không bằng cảm xúc, tu từ ngôn ngữ. Đây là điểm khác căn bản giữa thơ phương Đông và phương Tây. Thơ Nguyễn Đức Tùng “Go West” trong mặt này. Chán vì không thấy vần điệu, lại không hiểu để cảm, những độc giả như thế của anh hoặc bỏ ngay (vì không thấy đó là thơ, không hiểu nói gì); hoặc bị ám ảnh, muốn hiểu, cảm bằng hết mà chưa biết cách. (Xem thêm Phụ lục 1)
Trong đại gia đình thơ tự do, lối thơ thơ văn-kể kiểu Nguyễn Đức Tùng gần giới hạn cuối cùng của sự tự do nhịp điệu. Đó cũng là nhịp điệu nội tại, phân biệt với những loại nhịp điệu bên ngoài qua âm vần, ngôn từ... Với tác giả này, nhịp điệu được hình thành từ ý tưởng của nội dung, ý định của chủ thể trữ tình, thậm chí ý muốn của chính nhà thơ. Với thơ tự do, như ở Nguyễn Đình Thi, Quách Thoại nhịp điệu là hình tượng; còn Thanh Tâm Tuyền tự thấy nhịp điệu của ý tưởng ở thơ mình.[5]
Ngoài vài yếu tố không “quậy” như thơ hậu hiện đại (tới mức bị coi là phản nghệ thuật hay được xem là phản biện nghệ thuật), nhạc tính thơ Nguyễn Đức Tùng “quậy tới bến” khi thanh trừng “ca” khỏi “thi ca” - quốc hồn quốc túy, đặc sản Việt tính của văn chương tiếng Việt.
Chúng ta từng biết nhịp điệu của thơ Nguyễn Quang Thiều như một thi pháp đơn điệu nhưng vẫn dáng dấp với rất nhiều nhịp điệu từ lớp người viết trước, cùng thời và sau: Nguyên Sa và Chế Lan Viên (trong thơ văn xuôi); Đặng Đình Hưng và Cao Đông Khánh; Trần Vàng Sao và Lưu Quang Vũ; Lê Vĩnh Tài và Đinh Thị Như Thúy… Họ đã văn-xuôi-hóa nhịp thơ tự do mà Nguyễn Đình Thi và Thanh Tâm Tuyền khai mở. Giờ đây Nguyễn Đức Tùng lại văn-kể-hóa nhịp thơ tự do ấy. Đề nghị lấy đó là chìa khóa mở (và đóng, với những ai muốn) cửa thơ này.
Cái thứ thơ như thế đọc lên sao cho hay đã là khó với chính tác giả!? Những người khác thì càng khó có thể đọc đúng. Diễn cảm hay ngâm nga: bất khả. Thông thường, bài thơ có tứ chưa cần hay chỉ cần chuẩn là thính giả sẽ đoán biết về thời hạn đưa tới câu chót. Tay thơ này giỏi tạo tứ, đâu ra đấy. Nhưng người nghe lần đầu khó có thể ngờ cái câu vừa được đọc xong ấy lại là câu kết. Ở những bài kết thúc bất ngờ, dễ nhận ra nhờ nội dung, nhưng nhịp thơ và âm vận vẫn không chịu kết.
Nguyễn Đức Tùng đang viết ở thời kỳ 4 (còn rất sung, chưa thể là chặng cuối), dù người thơ ấy vào độ tuổi mà với đa số tay bút khác không nhì nhằng thì cũng cầm cự cho tới bài thơ cuối cùng.
Như đã nói, sáng tác “truyền thống” ở 2 thời kỳ đầu cũng bình thường trên mặt bằng thơ đương thời, có phần tụt hậu so với thơ hiện nay; và tầm thường (xin lỗi thi sĩ bạn ta cùng bạn đọc!) trong suốt dọc thi trình của bản thân tác giả. Đều là thơ tình ái nam nữ đượm nghĩa quê nhà ở các thể lục bát, vần luật, tứ tuyệt, và - với chúng tôi - quyết định ở chỗ nhìn chung chúng “chã” hay. Những là Hoa đào, Hẹn em, Xin, Liễu, Chiêm bao… Rồi cả Chia tay, Lục bát mùa thu, Ga cuối, v.v…[6] Nếu chọn vì lý do mô tả hành trình thơ thì cũng phải thôi!
Vào cái “thuở ban đầu xao xuyến ấy”, các sở trường sở đoản quen thuộc của thơ truyền thống Việt được thi sĩ của chúng ta ẵm chặt - như ngàn vạn thi hữu đương thời và còn lâu nữa về sau: giọng điệu luyến ái sên sến trong bổng trầm du dương; thi cảm tình tứ, chan chứa mà đơn điệu, mơ hồ; thi tứ vững chãi từ motif sáo mòn; thể tài tình trai nghĩa gái kiểu gì cũng giao hòa giữa khung cảnh quê nhà thân thương trong thiên nhiên cỏ cây hoa lá; và nhất là ngôn ngữ “hoành tráng” bởi mỹ từ, ẩn dụ nhưng không “ấn tượng”, khó bí ẩn, ít sâu sắc mà ngán nhất: chữ nghĩa tuyền là cầm đỡ của tiền bối; v.v… Hẳn vì tay nghề khi đó chưa thể cao sâu (mấy ai được Giời chỉ định làm thần đồng!) thành ra sở đoản cứ “bong ra ngoài” mặc sở trường “lặn vào trong”.
Nếu chỉ vầy vậy, một Nguyễn Đức Tùng đã chẳng hiện diện thi đàn trong-ngoài Việt như đang là. May thay, thiển cận chúng tôi cũng “nhòm ra” nét phá cách khi le lói lúc lấp lửng ở một số bài thời kỳ 1 & 2, báo hiệu một tay thơ có số má trong tương lai mà táo tợn hơn cả là vụ “thơ trong nách”!
Về cảm hứng chủ đạo, với thơ truyền thống thi sĩ viết sao cứ như “đánh Pắc” cho cái tôi trữ tình của tác giả; và đến 2 thời kỳ sau, qua thơ hiện đại, nhà thơ đã để dấu ấn của tâm tư Nguyễn Đức Tùng, của nhân sinh quan Nguyễn Đức Tùng, và nhất là của ngôn ngữ Nguyễn Đức Tùng trên mỗi sáng tác lớn nhỏ, thậm chí ở mỗi câu thơ có tính quyết định.
Thành công ở nhân vật chính của nghiên cứu này là một trong cả ngàn ngàn minh chứng về điều tối cần thiết của thơ tự do giữa một thời đại mới lạ mỗi ngày hỗn độn từng đêm.
Cuối thời kỳ 2, khoảng năm 2000, sáng lên ở vài bài (Cha và con, Trong ký ức của chủ tịch xã, Ghé thăm bạn cũ nay làm xếp ga) để sau đó vài năm thi sĩ trung niên hăm hở và bền bỉ quẹo hẳn vô nẻo thơ thứ thiệt trong đời mình: thơ văn-kể!
Nguyễn Đức Tùng có lối viết rất hiện đại về thẩm mỹ, rất đương đại về thời cuộc. Chia sẻ cùng phong cách hậu hiện đại qua một vài kỹ thuật/thủ pháp nhưng không chạy sang dòng hậu hiện đại về thực chất/tâm thức. Ở anh, cảm quan gốc? Là hiện đại (hiện đại nữa, hiện đại mãi!) Là bảo vệ trung tâm lý tưởng – cái trung tâm đã và sẽ không bao giờ có trong đời thực (nên về cốt lõi tâm can là hậu lãng mạn!) Yếu tố này làm nở hoa các phong cách lãng mạn và hiện thực vốn là nền cũ của tác giả, cũng như của hầu hết các nhà thơ rời xa các khuynh hướng cội nguồn và truyền thống của văn chương.
Về tư tưởng chủ đạo, thơ này không có tính phản biện (theo kiểu cảm quan hậu hiện đại). Nó phản tư, đặt con-trâu-thơ trước cái-cày-có-tính-“cách mạng”. Nó đòi minh bạch về nhân sinh quan và nhân cách. Nói chung, giống với mọi tác giả khác, tính “cách mạng” dễ làm nên phong cách dù theo các dòng thơ truyền thống, hiện thực, hay thậm chí lãng mạn. Có điều kiểu “cách mạng” ở thơ Nguyễn Đức Tùng mang dáng trí thức, hài cợt; và - với chúng tôi - thống khoái nhất là sự lạ hóa nhòa đi bởi chất phân tâm khó tả. Nhìn ra vậy, ta sẽ thấy cái cốt xương cổ điển trong da thịt hiện đại hay trang phục hậu hiện đại ở đấy. Thủ pháp lạ hóa với tạng thơ này cũng thú vị đáo để: được thăng hoa với bài hay, bị rắm rối nơi bài dở.
Như thơ Mỹ-Canada đương đại, kết cấu thơ Nguyễn Đức Tùng trung thành với tính truyện của văn xuôi, từ thời cuộc, xã hội tới sinh hoạt thường nhật… Từ những bài xuất sắc nhất của anh đều có thể “kể” ra một nội dung lạ lẫm.
Đây là các thi phẩm tuyệt hay của riêng tác giả, và mong sao sớm trở thành những sáng tác đặc sắc trong thơ Việt đương đại: Chùa, Nếu, Nhịp đập, Đi dạo với một nhà văn dưới ánh trăng, Chùa Việt Nam…
Chất thời cuộc qua chủ đề chiến tranh là thân xác và cả linh hồn ở lối thơ này. Đa phần các bài như thế tạo ấn tượng tốt: Lịch sử làng tôi (Hay); Trường hợp bất ngờ, Sau chiến tranh (Khá); ngay cả khi nghệ thuật chưa cao (Ngọn lửa, Trong đêm dưới sao trời, Gặp bạn cũ ở Quảng Trị, Thăm Trung Hoa…)
Phân tâm, chia trí độc giả là một độc bút có thể nói “made in Nguyen Duc Tung”. Bài Hai vầng trăng chưa xuất sắc nhưng ở đó bút pháp phân tâm lại hiệu quả: nhẹ nhàng mà da diết đến ngàn cân những vầng trăng tuổi thơ neo trên đầu kẻ xa xứ. Nếu, Vô thức, Làng quê là các bài mà chúng tôi sẽ còn đọc trong cái nhớ nhiều lần, nhâm nhi sự bất định tâm trạng trong đó. Các bài đã lạm dụng bút pháp: Buổi chiều, Phố Tàu, Cánh đồng…
Hài hước trong thơ Nguyễn Đức Tùng là một thứ u mặc (humor), có lẽ chẳng thấy trong 36 kiểu cười Việt? Đây cũng là “Tây tính” trong lối thơ này.
Là thiên đường cho tiếng khóc lời than, thơ trữ tình Việt từ truyền thống đến hiện đại thường thiếu nụ cười, nếu có thì ý vị vô cùng. Để toàn cầu sở hữu, nó cần phong cách hài trí tuệ, mà thơ Nguyễn Đức Tùng có thể làm một ví dụ dù không điển hình. Như là các nhà tiên phong, Đỗ Kh. và Nguyễn Đăng Thường cũng từng cho ra thơ mang chất hài cao độ. Và đó là cái hài phản biện xã hội, cái hài văn hóa sâu xa. Nhóm Mở miệng đã phát triển điều đó, không sâu mà cao quá ngọn tre làng. Nguyễn Đức Tùng làm hài văn học, khó đến với người Việt hơn.
Có thể coi tính giễu nhại (parody) của thơ đương đại dòng hậu hiện đại mang tính thời cuộc Việt khởi đầu là Nguyễn Hoàng Nam, song ngoạn mục phải tới Đỗ Kh. (phi luận đề, chuyện bếp núc văn chương pha thời cuộc); đến Nguyễn Đăng Thường, Vương Ngọc Minh và thơ Mở miệng đã tăng độ luận đề (mà đúng ra là luận điểm). Dòng thơ ấy có cái hay là đậm chất dân gian, đạt sự kỳ cùng của giễu nhại với nghệ thuật liên văn bản, lặp, nhái nhại... Không thể quên Đinh Linh vầy vò đau đáu con chữ cái nghĩa Việt trong câu lời ngáo ngáo “Mỹ con”, rồi - dù không nhiều - Lê Đình Nhất-Lang xoắn ốc trên từng vấn nạn Việt Nam. Ở lối hài giễu khác hẳn - đời thường, trần tục, tự thân làm đối tượng - là những Nguyễn Hàn Chung rồi Lê Vĩnh Tài, Đặng Thân, Nguyễn Thế Hoàng Linh và một số cao thủ khác mà phần đông ở trong nước.
Hài ở Nguyễn Đức Tùng khác biệt với các bạn thơ nêu trên. Và dù không ác liệt như "hài hước đen" (l'humour noir/black humor) của nghệ thuật hiện đại dùng sự mai mỉa, khinh miệt tấn công xã hội, phản kháng chính trị, nhưng nó cũng “xuyên tạc hiện thực”, đẩy tới mức phi thực. Thuộc về dòng nối tiếp kiểu hài vui nhộn, tươi trẻ của chủ nghĩa Dada rồi chủ nghĩa siêu thực; nó khác nhiều - nếu không nói là khác hẳn - cái hài sinh ra từ trò giễu nhại của phong cách hậu hiện đại[7].
Tóm lại, tới Nguyễn Đức Tùng, lối hài biếm của thơ Việt hiện đại đã chuyển hóa phong cách, đậm vẻ Âu-Mỹ; nhờ yếu tố phi lý mà tư tưởng lan rộng; phong vị nhẹ mà sắc (khi cần cũng ác chiến đáo để), lãng đãng hiền triết Hy-La xa xưa, không độc địa vỗ mặt như kiểu Á Đông. “Đâu có ở không” như cánh hậu hiện đại, nó không phá phách để chơi. Nó hòng tái thiết cho lý tưởng mới hơn.
Có thể nhận ra, với khoảng 40 bài ở khuynh hướng này, Nguyễn Đức Tùng đã là tác giả nổi bật của thơ đương đại biếm hài Việt Nam. Nhưng chúng tôi cũng liều mà ngờ rằng, rất ít quý bạn đọc đủ kiên nhẫn về tâm trí để nhận ra. Cùng chất luận đề (thời cuộc), chất hài hước được dụng công rất tế vi, khó nhìn nhận nếu đọc mà chưa… nghĩ! Thì vẫn, nếu đọc thơ là để ngâm nga ca vịnh.
Những địa chỉ của cái hài giễu đáng ghi nhớ: Giã từ (nhoẻn một nụ cười rưỡi); Người mẹ (u mặc thoảng qua, đau); Chim lạ (cười nhẹ, rồi bật ra như bong bóng vỡ); Để giải thích một thói quen xấu, Chùa Việt Nam, Lịch sử làng tôi, Ở Paris (khó giải thích vì sao hài, thế mới là hài thứ thiệt!) Còn đây là nơi cái hài chưa tới dù cố gồng: Dưới bóng cây bàng, Thầy bói nói với mẹ tôi, Thăm Trung Hoa…
Thơ văn-kể Nguyễn Đức Tùng xuất hiện trễ và đã tạo ngay “ngã ba thơ” về loại hình thơ ngắn Việt[8]. Nhìn chung, thơ ngắn dễ bị cho là thơ cũng được, không thơ chẳng sao. Người Trung Hoa bảo, thơ ngắn quyến rũ lâu[9]. Nhưng nhiều nguy cơ thành thơ giáo huấn, ngụ ngôn, châm biếm về nội dung, chơi chữ về hình thức và chán nhất là sáo nhàm về cảm xúc. Dễ bị trở thành thứ thơ đọc-một-lần, tức là phạm quy của trường thơ: thi ca cần ẩn mật, mỗi lần đọc một lần sống lại, một lần phát hiện.
Trong tập Thơ buổi sáng, phần Haiku giữ một phần ba phân mục thơ, chiếm dung lượng không nhỏ với 36 đơn vị bài.
Không khác nhiều với điều chúng tôi từng nhận định, Nguyễn Đức Tùng nay đã thành một “nhà thơ haiku Việt” với độ trí tuệ cao hàng đầu theo kiểu Tây phương - tốt; cũng có nghĩa cực kỳ ít chất thiền Đông phương - chưa tốt (hoặc phá nền tảng nguồn “haiku là thiền thi”). Anh, như đa số nhà thơ haiku Việt, hoặc tin vào nội công bản thân khi thể nghiệm cùng cái biểu tượng văn vần “nhỏ mà có võ” của văn học nhân loại; hoặc không thể theo nổi “kỷ luật thép” ở thể thơ này mà… liều!
Về thể loại, các thi sĩ Việt chúng ta cũng giống thi nhân xứ khác - như Ko Un ở Nam Hàn láng giềng đồng văn, như bao tay bút Đông phương - cùng muốn nhận haiku Nhật làm một nhánh thi ca của văn hóa mình. Với thử nghiệm khó kiểu “Ba cây (văn hóa) chụm lại”, liệu Nguyễn Đức Tùng có thể trình bày một thể tài mới, hay chỉ là một sắp đặt mới cho haiku Việt tựa haiku cổ điển?[10] Câu hỏi 15 năm, vẫn đó.
Nhiều vấn đề đặt ra. Như về niêm luật cơ bản của haiku truyền thống với haiku kiểu Nguyễn Đức Tùng khi tác giả kết hợp vừa kể vừa tả, và phá hình thức “cấu trúc âm tiết 5 + 7 + 5 trong 3 câu” ở số lượng từ/âm tiết không ổn định (bài Coi phim có 16 từ; Tết và Đêm mưa: 15 từ; Mùa xuân: 13; Trên xe Honda: 12; Giữa đường: 10; Sáng thứ hai: 9; và ở cấu trúc bài không khác lắm với thơ cực ngắn.
Song, điều nên lưu tâm hơn cả là “quan hệ anh em” giữa kiểu thơ văn-kể Nguyễn Đức Tùng và haiku Nguyễn Đức Tùng mà lúc này chúng tôi mới hình thành cách lý giải để có thể bàn lại trong một dịp khác.
Các bài thơ ngắn mà cao giá của anh cũng không hiếm (Nếu là đỉnh cao; rồi Nhịp đập, Sau chiến tranh, Chiến thắng, Bảy năm…). Các bài thơ ngắn chưa đạt: Tuổi thơ, Những con rệp, Một con đường ở Phnom Penh, Chiến tranh, Lên chùa ngày Tết, Vỉa hè Sài Gòn. Các bài khi hơi non dại (Mùa hè cuối cùng, Khi nằm trên ghế nhổ răng) khi lại “ngây thơ cụ” (Trang Tử, Dậy sớm uống trà một mình); hoặc dễ dãi (Sáng thứ hai, Thứ hai, Em không muốn về quê). Thân mật, cứ gọi thẳng: những nhát dao giết thơ. Oái oăm, sau 15-20 “nhát dao”, bạn tôi lại có một “kiệt tác”.
Liên tưởng thi ảnh trong thơ Nguyễn Đức Tùng sắc lẻm về tư duy, nhờn lụt về hình tượng. Các bài không đạt là nơi tụ vạ những phóng ảnh, chi tiết gợi hình “hồ hởi phấn khởi” tìm đến nhau một cách vô vọng: Phía khác (đạt); Ngày của em (tạm được); Đời là thế đó, Ký ức những năm 80, Ba mươi năm, Mưa rơi trong tình yêu (chưa đạt). Đây cũng là lỗi thường gặp của bao kẻ làm thơ mà chúng tôi thử đặt tên: bút pháp của sự rối rít. Tomas Tranströmer là bậc thầy trong bài học này. Bút pháp chắc, thi tứ sẽ ổn.
Điểm vài bài khác: Sau chuyến nghỉ hè ở New York, và Trên vỉa hè Sài Gòn: nhiều hình ảnh mà không rối rít; bài thơ ô-kê nhờ hình ảnh chót làm hoang mang độc giả. Bức tượng: tôi thích, và có lẽ nhiều người thì không, coi như một bài văn viết/xuôi xuống theo chủ định. Đi dạo với một nhà văn dưới ánh trăng: hài phũ phàng, trực diện, Việt tính; xứng với nội dung. Dưới bóng cây bàng, và Trên đường: chưa ổn về tổng thể, trong đó vẻ uyển chuyển của thơ như bị thủ tiêu, chất trữ tình đi vắng. Bù lại nó chứa một đẳng thức của văn học Việt đương đại: Thơ Nguyễn Đức Tùng = Thời cuộc/Luận đề + Hài hước + Phân tâm.
Nhà thơ có nhiều bài bớt đi chất hài và tính phân tâm, tăng độ hư ảo. Đề tài luận đề cũng ít, đời thường hơn (Chiếc áo, Bức tường, Con mèo, Sestet 23). Tôi từng không chắc rằng chúng ổn định về bút pháp, và tác giả sắp chuyển qua giai đoạn sáng tác thứ 4? Quả nhiên! Thêm nữa, anh có vẻ trở về phong cách lãng mạn - hiện thực. Một trò chơi trẻ con có luật “Bước chân đi cấm kỳ trở lại”. Nhiều người sáng tác đa phong cách bị luật này ngăn chặn, tôi thấy bạn mình trong số đó (Người bạn hàng xóm).
Thơ Nguyễn Đức Tùng - ngay cả với những bài thành công ở thời kỳ thứ 3 - vẫn nên coi là một thể nghiệm văn học. Nhiều lý do. Khách quan: tư duy mới về thơ chưa tạo ảnh hưởng vào quan niệm chung trong thơ Việt. Chủ quan: không ít bài còn như “chế tạo thơ”[11], những cái xác chữ cần hồn phả vào để thành thơ. Không hề chi! Đích thị công việc của những thi sĩ làm thơ theo trường phái, phương pháp.
Ở đời, thể nghiệm thường khó thành quả, dễ thành rác. Nhiều loại rác-văn-học được là những thứ quả mọc dưới đất; có loại quả-dưới-đất chờ tới lúc ngoi lên; có loại mọc mãi dưới đất, vĩnh viễn một đời quả-rác. Thơ Nguyễn Đức Tùng hiển nhiên không là thơ-rác, giống như không hiếm các thể nghiệm thi ca.
Cũng chính vào “thời hoàng kim” của thơ mình, lần đầu tiên tác giả đã làm một bộ sưu tập kha khá - 60 bài thơ của 20 năm. Đọc, chúng tôi đã đóng đinh vào tâm trí điều từng nâng lên hạ xuống: một tác giả đang phát triển, và sẽ thành tác gia nếu đi đúng hướng. Ôi, cái chữ Nếu!
Đến nay lại thấy "tác giả đang phát triển" của chúng ta tỏ ra xa lánh “thi pháp” từng dựng nên lối thơ kỳ khôi của mình trong dòng thơ văn-kể?[12] Một kiểu viết khác, hiện đại một cách “bình thường”, đã thành hình?
Sự thật là khi đọc thơ ở thời kỳ 4 này, chúng tôi hết còn khoái tỉ như ở thời kỳ 3. Ngoài do bởi cái gu thường tình chi phối cùng lý do sở trường, vấn vướng thi pháp cứ đè nặng toan tính làm phê bình cho thấu đáo. Đã đành phải tìm hiểu nhiều về điều quan trọng bất ý như thế mà lúc này người viết chưa thể. Nay chỉ mới dùng thị hiếu cá nhân mà tiếp cận. Nếu lần theo thi pháp sẽ thấy hay-dở; còn vô pháp là của các sự thích.
Khi tác giả hình thành bản thảo tuyển tập thơ đầu lòng, khoảng 80 bài của thời kỳ này được chọn lựa mà chúng tôi cũng đã từng đọc đó đây. Rất ít những bài rất thích: Khăn quàng, Tên (Cả hai cùng mang đề tài chiến tranh, tử sĩ). Những bài thích: Mục đích của quần áo, Mưa rơi trong tình yêu, Bài thơ viết ở Văn Miếu, Thơ tình tháng Tư… Đông như quân Nguyên là các bài nửa thích nửa không thích (Tôi hỏi, Dù gánh nặng lớn bao nhiêu…) Tìm các bài không thích và rất không thích dễ như Quan Vân Trường lấy đầu Nhan Lương, Văn Xú. Này là những Em có nhớ về thăm Thạch Hãn, Có một mùa hoa, Trong ngày cuối cùng của thế giới, Chúng ta không cần phải đẹp lắm.. Rồi tới những Sáng nay khi thức dậy…
Kết thúc mục 4, với tập Thơ buổi sáng, sẽ nói nhanh về dung lượng các bài thơ và một hướng mới: thơ dài có tính trường ca của Nguyễn Đức Tùng.
Hiện tại tác giả lại đang viết một cách bình thường như thời kỳ 1 & 2, không còn ngắn/quá ngắn như ở thời kỳ 3. Đến mức có độc giả vừa mới thổ lộ: “thơ anh (...) thường dài. Khi chưa quen mình ngại đọc. Đã quen rồi, mình không sợ nữa…”
Vài ba năm nay, trên trang cá nhân FB của mình, nhà thơ giăng mục Thơ tình thứ bảy tương đối đều. Giọng điệu rất Nguyễn Đức Tùng, các bài ấy, với chúng tôi chúng quả là thơ tình; có thể xem như “chủ lực quân” của “thi tướng” trong giai đoạn sáng tác hiện tại. Và không gia nhập vào hàng ngũ thơ văn-kể mà chúng ta coi là trọng tâm ở bài viết này!!! Tiếc, cũng chẳng được; với giới bình thơ sự làm khó như thế bởi các tác giả âu cũng thường.
Mười năm trước, với sở trường là thơ ngắn, sở đoản thơ dài; về mặt dung lượng và cấu trúc, thơ Nguyễn Đức Tùng có “dạng tối thiểu”, giống với Trần Dần (thơ lảy), Phùng Cung, Thi Vũ, Phạm Đình Ân, Nguyễn Hoa… Kiệm lời ẩn ý, gần với Lê Đạt, Ý Nhi, Thường Quán, Đặng Huy Giang, Phan Huyền Thư, Lê An Thế… Chúng đối cực với dòng “thơ nhiều lời”.[13] nhiều thập niên qua ngày càng lan rộng, từ những đợt sóng ngầm Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Trần Vàng Sao… tới các bão tố Lưu Quang Vũ, Nh. Tay Ngàn, Dương Kiều Minh, Lê Văn Ngăn, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Thị Thanh Bình, Nguyễn Quyến, Lê Thị Thấm Vân… … rồi dạt dào Nguyễn Xuân Thiệp, Ngu Yên, Mai Văn Phấn, Thận Nhiên, Trần Quang Quý, Inrasara, Vi Thùy Linh… Và tiếp mãi ở Nguyễn Thanh Hiện, Nguyễn Viện, Đoàn Huy Giao, Lê Vĩnh Tài, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Lê Nghĩa Quang Tuấn, Đinh Thị Như Thúy, Phan Hoàng, Trịnh Sơn, Vũ Lập Nhật… Đỉnh thác dòng thơ-nhiều-lời Việt, hôm nay và có lẽ rất lâu về sau, không thể ai khác: Nguyễn Linh Khiếu với đại giao hưởng trường ca Phồn Sinh!
Tin vui ngoài chờ đợi! Hành trình thơ Nguyễn Đức Tùng đang có một hướng mới toanh, về thể tài.
Vào giữa năm 2019, bản thảo chót cho bài tùy luận này vẫn còn câu: “VIP của chúng ta đã và sẽ không hiện diện trong đội ngũ trường ca gia!” Thiện tai! Một quả bói sai toàn tập! Trước, với nhà thơ một số ít bài được coi dài thường có 5-6 khổ với 250-300 từ. Mến mộ thơ anh và lại là kẻ lưu tâm đến thể thơ dài Việt Nam hiện đại, nhất là thơ dài có tính trường ca. Thế mà dạo ấy chưa thể thích bất kỳ một bài thơ dài nào. Ngay cả “bài tủ” được nhiều báo chí đăng lại, Hãy để chim chóc làm đầy bầu trời.
Hốt nhiên, tròn 3 năm song hành với bấy nhiêu biến cố xã hội Việt Nam, rồi thiên địa dịch giã Covid-19, chiến tranh Nga - Ukraine… tác giả chuyên trị thơ ngắn đã liền tù tì sản sinh tới 7 bài thơ dài có chất trường ca. Khiến chúng tôi hoan hỉ bổ sung Nguyễn Đức Tùng và các thi phẩm mới vào chuyên luận từng được đề xuất, hoàn thiện 15 năm nay về hiện tượng trường ca hiện đại Việt Nam[14].
Ở phân nhánh trường ca thế sự - đời thường - tâm lý, một tiểu mục đang được phác thảo dành cho nhà trường ca “trẻ” Nguyễn Đức Tùng như là tay viết tương đối lạ về sự xông xáo ở đề tài cấp thiết và độ lôi cuốn từ cảm hứng thi ca, cùng vài khúc mắc về nghệ thuật cấu trúc và ngôn ngữ thơ trường ca.
Nay dẫn trước ý kiến về Bài thơ Ukraine. Đọc như một sáng tác thơ trong tinh thần "phục vụ cách mạng": đó là thi phẩm tốt đẹp và kịp thời. Đọc như bài thơ dài có tính trường ca: so với 3 bài đầu xuất sắc (Bài thơ tháng Tư, Bài tiễn biệt thi sĩ[15], Bài thơ Đồng Tâm), bài này ở mức bình thường. So với 3 bài trước đó (về Vũ Hán, Afghanistan…): toàn bài hiếm thấy chương, đoạn, câu nào dở, song rất ít chỗ sáng láng.
Đôi ba trường đoạn cũng có thể tạo ấn tượng, như: "Khẩu súng săn treo đầy mạng nhện của tư tưởng/ Hãy giả vờ đang có hòa bình/ Hãy nằm trên cỏ nhìn lên những vì sao/ Hãy tưởng tượng cuộc tình Budapest/ Chủ nghĩa lãng mạn đã chết, hãy đắp mặt bằng một ngôi sao".
Quan trọng: Nội hàm chiến tranh và nan đề Ukraine chưa được làm cho nổi bật cái riêng của chúng một cách nghệ thuật và trọn vẹn; mà chỉ là các diễn ngôn văn vần - nhẹ về tu từ, về ngôn ngữ thơ (nặng về báo chí, tin tức, suy tưởng tư biện...) theo cung cách tản mạn rất riêng của tác giả. Đã đành có các địa danh, nhân vật; đã đành có xướng lên vài câu hỏi về bản chất cuộc chiến.
Cụ thể: Bài thơ Ukraine cùng 3 bài xuất sắc cho thấy nhịp điệu toàn bài mang chất trường ca cao độ, đấy là loại nhạc-tính-cảm-xúc mà tác giả cừ khôi. Nhờ nó toàn bộ "cây cầu" vẫn vững dù không hề có trụ (cấu tứ thơ trường ca hoặc cấu trúc chương hồi). Trong nghệ thuật trường ca nhịp-điệu-tư tưởng dễ đưa đến tác phẩm lớn hơn.
Đoạn mở và kết: có dáng dấp cấu trúc của trường ca chuẩn mực mà nhiều bài trước không đạt tới. Các chương thành công: 1, 6, 7, 8. Chương kết 9 và nhất là các câu kết, nếu nhuận sắc cũng sẽ thành công to.
Nói thêm 2 điểm son-mờ. Son: Ở thi phẩm này tuyệt không thấy các cú “liếc xéo” (vô cớ vô duyên chánh trị thời thế) như thường có ở các sáng tác trước. (Âu cũng là phong vị hậm hực dễ thương của hầu hết các thi sĩ viết về thời cuộc). Mờ: Chẳng khó nhận ra tác giả không phải là dân miền Bắc XHCN cũ, khi mà ngót chục ngàn con tự chẳng hề có chi tiết, ý tưởng gì về các tâm tư kiểu "thiên đường Liên Xô”, “địa chỉ của tôi là CCCP”...[16]
Qua chuỗi 7 sáng tác thơ dài, dễ thấy tác giả cao thủ ở lối viết riêng, không cần ý tưởng chủ đạo toàn bài như một tứ thơ lớn hay kiểu chương hồi của trường ca nói chung; mà thả lỏng cấu trúc/dàn bài. Lấy cảm xúc và tình tiết, quan điểm vụn lẻ, bất ngờ nhân lên như bão tố. Tạo dòng chảy trường ca, bằng thủ pháp song hành giữa chủ đề (cuộc chiến Nga - Ukraine) và "cuộc tình anh - em" nào đó. Motif không mới, nhưng trung thành và chắc chắn với những biến báo tài hoa trong thể tài thì chưa mấy ai vượt tay Nguyễn Đức Tùng giữa giang hồ trường ca gia Việt đương đại.
Nên ghi nhận đó như một đóng góp nhất định vào thi pháp trường ca Việt Nam hiện đại; và không nên lạm dụng nếu chưa tìm thêm các biến báo mới, sao cho sở-đoản-kỹ-thuật trở thành sở-trường-nghệ-thuật.
Theo 4 tiêu chí trường ca hiện đại thì thơ dài có tính trường ca của Nguyễn Đức Tùng lực lưỡng về thể tài và phóng túng ở cảm hứng; chưa thuyết phục bằng giọng điệu/tư duy, yếu về cấu trúc, thiếu hụt thủ pháp.
5. Các đặc điểm như là rào chắn thơ Nguyễn Đức Tùng tới bạn đọc
Khá nhiều. Với chúng tôi rào chắn đến từ: chất văn dễ lấn chất thơ; khó gợi tính nhạc/nhịp điệu do thiếu âm vần[17]; không tự nhiên về cấu tứ, gần với ngụ ngôn; cú pháp quá khoa học như robot; không hợp với thơ tình yêu (trong các bài xuất sắc và hay nêu trên không bài nào về luyến ái nam nữ, phần lớn về thời cuộc); v.v… và nhất là thi pháp pha tạp, chưa nhuyễn.
Có 2 phe rõ rệt. Phe cách tân đông đảo ra phết (mà kẻ viết bài này là một), có lập luận khoa học, so sánh khuynh hướng, có khát vọng khách quan, nhưng vẫn chưa đủ trọng lượng để khen chê, bình giá cho xứng; cũng bởi phê bình chưa tài bằng tình - đa phần là bạn bè văn hữu của tác giả nên khó tạo công bằng trong con mắt các độc giả khó tánh. Mới nhất, lời bình của nhà thơ Nguyễn Hàn Chung: “Thơ Nguyễn Đức Tùng dẫn dắt người đọc tiếp nhận một gu thẩm mỹ mới mà nếu ai quen với sự lĩnh hội và lí giải truyền thống sẽ khó mà nhập vào sự tương tác giữa tự nhiên và hiện đại trong thơ anh. Mình rất ngưỡng mộ nghệ thuật miêu tả biểu hiện cộng với diễn xướng tạo ra những liên tưởng bất ngờ thú vị. Khi tiên phong phá bỏ những chuẩn mực quy phạm nhà thơ đã hiển lộ cho chúng ta sự khoái cảm của trò chơi ngôn ngữ. Xin được kính nhi viễn chi vậy.”[18]
Phe bảo thủ: cũng xôm tụ, hiếm thấy thành bài viết mà thường chỉ bắn ra các còm; trong đó chỉn chu về hình thức, lề lối về học thuật, thẳng băng về độ “truy sát” hơn cả đến từ bài của Trần Văn Tích[19].
Bài viết này chỉ bàn tới phẩm chất sáng tác nơi anh - người cần “làm chủ bản thân” khiến riêng chúng tôi luôn kỳ vọng một thực thể văn học đã thành hình cùng không ít nhà thơ khác, đó là “trường phái thơ văn-kể Việt”.
Nói chung, một trường phái văn nghệ có nhiều nhận dạng: yêu cầu của thời đại, thời cuộc; thúc đẩy của văn hóa, xã hội; sự giao lưu với môi trường mới và khác; thời gian thử thách; số lượng tác giả, chất lượng và ảnh hưởng sáng tác của một hay một vài tác giả như là thủ lĩnh; phản ứng của độc giả; sự tự do và dân chủ trong sáng tạo cá nhân và diễn đàn công cộng; v.v…
Vấn đề trường phái văn học là lớn, khó và vẫn xa lạ với phương cách viết và đọc văn chương Việt, chúng tôi cũng từng công bố một số tìm hiểu trong thơ[20]. Thêm lần nữa diễn lại vài ý quan yếu…
Nếu không kể tư trào Thơ mới như một chuyển động văn hóa trong toàn xã hội, đến nay thi ca Việt hiện đại chỉ có năm nhóm, trường phái văn học tạo dựng hoặc liên quan thi pháp: Xuân thu nhã tập; Nhóm thơ Bình Định/ trường thơ Loạn; Nhóm Dạ đài; Thơ Tân hình thức Việt; và Nhóm Mở miệng. Không kể Nhóm thơ Bình Định, bốn nhóm phái kia đều cao vọng, ít nhiều thực hiện được sự ra khỏi thi pháp Thơ mới.
Cuộc cách mạng lần thứ nhất với thi pháp Thơ mới 1932-1941 đã lật lịch sử thơ Việt sang “chương hai”, từ quan niệm mỹ học và tư duy nghệ thuật thời trung đại sang hiện đại, tiếp thụ và song hành thơ thế giới. Tới nay, có thể xem cuộc cách mạng lần thứ 2 đã trôi qua dai dẳng với nhiều giai đoạn qua 3 mốc văn học sử: Nhóm Sáng tạo với đại biểu Thanh Tâm Tuyền 1955-1962; Nhóm Nhân văn – Giai phẩm với đại biểu Trần Dần; và cao trào sáng tác hậu hiện đại những năm đầu thế kỷ 21 cho đến nay với nhiều đại biểu, chủ yếu là Nhóm thơ Tân hình thức Việt và Nhóm Mở miệng. Nói riêng về cá nhân tác gia có tác phẩm tạo ảnh hưởng với thành tựu, thể nghiệm hoặc dang dở, chúng ta thấy trên bảng giá trị cải cách và cách tân thơ Việt về thi pháp có 4 vị: Nguyễn Đình Thi (1946), Thanh Tâm Tuyền (1955), Trần Dần (1963), và Nguyễn Quang Thiều (1992).
Có thể xem hành trình sáng tác theo 4 bậc thang “đẳng thức thơ”:
1. Cách mạng (Cải cách) thơ = Văn hóa (Thẩm mỹ) mới + Chủ nghĩa (Triết thuyết) mới
2. Cách tân (Tiên phong, mở đường) thơ = Thi pháp (Khuynh hướng) mới
3. Đổi mới thơ = Bút pháp mới
4. Sáng tạo thơ = Phong cách (Thủ pháp) mới
Cải cách thơ Việt duy nhất sau thơ Mới là dòng thơ Tân hình thức Việt với thi pháp hoàn toàn mới sinh ra từ văn hóa mới, thời đại mới qua một chủ nghĩa, triết thuyết mới. Đó là một “cuộc cách mạng nhỏ”; trong khi 4 tác giả nêu trên thuộc về cách tân - ở đấy thi pháp mới được triển khai từ khuynh hướng văn học mới có tính thời cuộc nhất định, tức là trong giới hạn không gian địa lý hoặc thời hạn của thể chế, xã hội.
Giả như thể thơ văn-kể kiểu Nguyễn Đức Tùng mà thành công, hoặc thể nghiệm tạo ảnh hưởng, thì giá trị chuyển hóa thơ Việt của nó - xét về định vị - trên cách tân và sau cải cách. Dẫu hiếm hoi cũng không dễ định danh những tác gia thi ca Việt hiện đại/đương đại đã thành tựu ở giá trị chuyển hóa thơ; và Đặng Đình Hưng ắt là một trong số đó. Trần Dần, với chúng tôi, có lẽ vẫn còn là thể nghiệm dang dở ở đôi tác phẩm, giữa chuyển hóa và cải cách (trong Jờ Joạcx, Thơ không lời – Mây không lời / Thơ – họa).
Nếu tiếp tục và ngay cả chưa thành đạt đáng kể, thơ văn-kể kiểu Nguyễn Đức Tùng vẫn đang và sẽ góp phần tạo ra những chuyển động không thể cưỡng lại khi hiện đại hóa và thế giới hóa thi ca Việt. Rất nhiều bài không đạt trong thơ này là không thể “cứu” nổi và chỉ cần chuyển qua phong cách khác lại tạm ổn.
Kể trên là “đại tự sự” về sự khó cho thi trình Nguyễn Đức Tùng. Thử xét các tiểu tiết… Cũng như với tuyệt đại đa số tác giả khác, tạng thơ ngắn Nguyễn Đức Tùng cùng chung thi phận với mọi loài thơ ngắn trên đời, mà haiku là ví dụ đồ sộ nhất: đến như haiku Nhật cũng phải đọc cả tá bài may ra mới biết mặt anh tài, kể cả Basho với Con ếch huyền thoại. Thành thật, tôi chưa thể tin có một phê bình gia nào nếu chưa biết bài thơ nói trên của Matsuo Basho vĩ đại mà vẫn bình cho đúng tâm tài của chính mình về kiệt tác đó! Đấy cũng còn là cái khó chung trong quan hệ tác giả và tác phẩm luôn xảy ra khi thẩm định thơ mà với văn xuôi hiếm gặp như vậy. Ở thơ ngắn, nan đề còn riết róng hơn. Tạo ra thi pháp thơ ngắn cỡ như Trần Dần và Phùng Cung khiến không ai có thể đọc nhầm, hỏi có mấy thi sĩ? Thơ Bùi Giáng được đúc thành khối, một kiểu liên văn bản nội tại. Giống từng câu ca dao lục bát Việt chứa cả trời tâm sự, mỗi thi phẩm rất ngắn của Thi sĩ trung niên, có khi chỉ hai câu thơ và ngay cả ở những câu, bài không hay, cũng tỏa ra trường thơ Bùi Giáng.
Chưa đủ uy tín (lấy danh đè thơ!), sức hút thơ nội tại và do chọn hình thể thơ ngắn và rất ngắn, nên nếu chỉ qua một vài, thậm chí mươi sáng tác thì thơ Nguyễn Đức Tùng khó có thể được bình giá đúng tầm.
Đến đây gặp bài toán đa phong cách. Nếu dùng chính xác một phong cách, cổ điển hay hiện đại, một tài thơ vẫn cho phép chỉ cần 3-4 bài, thậm chí một bài, tạo ra ảnh hưởng. Ngay cả với thơ ngắn.
Kiểu thơ Nguyễn Đức Tùng đến nay chưa sở hữu được hiện-tượng-một-bài. Với các bài đặc sắc nhất ở anh, một người viết hạng trung vẫn có thể “cầm nhầm” và một người phê bình hạng cao vẫn có thể phê nhầm. Bởi, trong mỗi sáng tác đó thường chưa trọn vẹn các tiêu chí của một phong cách. Cũng bởi, ngôn từ và cấu tứ vẻ ngoài rất giản đơn và căn bản. Còn nữa, mấu chốt: trộn các phong cách đã có để tìm một “thi pháp riêng”, tác giả rất dễ gặp sự cố mỗi khi có sự tham dự của các biểu hiện hậu hiện đại (Xem tiếp mục sau).
Tác giả này thường có những bài thơ lạ một cách oái oăm, người viết muốn gọi là loại thơ-đọc-một-lần.
Những cái gì chỉ đọc một lần dễ thuộc về bè lũ tin tức, nhật báo… Có lẽ những độc giả chưa thích - thậm chí ghét - thơ Nguyễn Đức Tùng bởi bị lâm cảnh này? Riêng chúng tôi thường phải quên những bài đó để khỏi hại các bài thơ cùng motif. Tính không lặp lại của thi ca là vậy. Hà khắc. Rất hà khắc. Có thể dở, thơ không được phép nhàm. Nhàm quá hóa nhảm, cho dù nội dung hay ho. Bên cạnh cái nhàm, thơ ngắn dễ thành đồ giả. Thơ Nguyễn Đức Tùng thời 2010 - 2015 có lẽ đã đạt đỉnh và cũng khó thoát luật chung. Nhiều người còn bảo trong thi ca, tệ nhất là nhạt. Vâng, Nhạt là bởi Nhàm dan díu với Giả. Nói chung, với thơ ngắn của bất kỳ đấng bậc nào, ngu ý bần tăng là chớ nên đọc liền tù tì cả tá bài; dẫu là một tá “con ếch” thì già nửa sẽ biến thành chẫu chàng ễnh ương.
Một điều kỳ khu khác nữa ở thi sĩ của chúng ta: kén chọn không gian và thời gian xuất hiện. Như một bấp bênh, nói lên phần nào sự chưa/không ổn định mỹ học mới cho thơ. Đọc và xuất bản thơ Nguyễn Đức Tùng, rất cần một nghệ thuật: có bài đi ở Hà Thành thì ngon, chạy sang Cali thấy làm sao ấy; và ngược lại.
Chúng tôi mạo muội có lời, với độc giả chưa quen và muốn thích thơ Nguyễn Đức Tùng, trong lần đầu nên đọc 4-5-6 bài là cùng, rồi… nghỉ giải lao; vài ngày sau đọc lại, đọc tiếp. Với các phê bình gia, các thi hữu: xin tùy nghi, đọc liền tới hết hay bỏ cách, nhưng hãy nghĩ về nó. Còn với bạn đọc không thích loại thơ này, mong hẹn ở một bài viết khác.
Cuối cùng, thử gán ghép một cặp đôi như vầy: thơ Nguyễn Đức Tùng và tiểu thuyết Thuận [Xem Phụ lục 2].
Người nam rất có tư duy thơ, người nữ rất có tư duy tiểu thuyết; trong khi phần đông tác giả Việt xưa nay ít nhiều đều có tư duy thơ (dù thơ Việt không là “thơ tư duy”) và hầu hết không có tư duy tiểu thuyết (tức là truyện Việt không là tiểu thuyết, theo quan niệm phương Tây).
Hai hệ quả từ đấy: a. Giả sử Nguyễn Đức Tùng ngấm những Pushkin và Lermontov; Evtushenko và Simonov, có thể trong lối viết thơ văn-kể của chàng những bài trữ tình sẽ thật hơn, những bài thời cuộc sẽ cận nhân tình hơn? b. Các bài chưa đạt trong nội dung thời cuộc, chiến tranh, chính trị… là bởi nam thi sĩ chưa tới được câu-chuyện-con-người, mà chỉ muốn hoặc chỉ tới chuyện-người-Việt ở các chủ đề trên.
6. Quan hệ hiện đại và hậu hiện đại trong thơ Nguyễn Đức Tùng
Ở đây nói về hậu hiện đại để phân định trào lưu; không bình giá phẩm chất, so sánh cao thấp…
Là văn chương hiện đại chia sẻ một số cách thể hiện với xu thế hậu hiện đại, thơ Nguyễn Đức Tùng phá bỏ trung tâm này trong cao vọng xác lập trung tâm khác - trung tâm “lý tưởng hơn”, nếu không nói là không tưởng.
Trong khi hậu hiện đại phơi bày tất cả, giải thiêng như một hình thức phá bỏ bằng tâm thức, không qua hành động, không nhằm “xây” bất kỳ cái gì; giải-trung-tâm không chỉ phản đối trung tâm mà thực ra phản đối cái hiện hữu. Chẳng thể có cái hiện hữu nào làm hài lòng “quần chúng nhân dân” của hậu hiện đại. Giả như tất cả biến mất, chỉ còn chính mình, hậu hiện đại cũng giải tán nó luôn?!
Tinh thần của hậu hiện đại là hỗn loạn, hỗn loạn nữa, hỗn loạn mãi. Nhưng, nó lành, nhờ sự vô đích.
Giống tinh thần truyền thống, thơ Nguyễn Đức Tùng ngăn nắp, có định hướng (dù ngầm), và có đích (ẩn hiện): làm đến cùng giúp con người, xã hội đẹp hơn theo lề lối thi nhân. Các nhà thơ hiện đại can thiệp cho đến khi nào nhân quần được tốt đẹp như ý của họ, trong khi thi sĩ cổ điển hướng tới một vài bản chất của loài người và nghệ thuật. Sáng tác hậu hiện đại thực sự chỉ mong là rác là cỏ, chỉ muốn làm đất chôn thơ. Các nhà hiện đại lại luôn bảo vệ thơ: họ lôi Nàng thơ bụi phủ từ các bảo tàng ra hè phố để dựng tượng đài. Thi cảm hậu hiện đại không coi thơ là gì, nhé! Họ và thơ của họ (nếu cứ bắt họ phải gọi đó là “thơ”) không có trách nhiệm tự thân. Cứ như thể mục đích duy nhất của họ là khiêu khích. Đó là các tay bút láu lỉnh: viết theo nhịp độ bị khiêu khích bởi độc giả.
Mãi về sau, chúng tôi vẫn nhầm chất giễu hài trong thơ Nguyễn Đức Tùng thuộc về hậu hiện đại. Không, thơ của anh không phản biện theo kiểu trí thức bất tòng tâm, không chế nhạo như trạng, không giỡn cợt như hề với các hiện tượng xã hội và chính trị bề mặt. Nó bản chất, phê phán tận gốc, muốn cải tổ, muốn “cách mạng” bằng điệu cười rất khác biệt trong thơ Việt. Đó là một nhà hiện đại hóa thực sự và nghiêm chỉnh. Không hề không-làm-thơ như hầu hết các tay chơi hậu hiện đại. “Có văn có ích, có văn chơi.” (Tản Đà). Thơ Nguyễn Đức Tùng, loại thơ có ích. Ở các bài thành công mà đậm chất thời cuộc, “tính chiến đấu” cực siêu!
Đấy cũng là một ví dụ cho những điều mà chủ nghĩa hiện đại, chủ nghĩa nhân văn làm mãi không hết trong gần hai thế kỷ qua. Họ nản. Hoặc nghỉ giữa chừng. Hoặc đùn nhường cho các nhà hậu hiện đại trong nửa thế kỷ qua.
Có chủ đích cao mà không trên cơ sở lý luận (như Khế Iêm bên thơ Tân hình thức Việt), Nguyễn Đức Tùng trình ra một thử nghiệm ngõ hầu chuyển hóa thơ Việt; nhưng vào lúc xã hội Việt ở thời kỳ văn hóa tiêu thụ và đa dạng, không còn quá trọng chữ nghĩa thơ thẩn. (Dù sao anh cũng chưa thiệt thòi như Dương Tường - người đề xuất, triển khai thể thơ-âm-bồi Việt tính và hiện đại, đáng được thử nghiệm đến cùng mà bị thời thế, và có lẽ cả ý chí cá nhân tác giả, làm trễ hụt.)
Cũng như - và rõ ràng hơn về chính kiến - văn Phạm Thị Hoài và Nguyễn Huy Thiệp, thơ Nguyễn Đức Tùng muốn thanh lọc, thậm chí thanh lý các nhức nhối trong xã hội và con người đương đại bằng một số phương cách nghệ thuật tựa hậu hiện đại qua tâm thức chủ thể trữ tình (nhân vật) hiện đại và chủ thể sáng tạo (tác giả) hiện đại. Trong khi đó, thơ Bùi Giáng, Nguyễn Đăng Thường, Nguyễn Hoàng Nam mà rõ nhất là Đỗ Kh., và văn Lê Anh Hoài, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương mà mạnh nhất là Đặng Thân là các kết quả hậu hiện đại của thi pháp, nếu quả có một cái gọi là “thi pháp hậu hiện đại”[21] phủ sóng mọi sáng tác có cùng tâm thức hậu hiện đại.
Thôi nào, ta dùng tam giác thơ Phấn-Thiều-Tùng dễ so đo hơn.
Mai Văn Phấn: một tác giả luôn cách tân nương theo mọi khuynh hướng và gần như nơi nào cũng thành công ở mức khả dĩ và khả ái; giai đoạn hậu hiện đại - đang rời bỏ chàng mươi năm nay - tuy không dài lắm đã có dấu ấn mạnh là tập Hôm sau đủ làm một bộ sưu tập điển hình trong cao trào văn chương hậu hiện đại Việt (Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ, Tắm đầu năm, Ghi ở Vạn Lý Trường Thành, Gió thổi, Sống hồn nhiên…)
Nguyễn Quang Thiều: không thiên vị trường phái quen thuộc nào và sở hữu một số thủ pháp hậu hiện đại bình đẳng với nhiều thủ pháp khác ở khoảng 15 bài thơ cuối tập Châu thổ, song sản phẩm thứ thiệt (và thứ dữ luôn!) hậu hiện đại là trường ca Lò mổ đã tham dự độc đáo vào xu hướng này, giống như những sáng tác “đổi gió” hậu hiện đại của một thi sĩ hiện đại tự hồn vía và thủy chung một thi pháp riêng biệt.
Nguyễn Đức Tùng: như đang bàn thảo.
Thử nghiệm Nguyễn Đức Tùng giống các thử nghiệm hậu hiện đại: đòi hỏi sự tự hủy cao, đặc biệt với các bài rất ngắn. Theo thống kê sơ bộ của chúng tôi, thi sĩ phải qua chừng 20 bài để có vài bài đạt, mươi bài được gọi là thơ (trữ tình)[22].
Khác các thứ thơ hậu hiện đại thuộc về bản chất, loại sáng tác hiện đại phất phơ hậu hiện đại kiểu thơ Nguyễn Đức Tùng rất kén cái tục, chọn tiếng chửi. Để thực thi các ngôn từ ít văn hóa, nhà thơ phải “uốn lưỡi bảy lần” ngay trong những bài có chỉ ba bảy hai mốt âm tiết. Tác giả này không làm văn hóa, mà làm thơ. Chủ đích làm thơ thứ thiệt, trong khi các thi sĩ hậu hiện đại luôn hủy hoại thơ để phản ứng văn hóa. Thế nên trong thơ tạng này, những bài có cái tục dự phần hiếm khi thành quả.
Dù một số ít bài có biểu lộ suồng sã, tục tằn giông giống hậu hiện đại (“Hai chúng tôi đứng hồi lâu trước bức tường rêu phủ/ Dưới dòng chữ sơn đen nguệch ngoạc bằng tay/ Đ.M. đứa nào đứng đái ở đây - Bài Đi dạo với một nhà văn dưới ánh trăng), thơ Nguyễn Đức Tùng so với loại thơ “Chẹc… chẹc” của Nguyễn Đình Chính chưa thấm vào đâu về mức độ tục. Thơ của người đầu hãn hữu văng những câu chửi rủa, các ý tục rất đắt như thể thi sĩ chuẩn bị để chửi từ trước (ví dụ vừa nêu), trong khi thơ của người sau lại như tiếp âm từ những bà bán cá tới các ông đồ hiện đại thất thế. Nhưng, hai tay thơ ấy có cách thô tục giống nhau mà mãi người viết mới nhận ra.
Đến tập Thơ buổi sáng, xác suất gặp bài “hiện đại” và “bình thường” cao hơn rất nhiều bài dáng dấp “hậu hiện đại”.
7. Tương lai của các loại hình nghệ thuật như thơ Nguyễn Đức Tùng
Nó phụ thuộc vào làn sóng hậu hiện đại khi nào tạm lắng xuống.
Toàn cầu hóa trong kinh tế đã kéo theo trong nghệ thuật, văn hóa, xã hội, chính trị; và là tác động chính khiến trào lưu hậu hiện đại bùng phát từ hơn 40 năm nay đến mức nhiều người nhầm tưởng đó là một phong cách ổn định, nhất quán, và sẽ đe dọa, nối tiếp các khuynh hướng chính tắc từng có trong lịch sử văn học nghệ thuật nhân loại. Tâm thức chung ở Việt Nam như một tâm thức đã từng của hậu hiện đại trên thế giới, theo chúng tôi hiểu, có lẽ chỉ còn tác động trong khoảng 10-15 năm nữa chăng? Khi toàn cầu hóa đạt tới các cực đại huy hoàng cũng như tệ hại, “làng thế giới” sẽ tạm thời giải tán. Nước nào lại về nước ấy, nhưng với các liên hệ được nâng cấp[23].
Các quan niệm căn bản, khoa học và nhân bản của những hình thái chủ nghĩa hiện đại (trong đó có chủ nghĩa nhân văn) rồi sẽ trở lại áp đảo như đã từng. Các khuynh hướng cực đoan của chủ nghĩa hiện đại sẽ có cơ hội nhận chân giá trị. Vàng thau sẽ có đủ diễn đàn phân định. Hàng chục phong cách hiện đại cũng không thể làm loạn xị ngầu văn hóa và văn học bằng vài ba cung cách hậu hiện đại. Trong gia đình hậu hiện đại, chỉ 2-3 đứa tuổi teen cũng náo hoạt hơn cả một tam đại đồng đường. Thi đàn rồi sẽ trở nên trật tự hơn hiện nay. Ít nhất trong nửa đầu thế kỷ 21 nhiều hình thái của chủ nghĩa hiện đại (một ví dụ khá rõ là trào lưu chủ nghĩa cổ điển tự nhiên - Frederick Turner, 1995) có thăng hoa theo nhiều dạng thức, nhất là trong thi ca, như đã từng trong lần đầu hiện diện ở cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20?
Thơ Nguyễn Đức Tùng, và các loại hình nghệ thuật tương tự, hãy “gắng sống đến bình minh”!
8. Những lời tạm kết
* Đây là bài phê bình theo kiểu tùy luận[24] được bổ sung, san định và cập nhật từ một bản thảo nhân dịp báo Nghệ thuật mới (Hà Nội, 11/2012) chọn thơ Nguyễn Đức Tùng làm chủ điểm chính. Ở tập Thơ buổi sáng già nửa số bài thuộc về sáng tác trong giai đoạn hiện tại của tác giả mà hầu hết ra ngoài “thi pháp” thơ văn-kể và chúng tôi chưa có cơ hội tìm hiểu kỹ. Bởi thế xin tạm đặt những bài thơ đó xa phạm vi của nghiên cứu. Như lời khất của người bình thơ, và mong kéo theo lời hẹn của nhà thơ…
*Trong một tâm thức hiện đại (cùng vài thể hiện hậu hiện đại) riêng biệt và khéo léo nương theo thơ đương đại Hoa Kỳ-Canada để chuyên chở tâm tư cá nhân chủ yếu về con người và xã hội Việt Nam, kiểu thơ thể nghiệm này đi tìm khuynh hướng trên cách tân sau cải cách, tham vọng chuyển hóa thơ Việt khi hình thành một cách viết kỳ khôi ở thể thơ[25] văn-kể.
Bằng phong cách dung hòa 3 yếu tố (tính thời cuộc/luận đề; sự phân tâm; và giọng hài hước) thơ văn-kể kiểu Nguyễn Đức Tùng gần tới giới hạn cuối của thơ tự do không âm vần, không nhịp điệu qua từ ngữ.
Đây cũng là kết quả từ sự song hành 2 dòng văn hóa Đông-Tây, cạnh tranh giữa 2 nhân sinh quan và bất ổn trong 2 hình thức văn-thơ.
Hạn chế của lối thơ này là khó cảm thụ thi ca bởi chất văn dễ lấn tính thơ; thi pháp pha tạp khó nhuyễn; dễ lấn sang ngụ ngôn; gò bó về cấu tứ; cú pháp khô cứng; khó hợp với thơ tình đôi lứa… Thử nghiệm như thế giống các thử nghiệm hậu hiện đại: mang sự tự hủy cao trong từng sáng tác độc lập.
Chúng tôi cho rằng, tác giả tỏ ra đã làm xong phần sáng tạo của một người viết. Việc còn lại thuộc về dư luận tiếp nhận cùng khả năng tạo thành một “trường phái” thi ca có lý luận ổn thỏa; và quan trọng là gây ảnh hưởng tới các nhà thơ khác, ít nhất về cách viết.
* Đấy còn là một nhân vật rất quan trọng trong Dòng thơ cần giải thích giá trị - một hướng tiếp cận mà bản thân người viết vẫn đang theo đuổi trên một lối nẻo riêng để tìm hiểu thơ Việt hiện đại và đương đại.
* Như vậy, với một tuyển chọn sau 4 thập niên cùng Nàng thơ, vắt qua 2 thế kỷ, nằm gọn trong cuộc đời ly hương thăng trầm, Nguyễn Đức Tùng cần được ghi nhận như một người làm thơ độc đáo đáng kể giữa thế hệ của mình trong tiến trình hoàn thiện của thi ca Việt Nam đương đại từ sau 1954, như một người thơ[26] ở ngoài hình chữ S luôn dự phần làm mới lạ, làm tốt lành văn chương tiếng Việt đầu thế kỷ 21.
Thi sĩ của chúng ta đang đứng trước một cơ hội lớn.
Thi tập Thơ buổi sáng đang “xuất hiện” trên tay trong mắt bạn đọc: “Hoặc là… hoặc là….”
Vancouver (Hoàn thành: 7/11/2012; tu chỉnh, cập nhật 2013, 2016, 2019 & 2022 - Bản rút gọn đăng mạng 18/10/2022)
-----------
*) Bài bạt cho tuyển tập THƠ BUỔI SÁNG (Nguyễn Đức Tùng, Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội, 2023).
CHÚ THÍCH & TRÍCH DẪN
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
Trích lược và diễn giải bài của học giả Trần Văn Tích[27]
- Toàn văn bài thơ của Nguyễn Đức Tùng:
“Trên vỉa hè Sài gòn
(tặng Nguyễn Văn Trị, Nguyễn Đặng Mừng)
Ba lần ánh mắt gặp nhau
Từ bàn bên kia
Một lần ngẫu nhiên
Một lần dò hỏi
Một lần ngạc nhiên
Ba lần ánh mắt gặp nhau
Ba lần ngã đầu lên
Hòn đá trên đường.”
- Các câu, ý của tác giả Trần Văn Tích:
“Sẽ có nhiều người không chia sẻ các suy nghĩ của tôi về thơ bởi lẽ đây toàn là suy nghĩ cổ điển, cổ hủ, lạc hậu, hủ lậu. Nhưng tôi tin tưởng rằng sẽ có nhiều người hơn nữa chia sẻ những suy nghĩ cổ điển, cổ hủ, lạc hậu, hủ lậu đó.”;
Sau khi nói về các thể thơ Việt truyền thống, về ca dao, dân ca “nương dựa vào lối gieo vần chọn thanh”, “vần chân, vần lưng xen kẽ”, “âm điệu, đầy nhạc tính”, Trần Văn Tích xác quyết: “Những tiêu chuẩn vừa kể không có trong bài Trên vỉa hè Sài gòn. Chẳng biết nó gieo vần gì mà nhau rồi kia, rồi nhiên rồi hỏi, rồi lại nhiên rồi lại nhau, rồi nhảy qua lên với đường. Nó chế nhạo âm vận.”
Đến khi phân tích ý nghĩa của ngôn ngữ và cảm xúc thi ca bằng lý luận và ví dụ thơ truyền thống Việt, thơ Đường và thơ Pháp, Trần Văn Tích khẳng định:
“Trên vỉa hè Sài gòn độc dụng ngôn ngữ thuần Việt, kể cả hai chữ ngẫu nhiên. Nhưng lời bài thơ không có chút tính cách thi nghệ nào cả.”; “Tìm đỏ con mắt chẳng thấy thi phẩm có được một chữ nào đưa được ngôn ngữ thơ lên điện đài mỹ học.”
Về ý và tứ, bằng thơ Alfred de Vigny và Đỗ Phủ, tác giả bảo: “Trên vỉa hè Sài gòn mang vỏ ngôn ngữ bình thường nếu không là tầm thường và không chứa đựng chút nhân tâm lý sâu sắc nào khả dĩ làm bàng hoàng kinh ngạc người đọc. Ngoại trừ nội dung bí hiểm ngã đầu lên hòn đá.”
Về luật thơ thì, “Trên vỉa hè Sài gòn quả có tự sự + trữ tình, tả cảnh + ngụ ý, phát triển + kết cục, nhưng Nguyễn Đức Tùng có vẻ “xăng phú“ luật thơ dẫu rằng anh dường như cũng là một vers-libriste.” Nhạc điệu: “Đố ai tìm được một nốt nhạc nào trong Trên vỉa hè Sài gòn.” Cảm hứng: “Làm thơ chỉ làm khi nào cần làm thơ, phải làm thơ; để cho bài thơ có hồn. Tình huống tâm sinh lý này không xảy ra cho tác giả Trên vỉa hè Sài gòn. Cho nên bài thơ liên hệ vô hồn.”
Đây là tạm kết về hình thức: “Chung qui chỉ vì Trên vỉa hè Sài gòn là một poème sans poésie, một bài thơ không có chất thơ. Đó là chưa kể khi gọi nó là một bài thơ thì đã có sự lợi dụng quá đáng nội hàm ngữ nghĩa của hai chữ bài thơ.”
Sang phần nội dung, Trần Văn Tích “bàn về tính trí tuệ trong thơ”: “Trong số những phản hồi liên quan đến bài Trên vỉa hè Sài gòn, có độc giả cho rằng thơ Nguyễn Đức Tùng là thơ trí tuệ. Rất tiếc vị độc giả quá kiệm lời nên không chỉ giúp người khác chất trí tuệ nằm ở đâu, chất trí tuệ như thế nào. Bởi vì đọc một bài thơ trí tuệ rất mất công và tốn sức.” Ông dày công trích dẫn và phân tách tính trí tuệ qua thơ Hàn Mặc Tử, Đoàn Phú Tứ, Bùi Giáng, Saint John Perse, Valéry, Mallarmé, Nguyễn Công Trứ và ca dao, vè; mà không đả động đến bài thơ Trên vỉa hè Sài gòn.
Kết toàn bài: “Tác giả Trên vỉa hè Sài gòn vừa gặp may vừa không may. Anh gặp may vì chắc chắn anh có những người đồng hội đồng thuyền. Những người này sẵn sàng quây quần họp mặt với anh nhằm chia sẻ cung cách làm thơ riêng. Họ dụng công trí xảo sử dụng nghệ thuật thi ca nhiều khi ngoắt ngoéo. Thông thường họ thiên về tâm tình tâm lý khi sáng tác; đôi khi họ chú ý đến những vấn đề luân lý đạo đức. Thái độ của họ khiến liên tưởng đến những con người khiêu vũ trước một tấm kính. Họ tạo nên một tập thể những initiés, theo cách gọi của Mallarmé; có nghĩa là họ quần tụ thành một cộng đồng những cá nhân đã tự giác chấp nhận pháp lý, chủ động tiếp thu bí quyết. Họ nghĩ trước hết đến cái tôi của họ hoặc họ chỉ nghĩ đến cái tôi của họ mà thôi. (...) Không may cho họ, người đọc lại có thiên hướng bảo thủ, ít khi phóng khoáng khiến thành quả trí tuệ của họ dễ gây dị ứng nơi một số người.”
[Trần Văn Tích; Đ.Q. trích diễn]
Phụ lục 2
Về văn chương Việt Nam, nhân hai trường hợp khác nhau - thơ Nguyễn Đức Tùng và tiểu thuyết Thuận:
Thuận[28] là người có thể làm được (trong văn) nhiều điều mà Nguyễn Đức Tùng đang gặp khó (trong thơ) như đã phân tích.
Song lại ló cái khó khác: nữ tiểu thuyết gia vẻ như chưa thoát hết sự “bao cấp” về tâm thế hành nghề, chưa rũ hết “nỗi hờn” miền Bắc XHCN cũ. Âm hưởng dội ra sau nhiều trích đoạn của 4-5 tác phẩm, rõ nhất ở các năm 2010s, là nan đề giữa những người từng sống trong chế độ XHCN, cho dù nhân vật (có khi không là người Việt!) và đề tài đương đại. Phải nói Thuận là tiểu thuyết gia có nhiều thuận lợi về tài lực, bản lĩnh văn học và môi trường địa lý để tiến tới văn chương thế giới[29]. Ai mà chẳng thán phục kỷ luật lao động nhà văn ở chị: khác với những tác giả viết theo phương cách ổn định thường cần cảm hứng, các thể nghiệm gia không được phép dùng cảm hứng làm nguồn. Với khoản sau cùng, Nguyễn Đức Tùng cũng chẳng kém cạnh!
Là người trong cuộc, người viết mạnh dạn thưa thốt, tác giả Việt ở ngoài nước ra đi từ miền Bắc (thường gọi là người Việt Đông Âu dù tái định cư ở các nước phương Tây, Bắc Mỹ) không mấy ai vượt thoát nổi cái đai trên. Ở Phạm Thị Hoài truyện (tuyệt đa số hoàn thành trong nước), tiểu luận văn học, tản bút thời cuộc - với nghệ thuật đỉnh của tài ba và biến báo - thường là các khối bộc phá từ tâm thức trí thức, văn nghệ sĩ XHCN cũ. Thế Dũng, Lê Minh Hà, Phạm Hải Anh… mỗi đai nằng nặng mỗi kiểu mà nhân vật sau cùng vẻ như được giảm thiểu hơn. Có 2 trường hợp ra ngoài đai: Nguyễn Văn Thọ và gần đây Trương Anh Tú. Nói một câu cho vuông: dù ở thể tài nào, chữ nghĩa chảy ra từ chúng tôi, cũng rò rỉ từ nền của ký (ấm) ức[30].
Thật ra cũng chưa hẳn văn sĩ Việt Nam hiện đại yếu tư duy tiểu thuyết, thiếu trí tưởng tượng trong tiểu thuyết như giới phê bình từng lý giải. Cái khó ở đây, thiển ý chúng tôi, mục đích tiểu thuyết! Nhà văn Việt quen dùng tiểu thuyết về đề tài xa gần với chiến tranh như một phương tiện “nói chuyện phải trái” giữa những người Việt, giữa đối cực Bắc-Nam, Cộng sản-Quốc gia (cả khi đối cực ta-địch không còn tác động lớn); mà chưa chuyển hóa thành diễn đàn chung của con người, của nhân loại nơi mà người Việt chỉ nên sắm vai nhân vật văn học, chiến tranh chỉ nên làm hiện thực cho “diễn đàn” tiểu thuyết. Xin đặt nơi đây nghi vấn: văn sĩ Việt không thiếu tài văn, chỉ chưa đủ tâm văn[31]?
Phát biểu sau đây của dịch giả Thụy Anh đã minh họa cách xử lý vấn-đề-con-người từ một trong những thi sĩ tài hoa nhất qua việc nói về thời cuộc bất hạnh nhất của thế kỷ 20: “Giữa những lúc “hô khẩu hiệu”, nữ thi sĩ còn khắc họa những nỗi đau con người một cách giản dị mà thấm thía. Đằng sau cuốn sách, tôi [T.A.] có trích mấy câu của Olga: Nỗi đau của loài người giản đơn vô hạn/ đã trở thành niềm cay cực riêng tôi…”[32]
Về cả phương pháp sáng tác lẫn nhận thức, nếu đi từ “loài người” đến “riêng tôi” sẽ hiệu quả hơn là ngược lại. Và tránh ỷ thói cát cứ địa phương kiểu “Cứ viết cho hết Việt Nam sẽ gặp thế giới!” Có thể cách sau vẫn đúng, và là phải cách viết của kiệt tác. Nguyễn Du viết hết Truyện Kiều, gặp thế giới. Vũ Trọng Phụng viết hết Số đỏ, tới toàn cầu. Còn “hàng họ” của chúng ta - những cây viết văn thơ Việt hiện nay - không/chưa “kiệt tác” nhưng là từ tâm nguyện và tài năng nào đó để làm các tác phẩm bất-bình-thường. Nên chăng ta cứ dùng “thi pháp Olga” cho chắc ăn: cần hiểu biết Con người, cần tìm thấy thế giới trước khi nói bằng cái Tôi, trước khi rời khỏi bản thân mình, dân tộc mình. Thật ra, đó chính là luật sáng tạo chung; có điều các thiên tài đã thực hiện nó “giản đơn” một cách “vô hạn” mà thôi.
Các phản biện nghệ thuật ở văn Thuận rấm rức hiện thực từ miền Bắc bao cấp XHCN xa xưa vọng về. Những tác giả lớn của một dân tộc nên là kẻ - vô thức hay ý thức - biết đến các hệ lụy, ít nhất về nghệ thuật, từ toàn thể dân tộc.
Khác với trường hợp Nguyễn Đức Tùng ở Canada, tôi lại cho rằng ở Thuận nếu ít liên đới với Việt Nam hơn, nữ văn sĩ sẽ trưởng thành như một tác giả thuần-Việt-Nam trên văn đàn Pháp và bốn phương thế kỷ 21. Độc giả thế giới là người hàng xóm, kẻ qua đường quá giang; ngay khi không nghiêng tai nghe đối thoại của “bố con nhà kia”, họ cũng biết trong đó đâu là chuyện nhà, đâu là chuyện làng, chuyện đời. Điều mà độc giả đại chúng cần, đấy là chuyện đời – cái đời xảy ra trên tâm trí và hình hài người Việt, ngay tại đất Việt càng hay. Chỉ lơ thơ giới chuyên nghiệp văn chương mới thật tâm thích “chuyện làng” khi đọc văn học Việt. Thế nhưng - tệ hơn! - thơ văn Việt chúng ta thường chỉ ở tầm “chuyện nhà”. Các văn phẩm mang kích thước nhân loại, ít nhất, không thể là loại tự sự tình cảm chỉ để nói với nhau giữa các con dân trong một đất nước. Phụ họa Victor Hugo, “Chẳng có gì chán ngán bằng vô tình bị nghe cặp tình nhân thủ thỉ”; ta có thể nói, không có chi khổ sở như phải nghe anh chị em cãi cọ về gia tài của mẹ. Tiểu thuyết gia Việt, đa phần, không “Thủ thỉ gia” thì “Cãi cọ gia”! (Thi sĩ Việt cũng sêm sêm…)
Thơ Nguyễn Đức Tùng và văn Thuận có cái khuyết nơi này bù cho nơi kia: nơi thì lấy miền Bắc thay cả Việt Nam; nơi lại dùng hình thức văn chương Bắc Mỹ như thể của toàn cầu, với nội dung Việt Nam.
-HẾT-
[1] Dường như chưa có các nghiên cứu, phê bình bài bản và đúng mức về thơ Nguyễn Đức Tùng. Tính đến giữa năm 2019: Nhận định ngắn của 5 tác giả (Nghệ thuật mới 11/2012 - Đỗ Quyên / Thơ văn-kể của Nguyễn Đức Tùng như một thử nghiệm cải cách thơ Việt?); Thường Quán (Tuyển tập 40 năm thơ Việt hải ngoại, Nguyễn Đức Tùng tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Văn Việt - Người Việt Book 2017, vanviet.info 25/9/2016); Lê Hồ Quang (Thơ Nguyễn Đức Tùng, “nơi câu chuyện bắt đầu bằng ngôn ngữ khác”, Sông Hương 330/08-2016, tapchisonghuong.com.vn 26/8/2016); Mai Văn Phấn (Thế giới “con rối” trong thơ Nguyễn Đức Tùng, vannghequandoi.com.vn 8/11/2017); Chu Văn Sơn (Chuỗi bình luận trên FB Tung Nguyen cuối 2018 - đầu 2019).
Với thi tập Thơ buổi sáng, ngoài bài bạt của người viết, được biết có bài vở mới của các tác giả khác, như Mai Văn Phấn, Lê Hồ Quang…
[2] Ba tác giả Lê An Thế, Vương Ngọc Minh và Hoàng Xuân Sơn, mới nhất trong một lần xuất bản, cùng có bài trên damau.org 9/7/2022. Và đều là các sáng tác ở tầm đón đợi của dòng thơ này. Giống thơ Nguyễn Đức Tùng, các bài ấy cũng là thơ văn-kể, thơ ngắn, thơ thế sự...
[4] Trong danh sách 32 tác giả của dòng thơ này, định giá “chưa từng thấy” cũng dùng ở các trường hợp Đoàn Huy Giao, Hoàng Xuân Sơn, Nguyễn Đình Chính, Vương Ngọc Minh.
[5] Thanh Tâm Tuyền: “Từ cái nhịp điệu của hình ảnh, rồi bằng vào kinh nghiệm riêng khi làm thơ cũng như khi đọc thơ, dần dần tôi tìm đến được thứ nhịp điệu của ý tưởng, cả hai thứ nhịp điệu trên chỉ là sự thể hiện của nhịp điệu của ý thức, hơn bao giờ hết người ta sẽ thấy các nhà thơ hôm nay là những ý thức muốn biểu diễn bằng thi ca.; litviet.com 24 & 31/3/2012 - Đ.Q. nhấn mạnh.
[6] Át chủ bài của thi sĩ trong giai đoạn đó - và chúng tôi không thể nào không ưng - ắt là thi phẩm Năm mươi, gồm 4 câu lục bát với một câu mang vẻ xuất thần. Và, trong bản đầy đủ của bài bạt, vẫn xin có “nhuận sắc” không nhỏ quanh nhãn tự “trong nách”.
[8] Xin dẫn một số cây bút thơ ngắn không hẳn tiêu biểu nhưng đều có dấu ấn. Trong vòng 40 năm qua: Lê Đạt, Trần Dần, Phùng Cung, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Tôn Nhan, Phạm Đình Ân, Chu Ngạn Thư, Nguyễn Hoa, Phạm Mạnh Hiên, Trần Nhuận Minh, Nguyễn Hàn Chung… Khoảng 20 năm nay: Lê An Thế, Nguyễn Anh Nông, Phan Cung Việt, Nguyễn Lãm Thắng, Mai Văn Phấn, Nguyễn Thánh Ngã, Đinh Tấn Phước… Thơ hiện đại thế giới có biết bao kiệt xuất ở loại hình cực đoan này: R. Tagore, R. Gamzatov, B. Brecht, T. Transtromer, W. C. Williams, C. Simic…
[9] “Đoản thi tối hảo phá”.
[11] Tên một tập thơ của Phan Nhiên Hạo.
[12] Thì đấy, Trung niên thi sĩ từng cảnh giới, như câu thơ trong lời đề từ: “Đừng tưởng cứ đợi là chờ”!
[13] Chữ của Lê Thành Nghị.
[15] Được giới thiệu toàn bộ trong tập Thơ buổi sáng, phần Trường ca. Tên cũ là Người tình / Bài thơ giã biệt Du Tử Lê.
[16] Vào tay Phấn hay Quyên thì phải biết!
[17] Thì vẫn, văn giới cho rằng Trung niên thi sĩ đã cảnh giới: “Đừng tưởng (…) Cứ âm là nhạc, cứ thơ là vần”!
[18] Nguyễn Hàn Chung; FB Văn học miền Nam 2/7/2022.
[21] Thực ra không hề có thi pháp hậu hiện đại.
[22] Nhớ, vào nhiều năm thời 2000 - 2010s, gần như hàng tuần, vài ba ngày - thi sĩ lại “tra tấn” bạn bè qua sáng tác mới. Đó phải là một người viết chịu để chúng bạn giày xéo đám con tinh thần lít nhít của mình - điều không nhiều kẻ làm thơ có. Với Quyên, hay-dở chuyện nhỏ, thi pháp cần mổ xẻ tới cùng; Phấn thì khác: khen là chính, nhưng các bản thảo của Tùng thường bị nhẹ nhàng thay bằng một phiên bản khác!
[23] Võ đoán của người viết mươi năm trước trong bản thảo như thành hiện thực!? “Sau một số chính sách “nước Mỹ trên hết” phản toàn cầu hóa của Mỹ dưới thời Tổng thống Donald Trump, thì đại dịch Covid-19 và tiếp theo là cuộc chiến Nga - Ukraine đã và đang làm thay đổi bộ mặt của toàn cầu hóa.” (Lê Thiên Hương: Toàn cầu hóa đang dần thay đổi?, Kinh tế Sài Gòn Online 30/5/2022).
[24] Ngoài bản cô đọng dành để in sách, còn có 3 phiên bản đầy đủ hơn (20 ngàn - 10 ngàn từ) trong đó có bản này được dành cho vanchuongviet.org.
[25] Diễn ngôn tương tự cũng dùng cho một số kiểu thơ mới-lạ trên nền thi ca Việt đương đại hơn 30 năm qua và chưa được giới nghiên cứu, phê bình quan tâm: “Thơ âm bồi” của Dương Tường (khuynh hướng cải cách, có luận thuyết và thực hành; Tk: Sông Hương tháng 6/1990, và Hoàng Hưng, sách Mea Culpa và những bài thơ khác, 2004), “Thơ đa đề” của Khải Minh (khuynh hướng cải cách, có lý thuyết bài bản và thực hành phong phú suốt 25 năm nay; Tk: FB Đa Đề, talawas.org 28/11/2009), “Thơ thực hiện“ của Nguyễn Tôn Hiệt (có tuyên ngôn và thực hành; Tk: tienve.org 2005), “Thơ phụ âm” của Đặng Thân (Tk: Inrasara, tienve.org 2009), “Thơ Namkau” của Trần Quang Quý (Tk: Du Tử Lê, baovannghe.com.vn 27/10/2017), “Thơ 1-2-3” do Phan Hoàng đề xướng và được phát triển bởi đông đảo tác giả khác (Tk: Hồ Xuân Đà, vanchuongphuongnam.vn 9/9/2020)...
Theo đánh giá chủ quan, khi so sánh với thơ văn-kể kiểu Nguyễn Đức Tùng, những thể thơ thử nghiệm nêu trên do thi pháp hình thức/thể loại rất khai phá và kỳ khu, nên khó đạt hiệu quả nghệ thuật hơn.
[26] Chắc còn phải dành riêng một cuốn sách về những gì thi sĩ, biên luận gia, dịch giả, ký giả Nguyễn Đức Tùng đã gần gụi với thơ, trong đó có những ấn phẩm “độc nhất vô nhị” (Thơ đến từ đâu - 2010; Đối thoại văn chương (với Trần Nhuận Minh) - 2012; Với Du Tử Lê, đời sống trở nên thơ mộng hơn - 2007; Tuyển tập 40 năm thơ Việt hải ngoại - 2017). Thú vị, người viết vẫn tích tụ 25 năm nay Hồ sơ Nguyễn Đức Tùng từ nguồn chính là hàng ngàn email bình bàn giữa hai chúng tôi hoặc nhóm bạn thơ, về hàng trăm bài thơ của anh cùng các việc thơ lân cận.
[29] Mới nhất, theo như viet-studies.net 8/7/2022 giới thiệu: “Tuần báo văn chương hàng đầu "Times Literary Supplements" điểm cuốn "Chinatown" của Thuận: Chinatown by Thuân book review (TLS 8-7-22).
[30] Gần như tất cả các tác giả văn học cách mạng và hiện thực XHCN Việt Nam nằm trong khuôn viên/vành đai chuyện-giữa-người-Việt, mà từ Đổi mới 1986 đến nay đã dần dà được co giãn trên các diễn đàn chính thống và chuyên nghiệp nhất đất nước: viết về chuyện-con-người mà con người ấy là dân Việt sống trên đất Việt - Đó là từ chặng giữa đến cuối trong văn Nguyễn Minh Châu (nhân cách con người nói chung), là giai đoạn sau của văn Nguyễn Khải (sự phản biện của nhân tính), là truyện ngắn, tiểu luận Nguyễn Huy Thiệp (thú tính trong nhân tính, cái ác trong cái thiện)... Mới nhất là bộ sách chân dung ký sự của Phan Thúy Hà.
[32] Thụy Anh; Olga Berggoltz cho tôi bài học về sự chân thành, Văn nghệ trẻ, phongdiep.net 11/3/2012.