Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.201
123.205.381
 
Tôi đi buôn và nhọc nhằn mưu sinh (Phần 2: tiếp theo và hết)
Hoàng Thị Bích Hà

Cô gái nghiêm mặt và từ tốn bảo:

-Anh cũng có óc hài hước đấy nhỉ. Nhưng tôi thì không thuộc tuýp người thích đùa, nhất là xe tàu mệt lữ như thế này.Từ bây giờ anh có ngủ thì hãy dựa hẳn ra phía sau thành tàu nhé.

Đi bầm dập te tua vậy rồi cũng tới nơi. Buổi sáng, xuống ga thị trấn X, sau khi khệ nệ bưng những bao hàng xuống, hai đứa đang đứng thở, nghỉ ngơi lấy sức. Thì bỗng một nhóm người thuế vụ hay quản lý thị trường gì đó vẻ mặt đằng đằng sát khí tới “hỏi chuyện”. Khi đó cảm giác rất sợ, mặt lúc này chắc là xanh ngắt như tàu lá chuối. Tim đập hồi hộp lòng đầy lo lắng vì nếu bị trịch thu thì kể như mất vốn luôn! (Lúc này nếu đo huyết áp thì không biết là vọt lên bao nhiêu, may mà hồi đó còn trẻ, không có bệnh lý gì kể cả tim mạch.) Thuế vụ tra vấn một hồi, không nhớ diễn biến chi tiết mình đã đối phó thế nào và xoay xở ra sao nhưng cuối cùng sau khi quần thảo khủng bố về mặt tinh thần rồi cũng được thả cho đi. Tụi mình gọi người tới chở vào chợ thị trấn bằng các phương tiện như xe kéo, hoặc xe đạp thồ tại địa phương.

Vào đến chợ, sau khi tìm chỗ ngồi thuận lợi, dọn hàng ra để trưng bày sao cho bắt mắt và việc mua bán diễn ra thuận lợi, lác đác đã có khách tới mua hàng. Hai đứa bắt đầu “sự nghiệp bán hàng” lần đầu tiên trong đời, trước đó có quan sát chị bán hàng sĩ và lẻ trong chợ Cồn rồi nên cũng có học hỏi kinh nghiệm. Công việc diễn ra thuận lợi, nhưng cũng có trường hợp này ứng với một câu nói của dân gian: “chó ỷ tại nhà, gà ỷ tại chuồng” không phải không xảy ra. Có chị khách cỡ trạc tuổi mình, vừa cắp chiếc rổ tới, chưa mua nhưng đã hăm he phủ đầu một câu rằng: “hai cái con Huế này, cân kéo cho đúng không thôi tau thu cân đi nghe chưa!”. Mình không nói chúng mình từ đâu tới nhưng chắc có vẻ thấy lạ và nghe giọng nói cũng như cách ăn mặc nên chị ấy đoán thế!

Chị bạn mình nói:

-Ê cho đính chính chút: Đây sống ở Huế nhưng gốc Bắc và Huế lai thôi! Chứ Huế rặt ai thèm lặn lội đi bán đồ khô như tụi này. Họ có bán là bán vàng kìa! he..he..! Thôi giờ mua gì nào, cân giáp cho, bán để làm quen thôi! Giao dịch trôi chảy, thuận lợi!

Việc bán hàng diễn ra trong ba ngày thì giải quyết hết hàng. Về phòng trọ hai đứa giở sổ sách ra tính toán lại thì thấy có lời chút đỉnh, sau khi trừ mọi chi phí. Lần đầu lấn sân sang lĩnh vực không qua đào tạo, không thuộc chuyên môn của mình nhưng như vậy cũng có thể gọi là thành công bước đầu. Tụi mình vừa đi vừa học hỏi và dò đường đi nước bước. "Vạn sự khởi đầu nan" và tự an ủi nhau vậy là: “gioải rồi”. Hai đứa lòng cũng thấy vui, và tiếp tục sự nghiệp nhỏ lẻ của mình thêm vài chuyến nữa tại chợ này. Một hôm xong việc hai đứa bàn nhau nhảy tàu ra Vinh xem sao? Thế là mấy chuyến sau đi thẳng ra chợ Vinh dài đường hơn (Huế-Vinh 367 km) nhưng bán được hàng nhiều hơn và nhanh hơn. Xem lại các chuyến thì có nhiều chuyến lời, tuy vậy cũng có chuyến ngang vốn có khi còn lỗ chút ít nếu gặp không may. Tổng kết lại toàn bộ sự nghiệp buôn bán ba tháng hè, trừ các chi phí cũng có đồng ra đồng vào trang trải thêm cho cuộc sống và đặc biệt đời dạy cho khôn ra đôi chút he..he… Đó cũng là học phí cần phải trả cho cuộc đời.

 

Kết thúc ba tháng hè, BH trở lại trường làm công việc chính của mình, cô hàng xóm không có BH đi cùng nữa cũng buồn nên nghỉ buôn chuyến mà về làm tiểu thương chợ Phú Bình thuộc phường Phú Bình với căn hàng cố định kiếm sống qua ngày đủ nuôi con ăn học. Còn BH ngoài công việc chính thì chợ đò cơm nước, chăm con và tranh thủ ngoài giờ làm thêm một số việc khác. Như về chợ Phú Bình (thuộc đường Đào Duy Anh Huế) bán trái cây, khi thì lấy bia của anh chị Diên (D) ở bên nam sông Hương ra bỏ mối cho 5 quán nhậu ngoài thị trấn Phò Trạch, Phong Điền. (cuối bài kể một chút về anh D). Việc buôn bán xem như thời vụ thôi, thời gian diễn ra không lâu, chỉ có công việc đan len là kéo dài lâu hơn cả, cho đến khi áo len hết thời hoàng kim, không còn được ưa chuộng nữa thì mới nghỉ làm). Khi có khách đặt hàng thì đan đan áo len, nghề đan tay tự học lúc nhỏ, cũng gọi là có chút năng khiếu. Năng khiếu này thừa hưởng từ mẹ của BH, nhưng lại tự học chứ mẹ không dạy vì ba mẹ đi làm ăn xa, BH ở nhà chủ yếu với ông bà nội.

 

Có lần đan giùm cho thầy hiệu trưởng ở một trường phía bắc thành phố, mình biếu thầy, không lấy tiền công. (nhưng bà xã thầy vẫn tìm cách và đợi tết thì mang mứt bánh tặng mình ý là cảm ơn).Thầy hiệu trưởng (trường mình dạy năm 1986-1990) rất tốt, thầy đã tạo điều kiện cho mình như khi con ốm, chế độ thai sản, nghỉ sinh con, nâng lương theo ngạch quy định, ...

Từ năm 1991 mình chuyển vào trường khác thuộc trung tâm Thành Nội, thầy cũng tạo điều kiện để mình bàn giao công việc và thuyên chuyển dễ dàng. Thầy rất tin tưởng khi giao cho mình thao giảng giờ văn. Lúc đã cầm quyết định chuyển trường trong tay rồi, tuần sau sẽ trình diện trường mới mà thầy cũng bảo: Cô BH hãy dạy thêm tiết thao giảng tập làm văn rồi đi nhé! Mình rất kính trọng thầy, quý sự tin cậy của thầy nên mình không ngần ngại với yêu cầu này của thầy, sau một đêm chuẩn bị bài giảng, sáng mai, ra dạy cho các anh chị đồng nghiệp dự giờ. Tất nhiên khi nhận xét cũng có người khen, kẻ chê. Ý kiến khen nhiều hơn, chốt lại vẫn là kết luận của hiệu trưởng, rất hài lòng vì văn cũng là chuyên môn của thầy hiệu nên thầy nắm rất chắc, với những ý kiến lập luận vững và thuyết phục!

Ra đường nhìn ai mặc áo len đan kiểu gì đẹp, họa tiết gì bắt mắt, áo trẻ em có hình con vật gì ngộ nghĩnh, về nhà BH tự đánh ca rô vào giấy tính toán và đan được y chang không khác mẫu mới nhìn thoáng qua, và còn sáng tạo thêm những họa tiết khác. Khi vào dạy qua hai trường trung tâm trong thành phố, môn nữ công gia chánh không phải bộ môn của mình nhưng khi đưa học trò đi thi thành phố thì cả 2 vị hiệu trưởng đều muốn mình bồi dưỡng ngoài giờ và đem các em đi thi khéo tay, đan lát thêu thùa ở cấp thành phố. Có nhiều đợt các em đạt giải nhì cấp thành phố với các môn như thêu, đan, có lần làm món ếch xào sả cũng giải nhì,… (Qui định hồi đó, GV nào có HS đạt cấp TP thì GV sẽ được xét thi đua cấp TP nhưng khi xét thi đua thì họ quên mất tên mình). Sau này, nghề đan máy đạt năng suất hơn nên BH đi học nghề đan máy với học phí một chỉ vàng, mua thêm cái máy đan len 3, 2 chỉ, đóng bàn đan và một số dụng cụ nữa, tổng cộng hết khoảng 5 chỉ vàng cho “sự nghiệp đan len máy”. Hồi đó để có một chỉ vàng là không hề dễ, có khi phải chơi hụi cả năm trời mới hốt làm vỏn vẹn một chỉ vàng thôi. Đan máy áo len cho thị trường đủ các kích cỡ: người lớn có, trẻ em có. Về nhà, mình có truyền nghề đan máy cho ông xã, nên khi mình bận chăm con, chợ búa nấu nướng thì ông xã kéo máy đan giùm. Ông đan năng suất còn hơn cả BH nữa. (nói một chút về ông xã BH, năm 1976 thi đậu vô Y khoa nhưng lại ra sư phạm năm 1979, vì lý do riêng, chuyện này sẽ kể với bạn đọc ở một bài viết khác)

 Trong nhà ngoài giờ dạy, đến khi đêm về, tiếng kéo máy đan còn nghe rèn rẹt đến 10-11 h mới đi ngủ. Dạy ở trường về và cập nhật các loại sổ sách, giáo án chiếm thời gian không ít, tranh thủ làm thêm nên các con phải tự học là chính. Nếu có giảng bài cho con thì vừa làm, vừa giảng giải. Có khi đề tập làm văn thì mẹ vừa nấu ăn, vừa gợi ý. thỉnh thoảng gặp bài toán khó mới nhờ ba gợi ý dẫn dắt. Thương các con tự học là chủ yếu. May mắn là các con biết ba mẹ vất vả nên biết bảo ban nhau học tập và không đòi hỏi gì ngoài khả năng của ba mẹ. Vậy chứ bắt đầu lên cấp hai (từ giai đoạn 1997 trở đi) thì mỗi đứa đều đi học thêm từ 4- 6 môn. (Con trai đầu học thêm 6 môn. Riêng môn vẽ học thêm 3 thầy khác nhau để thi vào trường con chọn là kiến trúc. Con trai út có anh trai đi trước dò đường rồi nên chỉ học thêm 4 môn cần thiết, còn môn vẽ chỉ học một thầy, thầy nào mà anh Hai đã học và chốt lại cho em. Cuối cũng cả hai anh em (cách nhau ba năm) đều cùng thi vào một trường, ra trường làm cùng một nghề.

Như vậy nếu vận dụng câu nói của dân gian gian “Trời sinh voi, sinh cỏ” có phần đúng và cũng có phần chưa đúng, chỉ là câu nói gieo niềm lạc quan mà sống chứ thực sự mọi cá nhân đều phải nổ lực để vượt qua. Trải qua thăng trầm dâu bể cuộc đời với không ít gian nan như vậy, thế rồi gia đình của BH cũng vượt qua giai đoạn khó khăn chung của đất nước, hậu chiến và thời bao cấp.

Nay các con đã đi làm và tự lo được cho mình.

Có lẽ ai trong cuộc đời cũng phải đi qua phù trầm dâu bể với bộn bề cuộc sống không nhiều thì ít, nhất là trong giai đoạn khó khăn chung của đất nước. Hôm nay hồi ức ùa về, nhìn lại một chặng đường đã qua không ít gian nan, ngẫm lại cũng thầm tự phục mình ừ cũng kiên cường đấy nhỉ! Không tệ phải không?

Bây giờ chỉ mong mọi người sức khỏe và bình yên!

*Kể một chút về duyên quen biết với D. Anh thuộc quân đội bên thua cuộc nên sau khi cải tạo về, anh chị cũng làm nhiều nghề để kiếm sống.

Trong một dịp lên A lưới lấy đót về làm chổi đót xuất khẩu, thì anh D gặp các thầy cô từ Huế lên dạy nơi đây (cũng như giáo viên cắm bản vậy), Ông xã mình lúc này làm hiệu trưởng tại một trường ngay chợ thị trấn Bót Đỏ, đã tạo điều kiện thuận lợi nhất có thể cho nhóm mấy anh có chỗ ăn chổ nghỉ, và còn dọn dẹp các phòng thầy cô ở lại để dành một phòng làm chỗ cho mấy anh chị làm kho chứa đót (trong đó có anh D và một số người làm việc bên phường Vĩnh Ninh, Huế). Sau này về Huế anh D và ông xã mình vẫn giữ mối liên lạc cho đến ngày anh đi diện H o nay định cư ở nước ngoài, không biết nước nào, mình cũng cầu chúc gia đình anh luôn bình an mạnh giỏi. Đó là một thời gian (trong khoảng thập niên 80-90) ở Huế rộ lên phong trào làm chổi đót xuất khẩu, nhà nhà làm chổi đót, người người làm chổi đót. Trước đó hai năm, Hồi mình mới lên, dạy ở một trường cách thị trấn 15 km. Lúc này đa số giáo viên còn độc thân, chỉ có anh hiệu trưởng Tây lai là đã có gia đình. Hai nữ giáo viên độc thân ở một phòng, còn các giáo viên nam thì ở chung với nhau tại căn nhà ba gian. Nhà bếp chung, có một chị cấp dưỡng trong biên chế. Đến giờ cơm cùng về nhà bếp ăn cơm. Khi có người dưới Huế lên làm đót, anh hiệu trưởng Tây lai bảo hai cô dọn về nhà dân sống nhé, để căn phòng này lại cho họ mượn họ đựng đót. Thế là tụi mình về nhà dân ở. Hồi đó dân rất quý giáo viên nên cô chú ấy cũng làm riêng cho tụi mình một phòng. Đến giờ đi dạy rồi về nhà ăn tập thể ăn cơm, xong thì về nghỉ ngơi soạn bài và chơi ở nhà dân, đôi khi cùng đi khám phá khe suối, câu cá với mấy em trong gia đình cũng vui.

 

Trở lại chuyện anh D, anh từng là sĩ quan nên có lượng kiến thức nhất định, cần thiết để mưu sinh dẫu trong hoàn cảnh nào. Trải qua nhiều công việc khác nhau, sau này anh nghĩ ra cách nấu bia. Huế lúc này có từ gọi là “bia khổ” tên gọi là vậy để chỉ cách nấu thủ công nhưng được khách ẩm thực đón nhận nên anh chị cũng có thu nhập ổn trước khi lên đường đi H O. Từ bia khổ đã đi vào dĩ vãng nay không biết ai còn nhớ và ai đã quên? Tên gọi này này thực sự đã lùi vào dĩ vãng. Nay không còn nghe ai nhắc đến nữa, nhưng đó là mưu sinh một thời của không ít người liên quan và thực khách xứ Huế.

 

Sài gòn, ngày 8/12/2023

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hoàng Thị Bích Hà
Số lần đọc: 478
Ngày đăng: 27.12.2023
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Tôi đi buôn (Phần 1) - Hoàng Thị Bích Hà
Tranh hoa giấy – sự sáng tạo không ngừng của họa sĩ – nghệ nhân Thân Văn Huy - Trang Thùy
Chuyện xem phim bãi - Nguyễn Quốc Lãnh
Trải nghiệm xe khách thời nay – chạnh nhớ xe khách thời xưa - Hoàng Thị Bích Hà
Chuyện cậu nhóc đi “giang hồ vặt” gần nhà rồi xa hơn nữa - Phạm Nga
Năm học thứ hai - Nguyễn Quốc Lãnh
Nhờ văn chương mà thoát chết - Hoàng Thị Bích Hà
Hồi ký về cuộc mạo hiểm trên biển cả. - Hồ Bạch Thảo
Cảm xúc cánh diều 2023 - Nguyễn Anh Tuấn
Một mùa hè chưa xa... - Nguyễn Quốc Lãnh
Cùng một tác giả
Chị Xíu của tôi! (truyện ngắn)
Anh tôi! (truyện ngắn)
Chủ nghĩa cưới vợ (truyện ngắn)
Nước tràn ly (truyện ngắn)
Giận kẻ bạc tình (truyện ngắn)
Đời là thoáng chốc (truyện ngắn)
Chú Nghĩa cưới vợ (truyện ngắn)
Bông cúc xanh (truyện ngắn)
Nhảy tàu (truyện ngắn)