“Hoăi kom rơjom dong tah/ Kloh laih huăi kom dong tah”(*)
Cánh rừng Brê Bộch _thổ ngữ sắc tộc Mạ, M’Nông, S’Tiêng, hay Ilàng Keak, tiếng Sê Đăng_nào cũng nằm về phía Tây cả, cách xa các bon, plei, buôn người đương sống. Ai từ giã cõi trần đều chôn vào đây. Chốn gửi xác không buồn mà ở chính yếu là trạng thái ngút thẳm của nó. Ngút thẳm là bởi quan niệm khi hồn người chết ( thành một thứ gọi là Bộch/ Ma_ tiếng Kinh) rời hẳn khỏi cái xác dưới đất kia là để về với nơi “Phía tây”, “Đằng tây” hơn nữa_ “Phía bên Kia” nào đó. “Phía bên Kia” là chỗ nào đó típ tắp, “quê hương” của mặt trời lặn, chốn hư ảo, không rõ ràng, mang tính ý niệm, không gian ước lệ, tưởng tượng.
Cũng ở trên mặt đất thân thương cả thôi, nhưng cái “Phía bên Kia” sao mà xa biệt, hoang mờ. Nên Brê Bộch, nào mà chẳng vắng hoang vu, tái thẳm, mông lung, ủ ê.
Vật chất “Giọt Sương”
Để có hành động nhẹ nhàng, đơn giản trong hành trình kết thúc chuyện sinh - tử ở Brê Bộch này nhờ vào một nhận thức, quan niệm từ trong nguồn cội của họ.

*Ảnh: Nguyễn Hàng Tình
Theo ý thức của người bản địa Bahnar, J’rai, Ê Đê ở miền sơn cước Tây Nguyên đây, thì Bà Tung là người cai quản “Phía bên Kia” _miền xứ đó. Quái thay, Bà cũng là người cai quản luôn sự “sinh sôi”, cõi sống. Cái Tấm Vải Thế Gian mà bà hàng ngày phải làm cái việc dệt thế gian này có những sợi chỉ đan thêm vào và những sợi chỉ rút ra, mà mỗi sợi chỉ này tương ứng với từng sinh linh(người) được sinh ra/xuất hiện hoặc chết đi/thôi sống. Con người chết đi, chẳng có gì phải nặng nề, vì đoạn sống của họ đến đó hết, chính xác hơn là “tạm ngưng”, để ngơi nghỉ, chuyển hóa, tái sinh trở lại sau khi “Về đằng Tây” với rừng, với hoang liêu, hang sâu núi lặng, miền xứ bí ẩn, với cộng đồng Atâu(Ma) hư vô, và với tổ tiên, nguồn cội một thời gian thôi. Họ cho rằng, con người cùng mạng sống của người được hình thành từ Giọt sương( Ia Ngom). Khi linh hồn con người(M’hoar, M’Ngol, M’Ngắt) về sống ở “Đằng Tây” đó, từ từ sẽ được hóa kiếp thành con Nhện. “Về đằng Tây”, “Phía bên Kia” là một cõi mang tính ý niệm, tưởng ước. Và con nhện kia trải qua bảy lần chuyển kiếp nữa để trở thành con nhện tử tế và trở lại được mặt đất/cõi người bằng hình hài của Giọt sương sau sự hóa thân của cái chết của nó. Như vậy, Giọt sương là “tế bào” đầu tiên, vật chất cơ bản. Giọt Sương này sẽ lại phải qua bảy lần biến hóa để thành Giọt sương ban mai tinh túy, hoàn hảo nhất. Trên thế gian này, nhiều dân tộc còn bảo tổ tiên mình là Mặt trời, Mặt trăng, Sói, Chim đại bàng, Rồng, Phượng, Khỉ, Vượn nọ kia… mà. Quá huyền diệu, mơ mộng, nhưng về cấu tạo, sinh học, hóa lý, Giọt sương gần với tính vật chất hơn, thuộc về tạo hóa. Giọt sương mai này sẽ đầu thai vào những người cha người Mẹ ở thế hệ tiếp nối ở các bon, plei để được sinh ra lại. Rắng, một đứa trẻ sinh ra mới chỉ là một sinh vật bình thường, một giá thể, chưa thành “Con người” đâu. Mà để thành người thì sinh vật ấy phải được thổi vào một linh hồn. Linh hồn là từ nguồn cội tổ tiên tạo ra, đưa đến. Vậy là phải làm lễ nhập hồn, đặt tên, để thần linh thi hành, trao cuộc sống Người, chứng giám. Cụ thể sau khi sinh ra, trong ngày, trọng tâm lễ này là việc bà mụ_người đỡ đẻ_ dùng một quả cà chấm vào giọt sương lớn lấy từ trên lá cây ngoài trời kia. Rồi đưa quả cà có giọt sương đó để gần miệng đứa trẻ. Vị thần cao thiêng nhất Kơđei ủy nhiệm cho Bà ta sự thông thái, khả năng nhớ được tên tổ tiên xưa cũ, đã ra đi trong quá khứ, và đọc lên. Đứa trẻ đưa lưỡi ra để liếm uống ở lúc Bà mụ đọc như thế khi tên nào trúng lúc nó liếm đến thì hồn tổ tiên đó nhập vào đứa bé, xem như trở lại cuộc đời mới, và lấy tên đó đặt luôn cho đứa bé. Có nhóm sắc dân khác thì thể hiện sự tái sinh diễn qua lúc thổi tai, đặt tên. Con người là cần có cái tên, để khác các động vật khác, thú hoang, để là mình và mọi người gọi lên, để sống. Là lúc bà mụ đã nhai nát củ gừng tươi và củ nén trong miệng, trong khi cầm sẵn cuộn chỉ dệt có ống rỗng trên tay. Bà áp cuộn chỉ ấy vào tai đứa trẻ rồi phun nước gừng cùng nén kia vào cuộn chỉ, cùng lúc nói những lời về ý nghĩa, vai trò và sứ phận của con người trong cuộc đời, và mong thần thánh cho sinh linh này thông tai, mãi mãi khỏe mạnh, tai thính, chăm lao động, yêu cuộc sống. Cả hai tai đều được thổi linh hồn vào. Những lời kia thông qua cuộn chỉ và hơi ấm của gừng và nén sẽ đi vào cơ thể đứa bé để nó có linh hồn, “tính” người, phẩm trạng người, thành con người. Con người, đứa trẻ, sẽ lớn lên trong sự màu nhiệm của vũ trụ, bao bọc của thần linh trên trời cao, và tình yêu thương, chăm lo của người thân nơi cộng đồng mặt đất.

*Ảnh: Nguyễn Hàng Tình
Có khác gì đâu giữa việc coi con người có tái sinh với việc coi Chúa trời là có, Nước chúa là có, Thiên đường là có, Thượng đế là có, Miền cực lạc là có, Niết Bàn là có… Từ đầu óc và tâm hồn của giống loài ta, con người, ra cả thôi. Dù chuyện tái sinh(nếu) có thật, thì có mặt trên đời này cũng chẳng ai muốn sớm chết để tái sinh cả. Nhưng cũng đành chấp nhận sự đưa đẩy cay nghiệt của tự nhiên, phải sống và phải chết.
Hóa vui
Khi một người thân chết, dĩ nhiên phản xạ tự nhiên là ai cũng buồn, thương, tiếc, khóc. Nhưng ấy là lúc vừa tắt thở. Và khi đã hóa rừng, thành mộ ở Brê Bộch thì trạng thái đã khác. Ở Brê Bộch nào cũng chỉ toàn mộ len trong thảo mộc, phơi ra đây đó, dưới bóng cây nguyên sinh. Thiên nhiên, màu xanh lại trùm lên che chở, vỗ về cho “cuộc ra đi”, như lúc đương sống vậy. Có những khối mộ mới, cùng những khối mộ đang rệu rã, tàn, không còn hình dáng nữa. Những miếng gỗ đẽo vòm lên hình mai rùa để che trên ngôi mộ. Có mộ được che ở bên trên là vài ba miếng ván xẻ xếp dọc theo chiều nấm mộ. Lại có phần mộ được che bằng nửa chiếc thùng phuy sắt được xẻ ra, hoặc miếng tôn. Những căn nhà nho nhỏ bằng cây dại dựng lên, che xung quanh những phần mộ mới chôn không quên làm những con rối rôm rả thả lủng lẳng, hay những cái chuông gió đong đưa. Quanh các khu mộ mới xuất hiện, tượng gỗ được đẽo cứ dựng đứng, dựng ngồi, dựng nằm rộn rả. Những tựơng gỗ cao chừng một thước rưỡi đến hai thước, rồi một thướt, nửa thước, vài mươi phân, mà chủ đề được tạc là từ hình thù con khỉ, con chim công rảo bước, con dê, con chim đang bay, đến người đàn bà đang ưỡn có bầu, đôi trai gái trần truồng đang đứng giao hợp, đứa bé đang nằm co trong bào thai, hay người đàn bà đang giã gạo, đang địu con, hoặc một người đang đánh chiêng, đang làm thợ rèn, người khác nữa thì đang ngồi ôm mặt khóc; người lại đang cười te toét. Rồi cả tượng những người vác xà gạt, binh lính đội nón, đeo súng… Ấn tượng nhất là những tượng mô tả sự hình thành con người đẽo dựng lên vây quanh mộ, và tư tưởng phồn thực được thổi bùng lên. Phồn thực rõ là cội rẽ của sự sống, sinh sôi, là điều cao cả nhất. Và cứ như thể trong cuộc sống có những hình ảnh nào ấn tượng thì họ đưa thêm nó vào không gian này, không gian người chết. Xung quanh cứ như một cuộc triển lãm nghệ thuật khổng lồ. Thứ nghệ thuật điêu khắc và hội họa dân gian, kỳ công đến độ không thể kỳ công hơn, vì nó được người sống lặn lội lên tận rừng tìm gỗ tốt, hình dáng đẹp, mang về để đẽo. Không gian nghệ thuật đầy sức sống, công sức, và cảm xúc như thế, nhưng chỉ vì một điều duy nhất là làm cho người thân vừa khuất được vui, không bóng dáng nghệ thuật thương mại. Chịu chơi đến thế là cùng. Tình thương yêu đồng loại đến thế là cùng. Con người ở thế giới mà ta gọi là hiện đại, tiên tiến, văn minh, có xứ nào làm được đều như thế cho người thân khi giã biệt thế trần.
Đã thế, khi chưa làm lễ Bỏ mả_Bơ thi(Pơ thi), thì hàng ngày đưa cơm ra mộ cúng cho người mới mất đã chôn ở dưới kia. Nhà có món ngon nào thì mang ra món ngon đó. Những lúc này, người còn sống ngồi lại bên mộ người chết để người chết không lẻ loi, và tâm sự với họ. Và một ngày, khi gia đình có đủ điều kiện vật chất, kiếm được trâu, bò, dê, heo, gà… thì làm lễ bỏ mả cho người chết. Lúc này thì còn tưng bừng và hoan hỉ hơn nữa, bao tinh túy của nền văn hóa sơn nguyên hiện ra ở đây cả. Từ những vũ điệu đẹp nhất, mơ mộng, tung hứng, phiêu linh, nhập hồn nhất; nhịp chiêng hay nhất; bài zan dao bốc lửa hay sâu thẳm, chua xót nhất, và tiếng đing pút, đing năm ngọt ngào, mông lung, cao vời nhất… đều tung ra để làm cho người đã chết thăng hoa, và làm người sống tràn nhựa, rực lửa. Rượu cần ngon nhất được mang đến, và những món ăn đặc trưng nhất được chế biến và đãi nhau lúc này. Cộng đồng già, trẻ, từ người máu mủ đến hàng bon, hàng buôn uống cho say bí tỉ, cho ngất ngây, cho tưng bừng, cho lịm đi, vỡ xòa cõi lặng, xóa tan tính u hoài, trầm mặc của rừng, vũ trụ. Bên cạnh những lời khấn cầu trời đất cho người chết về đến nơi đến chốn ở thế giới mang lung (nơi mù mờ xa xăm), với tổ tiên, và sống với sự chuyển hóa tái sinh thì những sinh hoạt, thanh âm ấy cùng lúc được thổi vào. Nơi đây bỗng trở thành Bến - Bờ của kiếp người, vòng quay Tử - Sinh. Sự liêu trai, kỳ vĩ, sức sống, giá trị của “không gian văn hóa công chiêng” là ở lúc này, chứ không phải trong bon làng, không phải ở những thường nhật đi qua. Hồn vía cồng chiêng là ở đây, “Di sản văn hóa” là ở chỗ này, không gian này, chứ không phải ở tiếng cồng, tiếng chiêng ở tư cách nhạc cụ, hay những kịch bản, màn diễn chuẩn bị trước, trạng thái biết trước. Dĩ nhiên không khí đây thấm sâu vào đất, vọng tới những cánh rừng, ngọn núi xung quanh Brê Bộch này. Thi vị. Thế giới thật đã thành mộng mất rồi. Rừng núi linh thiêng, vĩ đại là đây, và tình yêu cuộc sống là đây. Như thế này thì cái cõi chết đã không còn là cõi buồn mà đã thành cõi vui. Vui rộn rã từ cơ thể đến tâm hồn. Nó vui, vì con người kia không mất đi mà đang được tái sinh. Vậy thì chốn mồ mả, nghĩa địa là nơi bắt đầu sự sống.
“Mùa thứ Ba” ở trần thế
Bây giờ mùa màng đã thu hái xong trên các rẫy nương, nơi các làng bon sơn nhân vào kỳ thư thả, và tiết trời bao trùm ngoài kia đương là mùa khô. Rằng chỉ có hai tiết mùa ở Tây Nguyên mà không bốn mùa như các chốn xứ khác với Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mùa khô là mùa hủy diệt so với mùa sinh sôi mưa kia, nhưng lại là mùa khởi đầu của tái sinh. Người bản xứ Tây Nguyên xem kỳ độ này là mùa phồn thực, hứng khởi nhất. Làm lụng quần quật mãi dọc dài của năm, giờ chỉ có dịp này là để vui, nên sơn nhân mới có thành ngữ: “Dua păn bơlan bleia hăo/ Rơnang bulan ktang hoă băng klao bơlan” (Chín tháng lao động mệt nhọc ra mồ hôi/ Ba tháng nhàn rỗi vui hội thỏa mái). Như người Banah, họ gọi nó là “Khêi ninh nơng” (Những tháng ngày nghỉ ngơi). Mùa tái tạo sức khỏe, nạp lại năng lượng để mà tồn tại, sống với trần gian. Đỉnh điểm của mùa này là diễn ra việc/nhiệm vụ/trò chơi/ lạc thú linh thiêng Bơ thi diễn ra khắp nơi. Và tương tự như người J’rai bảo kỳ này là: “Bơlan ning nông thông atâu”(tháng nghỉ ngơi đi chơi lễ bỏ ma). Riêng tôi, tôi cho đây là “Mùa thứ Ba” ở Tây Nguyên.

*Ảnh: Nguyễn Hàng Tình
Có điều mùa này không mô tả tiết trời cơ học, không thuộc về vũ trụ, mà thuộc về Con người, ở bên trong, trong chiều sâu tâm thức giống loài, nội trí, tưởng vọng, tâm hồn, tâm linh. Mùa thiêng. Các sắc tộc Banah, J’rai, Giẻ Triêng, Sê Đăng, Rơ Mâm, M’Nông, Ê Đê, S’tiêng, K’ho, Mạ… ở miền thượng này đều phải làm cái việc cần thiết Bơ thi_hội hè bỏ Bộch(Ma/ Mả), người đã chết, và bỏ luôn cái Brê Bộch này đi. Chết ở thời điểm nào trong năm thì cũng chỉ đến “Mùa thứ Ba” này mới làm Bơ thi.
“Mùa thứ Ba” nằm trong mùa khô của trời đất, và nó thường vắt từ tháng 11 năm này sang tháng 1 năm sau. Phải Bỏ mả để người thân chết được tái sinh. Và tái sinh, như đã nói là bắt đầu bằng Giọt sương sáng vời kia.
*
Giờ thì những vườn nghệ thuật điêu khắc lộng lẫy giữa rừng đó cũng cho luôn vào nắng mưa, vứt cho gió bụi, con trùng, cỏ cây phá hủy. Tư tưởng này trùng hợp tự nhiên với tư tưởng căn bản của xứ sở hiền minh nhất trên địa cầu về nhận thức vũ trụ, qui luật vận động trong tự nhiên là Ấn Độ, rằng mọi thứ trong thế gian luôn tồn tại bằng qui luật Hủy diệt- Sáng tạo(sinh)- và Bảo dưỡng, mà con người là động vật có trí tuệ nhất, nhận ra được điều đó, nên phải yêu cả ba đặc tính đó, và thần Vishnu, hoặc Shiva là kết tụ mọi tính trạng đó, thế nên các đền tháp ở Ấn Độ, Nepal, Myanmar, Srilanca, Indonesia, Malaysia, Campuchia, và ngay các tháp Chăm của nền văm minh Champa ở miền Trung của Việt Nam rực hiện tinh thần đó. Dù thế gian, các quốc gia, các cộng đồng có cố tình nghĩ về, nhận thức, thái độ, hành xử, lề thói có khác đi để thỏa mãn cái tâm lý trong chuyện sống-chết thì với tạo hóa điều đó vẫn bất biến.
Nên tôi chẳng thấy tấm bia mộ nào ở các Brê Bộch, Ilàng Keak cả. Làng nào càng chưa bị xô bồ, các tôn giáo và người ngoại biên chưa tới càng hiện ra rõ như thế, đặc quánh. Nó khác với những trùng trùng bia mộ như những “Thành phố chết” của người Yuan(Kinh) ở đồng bằng, những cộng đồng ảnh hưởng quan niệm, lề thói nặng nề về chuyện tử -sinh của văn hóa Trung Hoa mà tôi cũng từng rảo bước. Không phản đối quan niệm, lề thói dân gian, cách áp dụng nào về chuyện tử-sinh, nhưng tôi nhận ở người sơn nguyên trong chuyện này gần với vũ trụ, thiên nhiên hơn, mà gần với tạo hóa thì là gần chân lý, đơn giản, hồn hậu, thuần khiết, nhân bản hơn rồi. Vì nó không làm khổ mặt đất, làm nặng thiên nhiên, làm ê ẩm lê thê con người, hậu sinh luẩn quẩn với nợ nần, ân nghĩa, dù ý niệm nào thì cũng không có thật. Hãy để nó tan hòa vào trời đất. Khi đã làm Bơ thi là trả hết cho rừng, rừng nuốt thì nuốt đi, vì xác thân con người chỉ là cái giá thể của linh hồn, chất hữu cơ, và tro xác của họ nữa, chỉ là bụi, một thứ bụi trong muôn vạn thứ bụi vạn vật trong vũ trụ này. Nhà nào cũng bỏ, dòng họ nào cũng bỏ, làng, bon, plei nào cũng bỏ. Không phân biệt ma ấy là ma nhà giàu hay ma nhà nghèo, thân phận này, thân phận nọ, xuất thân kia xuất thân đây, trên dưới, to nhỏ. Không cần lưu danh. Bỏ đi, cho nó thành bản hoang ca mênh mông về một lần làm người. Thành bản hoà ca của bụi đất, thảo mộc. Bỏ mả là người sống được giải phóng. Bỏ ma là người chết(linh hồn họ) được giải thoát. Người M’nông gọi nó là lễ “Răt phan”(cắt hồn) là ngắn gọn, chính xác mà sâu sắc. Khi các tôn giáo bảo chết là “về” với Thượng đế, Chúa trời, Thánh Allah. Về với bụi đất, cỏ cây, thế giới xa xăm, “cõi không” đó thôi. Để cho linh hồn ấy được rong ruổi, được an yên, ở trạng thái sống khác. Nếu coi con người có linh hồn, yêu quí nhau, tôn trọng nhau, thì đừng để linh hồn người mãi là “ma”, đừng cố kéo ở tâm lý, mà cho nó cơ hội làm người lại, được trở lại, tái sinh. Chà, quá nhẹ nhàng, thuận theo tự nhiên, kỳ diệu.
Thì cũng như khi tôi bước vào bất cứ căn nhà sàn, nhà dài nào của họ, có bao giờ thấy bàn thờ người thân nào đã khuất đâu. Không gian nhà sàn, nhà dài nhẹ thênh, trống trơn theo triết lý, nhận thức về con người của họ. Lại là hành động để linh hồn người đã khuất được an yên, sống trạng thái khác, và còn được tái sinh.
*
Họ, người sơn nguyên, đã tắm cho tôi bằng văn hóa minh triết, tư tưởng men theo thiên nhiên, vũ trụ, thoát tục của họ, nên tôi cũng đã biết coi sống -chết chỉ là trò chơi của tạo hóa với vạn vạn, trong đó có con người. Nên trước nghĩa địa nào tôi cũng không buồn. Chỉ thương cho nghĩa địa nào ảnh hưởng quan niệm, gồng gánh lề thói nặng ngàn triệu tạ ngược lại với thiên nhiên của văn hóa Tàu thôi. Chỉ mỗi việc xem chết là hết nợ, trở về đất bụi, hư vô thôi, không làm phiền phức người sống lẫn người chết nữa mà con người đi mãi qua 5000 năm vẫn chưa tới, trong khi mỗi ngày lại nặn ra thêm những thứ râu ria, lý trí, áp đặt. “Văn minh” là hiểu được thiên nhiên, hay văn minh là phải làm nặng nề, rối rắm những điều bình thường, đơn giản, tất yếu về vạn vật. Con người không phải là chủ nhân của trần thế mà chỉ là những người khách tạm bợ của nó mà thôi, xuất hiện một ít thời gian nào đó rồi ra đi. Đã “đi” là chan hòa vào thiên nhiên cho rồi, không để lại dấu vết, chi cho nặng gánh, đau lòng thiên nhiên và các loài, hậu thế… Thà như người Ấn Độ, chúng sinh khi chết đốt(hỏa táng) thành tro trả lại cho sông Hằng, hay thổ dân Nam Mỹ, Úc, Châu Phi cứ thiên táng, thủy táng, điểu táng… một lần đuề huề, thanh nhã, chứ không để ý đến. Ai rồi cũng chết, nhưng làm cho cái chết đơn giản, vui đâu dễ. Ở khắp nơi, trên trái đất này, những cái không thuận theo tự nhiên là những cái đang làm khổ con người, nguy nan cho con người, mà ở đó đất đai hứng chịu, quá sức thiên nhiên, tạo hóa, dù là một cọng rau, tô canh, mô hình xã hội hay cái chết. Nhìn hệ thống đền đài, dinh mộ của phong kiến Trung Hoa, vua chúa nhà Nguyễn ở VN, hay bọn người giàu có đó đây mà thấy ngợp. Mà cộng đồng nào có cố không chịu sự hiển nhiên, níu kéo cái chết thì cứ, có thể có cái hay tâm lý tinh thần nào đó khác, người sơn nguyên hẳn không phản đối, và tôi cũng vậy.
Biết bao nhiêu là Brê Bộch tôi đã đẫm lên trong những hai mùa Khô, Mưa, rằng nó đã làm Bơ thi hay không làm Bơ thi. Nhưng tôi vẫn nhủ mình phải đi qua nhiều nữa, nhiều nữa những nghĩa địa trong rừng miền Thượng này, để hồi tỉnh, mở lòng, mở mắt, về sự mênh mông của cuộc sống, và những điều vi diệu mà đồng loại chúng tôi ở nơi khác từng để mất. Quay về với nó, sự đơn giản và chân lý, lại là hành trình quá sức, rất gian nan với con người thời đại lý trí, nếu không nói là đã trở nên bất khả. Dù gần đây, xu thế thiêu đốt xác thân và lấy tro cốt mang rải ra biển, sông hồ, hoặc đưa vào nhà Chùa cho thấy đây đó thiểu số tha nhân đang tiệm cận trở lại sự đơn giản, hiểu lại kiếp người. Khi Liên hiệp quốc, UNESCO, cố gắng làm, trên phạm vi toàn cầu, cho những giá trị hướng vào thiên nhiên, tôn trọng thiên nhiên, mà việc thừa nhận, xếp hạng “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại đã làm tôi tin rằng con người biết đâu rồi sẽ là sinh vật công bằng, thông minh, và tử tế thật với tạo hóa.
Chỉ khi về bên cánh rừng thế này mới thôi chung chạ với bể lầy lội ngoài cõi người.
Đến” là Giọt sương thì “Ra đi” như Giọt sương./.
………………………
(*) “Thế là không còn kiêng vì đã xong rồi/ Thế là không còn nợ nần vì đã xong rồi”_Lời khấn của sắc tộc J’rai cho con người khi mất đi.