Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.088
123.232.776
 
Giai điệu nhớ
Nguyễn Hồ

Ở nhạc viện ra, Đông Xuân chạy thoăn thoắt đến sà vào lòng tôi, líu lo: mẹ ơi, con đàn bản nhạc này của Mô-da được cô cho điểm mười. Cô khen bàn tay con tròn lắm. Con khum khum bàn tay, chúm chím đôi môi đỏ, chân nhun snhảy làm cho chiếc áo đầm xoè ra giống như cô cong con. Lần nào cũng vậ, tôi ôm ghì con vào lòng, hôn khắp lên tóc, lên mắt và hai bàn tay búp măng của con, lòng rạo rực niềm hạnh phúc lớn lao. Cả một ngày làm việc mệt nhọc của nghề phóng viên thời sự chỉ còn là khoảnh khắc dịu êm man mác. Đường Nguyễn Du chiều mùa hè rộn tiếng ve, nắng vàng xuyên qua kẽ lá dệt những chùm hoa tròn như trứng gà lung linh trên mặt đường. Lá me hay rắc những ánhv àng nhỏ li ti trên những mái tóc học trò tí hon của trường nhạc đang ào ra như một đàn bướm. Trong khung cảnh ấm áp đầy quyến rũ của buổi chiều tà, tôi đi đón con bằng cả vòng tay lớn của tất cả những người mẹ có con cùng một lứa tuổi tuyệt diệu, tuổi lên bảy của những cháu bé chào đời trong tháng tư lịch sử.

 

Ngồi phía sau xe đạp, Đông Xuân vuốt tấm lưng ướt mồ hôi của tôi. Bàn tay thiên thần nhỏ xíu rối rít thực hiện một cách cố gắng lớn, xua tan cơn mệt nhọc của mẹ. Nhiều năm qua, từ khi chiếc ghế mây gắn phía trước xe đạp đã trở thành chật chội, Đông Xuân là làn hơi ấm sau lưng tôi. Cũng như trước đây, tháng cuối cùng trong chiến khu, khi con còn đỏ hỏn, tôi phải địu trên lưng, làn hơi ấm mỏng manh ấy đã tiếp sức cho mẹ qua nhiều chặng đường hành quân. Con tôi sinh ra trong chiến dịch Hồ Chí Minh, đầy tháng ở Sài Gòn vừa giải phóng. Ngày đầy tháng mới chính thức đặt tên là Đông Xuân. Ba cháu nhất quyết đặt tên Đông Xuân để đánh dấu chiến dịch cuối cùng của cuộc kháng chiến, bất chấp quy ước giữa hai chúng tôi: hễ là con gái thì đặt tên là quyền của mẹ. Ngày đó, Đông Xuân chỉ nặng bằng cái ruột tượng gạo nhỏ của tôi, vậy mà nay đã hai mươi kí-lô, cao một mét hai, lần nào lên dốc Hai Bà Trưng hai mẹ con cũng phải xuống xe dẫn bộ.

- Mẹ ơi, mẹ.

- Dạ. Mẹ nghe đây.

- Mẹ cứ dạ hoài. Con lớn rồi, con biết mẹ phải ơi mới đúng.

 

Tôi phải ơi thật rõ. Đông Xuân mới chịu nói tiếp:

- Bữa nay mẹ phải giữ lời hứa với con. Mẹ chở con đi thăm ba, con nhớ ba… ngàn năm rồi.

Tôi suýt bật cười nhưng kịp kềm lại được. Gần đây, Đông Xuân ráo riết đòi đi thăm ba. Nó thường nói: một trăm năm rồi ba không ngủ với con. Con nhớ ba một ngàn năm. Đông Xuân học lớp một, vừa đếm được chính xác tới số hai mươi bằng cách xoè cả hai bàn tay và hai bàn chân ra. Cháu mới đọc được số trang và số thứ tự bài học. Tất cả các con số đều không liên quan đến một trăm năm, một ngàn năm. Vậy mà trong tháng hè vừa qua cháu đã lặp đi lặp lại nhiều lần con số tưởng tượng đó, đi liền với một nỗi nhớ. Nỗi nhớ da diết đến từ cái hôm cháu đàn bản dân ca Lit-va cho bạn tôi là một nhạc sĩ nghe. Bài dân ca trầm buồn có sức quyến rũ đến nỗi chỉ với đôi bàn tay non nớt của Đông Xuân cũng thuyết phục được người nhạc sĩ. Anh ngồi vào ghế của Đông Xuân, chú cháu cùng nhau trau chuốt từng nốt nhạc. Anh nhận ra cháu có nhạc cảm rất tốt, nhưng không hiểu sao, vẫn chưa diễn đạt được tâm tình của bản nhạc. Suy nghĩ hồi lâu, anh nói:

- Đoạn này buồn lắm. Cháu đàn chậm lại đi, chậm nữa, êm hơn nữa. Giống như cháu đang nhớ. À, phải rồi, cháu đang nhớ ba. Những nốt nhạc này cháu đàn cho ba nghe, cho một mình ba cháu nghe.

 

Tôi thấy Đông Xuân co người lại, lưng gù xuống, tai nghiêng sát phím đàn, tóc xoè dồn sang một bên vai. Từ mười ngón tay cháu ấn nhẹ lên phím đàn, bật ra những tiếng nhạc sâu vời vợi nỗi nhớ thương da diết. Nghe con đàn, tôi cứ ngỡ là tiếng đàn của cô giáo hôm nào. Lần đầu tiên, cô kiểm tra nhạc cảm của cháu, cô đàn nhẹ, êm như ru, cháu lặng nghe chăm chú. Nhưng khi cô hỏi: "Con nghe thế nào. Bài này vui hay buồn?" thì Đông Xuân thản nhiên trả lời:

- Thưa cô, vui.

 

Cô giáo sửng sốt:

- Con nói sao? Bài này mà con hiểu là vui thì chết cô rồi!

Cháu chỉ lắc đầu không hiểu.

 

Cô giáo liền đàn tiếp một bản nhạc múa tiết tấu thật rộn ràng. Cháu ngồi không yên, cả thân mình nhún nhảy theo tiếng nhạc. Cô hỏi lại:

- Còn bài này, con thấy vui hay buồn?

- Thưa cô, bài này vui hơn bài trước.

 

Nhạc sĩ ngồi lặng im nghe tôi kể, nét mặt thoáng lo âu. Lát sau, anh nói, mắt đỏ hoe:

- Giá như chị kể chuyện này trước thì tôi đã tránh được cử chỉ vô tình đối với cháu. Tôi đã gợi cho cháu nỗi nhớ, nỗi buồn, trong khi cháu chỉ biết vui và vui hơn. Đành rằng trong nghề nhạc, cần có những xúc cảm sớm hơn lứa, nhưng dầu sao tôi cũng nghĩ rằng người lớn không nên tập cho con cháu mình sớm biết buồn.

 

Anh nhạc sĩ ra về, tôi ngồi thừ một lúc lâu. Hóa ra, lâu nay tôi chưa bao giờ nghĩ về điều người nhạc sĩ nói. Lắm lúc tôi còn muốn con đàn được nhiều bản nhạc buồn hơn nữa, muốn gieo vào lòng con nỗi nhớ của chính tôi. Tôi muốn dùng tiếng đàn của con để an ủi, vuốt ve nỗi cô đơn thầm kín của mình. Và giờ đây, nỗi ân hận bắt đầu giày vò tôi…

Thấy tôi ngồi lặng lẽ, Đông Xuân chạy đến ôm cổ tôi hôn như dòng bão lên mặt, lên cổ tôi, cháu vẫn thường hôn tôi như thế.

- Mẹ ơi, mẹ. Mẹ đang nhớ ba con phải không?

Tôi miễn cưỡng gật đầu. Đông Xuân ôm siết tôi hơn, nó nói nhỏ vào tai tôi:

- Mẹ ơi, con nhớ ba một trăm lần. Mẹ hứa với con đi.

- Con muốn mẹ hứa điều gì?

- Mẹ hứa cho con đi thăm ba con đi.

- Nhưng con phải học giỏi, học điểm mười.

- Con xin hứa. Mẹ hứa đi.

 

Đông Xuân nói dõng dạc, điệu bộ như chiến sĩ nhận lệnh. (Ba nó vẫn dạy như vậy) và đưa một ngón tay trỏ nhỏ xíu ngoéo vào ngón tay tôi. Khi Đông Xuân học nhạc, điểm mười như là một quy ước của hai mẹ con. Con được điểm mười, mẹ phải thực hiện một lời hứa. Vì những lời hứa, Đông Xuân đã làm việc như một người lớn, cần mẫn tập luyện tiếng đàn theo yêu cầu của cô giáo. Lắm lúc, tôi đau nhói trong tim vì đầu ngón tay của con sưng lên hoặc bật máu do cố gắng quá sức. Con thi đậu vào trường nhạc, tôi mua cho nó chiếc áo đầm do chính nó chọn. Con gái tôi đã chọn đúng chiếc áo mà tôi thích, chiếc áo điểm những bông hoa cà màu tím li ti, khiêm tốn. Chiếc áo đó đắt gấp ba lần lương tháng của tôi, bằng đúng món tiền nhuận bút của một truyện ngắn đăng trong số Tết. Con mê chiếc áo đầm đến nỗi đòi mặc luôn trong giấc ngủ. Con mặc áo mới mà mẹ sung sướng. Nhìn con mặc áo mới còn ngủ say, tôi đã soi vào gương và nhận ra hai gò má tôi ửng chín, mắt tôi long lanh hơn, mặc dù, bộ quần áo ký giả của tòa soạn tặng tôi đã sờn, bạc phai trong những chuyến đi viết xa thành phố. Tôi trẻ ra vì đã giữ được lời hứa với con…

 

Thế mà lần này, khi ngoéo tay con hứa sẽ đưa nó đi thăm ba, tôi cảm thấy xấu hổ, tôi không dám nhìn thẳng vào mặt con. Đông Xuân hoàn toàn không biết tâm trạng của mẹ. Nó mừng rỡ, nhún nhảy như một con chim sáo. Nó ngồi lên đàn và chơi bản dân ca Lit-va đúng như người nhạc sĩ bạn tôi đã đàn, để khẳng định là đang nhớ ba. Cử chỉ yêu thương da diết của con đối với ba nó làm tôi mất ngủ trọn đêm đó. Tôi không viết nổi một chữ nào bài báo cho ngày hôm sau.

 

Sáng ra, tôi dối tòa soạn là đi lấy tài liệu ở một cơ sở, nhưng thật ra là đi lang thang trên đường phố. Ý thức còn lại duy nhất của tôi là giữ không để xảy ra tai nạn xe cộ. Ngoài ra, tôi phó mặc, cứ để mình nổi trôi theo dòng đời, trong một ngày. Ngờ đâu, số phạn dửng dưng ủng hộ tôi cho đến bốn giờ chiều, cái giờ hạnh phúc nhất của tôi, cái giờ được đón Đông Xuân trong vòng tay.

Như vậy là thêm một lần nữa Đông Xuân thỏa mãn điều kiện của tôi, đạt điểm mười. Con đã đạt được mục đích. Sáng sớm hôm nay, Đông Xuân bậm môi dọa tôi thật sự. Mẹ không cho con đi thăm ba, con sẽ nhịn ăn, con không ngủ với mẹ nữa. Con chỉ còn chưa dám nói lời nặng nề nhất: con không tin mẹ. Chỉ cần mấy tiếng phẫn nộ đó của con, tôi sẽ không sống nổi.

Vừa gò lưng đạp xe, tôi vừa nghĩ cách thoát khỏi sự sụp đổ lòng tin trong con.

- Đông Xuân à, con thấy mồ hôi lưng mẹ còn nhiều không?

- Dạ, mồ hôi ướt áo mẹ đây nè.

- Hôm này mẹ mệt quá mà ba con thì ở xa. Để sáng mai chủ nhựt mẹ mượn xe hon đa của dì chở con đi cho nhanh, con chịu không? Còn bây giờ mẹ đưa con đi chơi bến Nhà Rồng.

- Không. Con không đi bến Nhà Ròng.

- Thì mẹ đưa con đi câu lạc bộ…

- Kh-ông-ng! Mẹ phải giữ lời hứa.

 

Tôi biết Đông Xuân sẽ bật khóc một khi nó nói giọng cộc lốc như vậy. Phía sau xe dùng dằng mạnh làm tôi lảo đảo suýt chạm vào một chiếc xe đạp cùng chiều. Hai bàn tay nhỏ xíu của Đông Xuân rời khỏi hông tôi. Làn hơi ấm từ bàn tay con biến đi đột ngột. Một cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng khiến tôi như đang lên cơn sốt rét. Đã đến nước này thì tôi không còn dám trái ý con nữa.

- Thôi được, mẹ xin giữ lời hứa. Nhưng con phải ráng chịu mệt, khi nào con khát thì mẹ cho con uống nước mía dọc đường.

- Hoan hô mẹ. Con không khát đâu.

 

Đông Xuân reo lên và lập tức đưa ngón tay trỏ cong cong trước ngực tôi. Tôi ngoéo tay con thật chặt, lòng dặn lòng phải can đảm lên. Và tôi cố sức đạp trong nắng chiều, tim đập liên hồi, trong lòng như có lửa đốt. Xa lộ về chiều xe cộ hối hả như chạy đua với bóng đêm.

Chiếc xe cũ kỹ của tôi cố gắng như một thân sậy mềm trước dông bão của tốc độ. Tôi kiên nhẫn đạp xe không ngoài mục đích duy nhất, vì con.

 

Trước đây, mẹ con tôi đi chơi bằng xe hon đa, người lái là ba của Đông Xuân. Chúng tôi có một chiếc xe bán hóa giá, phần thưởng dành cho người thương binh bị hư một chân. Anh bị thương vào phần mềm, mảnh đạn chạm dây thần kinh làm cho teo cơ, chân trái cứ nhỏ dần và khi anh về thành phố, nó thêm chứng run rẩy. Anh rất buồn, sợ mình đứng không vững trên chính đôi chân của mình. Chiếc xe hon-đa là nguồn an ủi đối với mẹ con tôi, vì nó có thể đưa cả ba chúng tôi đi chơi sáng chủ nhật. Với anh, chiếc xe bình dị ấy cũng trở thành nỗi băn khoăn. Anh bảo rằng, nó là chỗ nương tựa của tính biếng nhác, đôi chân anh có thể vì nó mà teo thêm. Nhưng dầu sao, những chuyến đi sáng chủ nhật ra ngoại ô của anh và mẹ con tôi là vô giá. Anh đặc biệt thích thiên nhiên theo một kiểu riêng. Qua những cánh đồng để sống với cố hương và đến những khu vườn để sống lại đời sống chiến khu. Cuộc đời bộ đội trong quá khứ cứ sống đường hoàng trong anh cả ngày lẫn đêm của hiện tại. Hòa bình đã ba năm mà bộ "xanh-tuya" đi rừng anh vẫn còn giữ. Cái bình toong, cái ca, cái đèn chai "an-côn" được anh trân trọng như hiện vật bảo tàng truyền thống, anh chỉ dành cho con gái. Những buổi đi ngoại ô của chúng tôi thật thú vị. Khi thì về đất Củ Chi loang lổ hố bom. Khi thì đi vùng căn cứ Sáu Xã ở Thủ Đức. Lần đi chơi Thủ Đức Đông Xuân mới ba tuổi, thích ngồi trên bình xăng phía trước, tay luôn chỉ trỏ, miệng không ngớt bi bô:

- Ba ơi ba, cái bánh gì đỏ giống trứng gà quá?

- Không phải bánh đâu con, mặt trời mọc đó, đẹp không con?

- Đẹp quá. Mặt trời ở… số mấy hả ba?

- Ơ… cô bé cưng của ba. Mặt trời không có số nhà. Ông mặt trời ở cuối xa lộ này, ở trong rừng Sác xa lắm.

 

Anh hơi lúng túng trước câu hỏi ngộ nghĩnh của con rồi c uối cùng cũng tìm được một cách trả lời theo sở thích của cả hai. Lần đầu tiên nghe tiếng rừng Sác, Đông Xuân hỏi huyên thuyên. Anh phải vận dụng ngôn ngữ trẻ thơ một cách khó nhọc để nói với nó. Anh lúng túng tìm từng lời để diễn tả lại một cách đơn giản nhất, những ngày oanh liệt của anh, cái thời làm chiến sĩ đặc công trên địa bàn sông lạch rừng ngập mặn. Đông Xuân nghe chăm chú, thỉnh thoảng nó gật đầu và lắc đầu để rồi sau cùng thì đòi đi chơi rừng Sác.

 

Sinh nhật làn thứ năm, Đông Xuân thổi phụt một cái tắt cả năm ngọn nến. Anh thưởng cho con một buổi đi chơi vườn măng cụt Lái Thiêu. Đi chơi lần này, anh chuẩn bị cho con một ngày sống dã chiến thật sự. Có cả "tăng", võng, lương khô, bình toong nước. Hai cha con đu đưa trên võng căng trong vườn măng tím mọng, song ca rất khớp bản "Nhạc rừng". Cúc cu, chim rừng ca trong nắng. Im nghe ve rừng kêu miên man. Tiếng ve rộn lên trong vườn như đệm nhạc cho cha con anh hát. Anh hỏi Đông Xuân

- Đồng chí bộ đội của ba có nghe tiếng con gì kêu đó không?

- Con biết rồi, tiếng con dế.

- Ý ẹ, trật rồi - Anh ôm con, cười chảy cả nước mắt - Đó là tiếng ve chớ con. Im nghe ve rừng kêu miên man. Đó là ve, là nhạc ve đó con.

- Con nhớ rồi… nhạc ve… kêu miên man.

- Hoan hô đồng chí bộ đội của ba,

 

Anh và con chuyển sang hát "Hành quân xa". Cha con đi đều bước. Cha khập khiễng đi trước, tay khuỳnh rộng ra như đang hành quân thật. Con nắm thắt lưng cha, cố bước thật cao chân, hát thật to:

- Đời chúng ta đây có giặc "mà" ta cứ đi.

- Ấy chết! Con lại hát trật rồi. Phải như vầy mới đúng - Anh quay người lại đối diện với con tay bắt nhịp, miệng hát rõ từng lời: Đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi. Là ta cứ đi chớ con.

- Mà chớ ba. Bạn con cũng hát mà không hà.

- Nếu hát là mà, thì cả bạn con cũng sai.

 

Anh ngồi im nghĩ ngợi hồi lâu, trang nghiêm trước con gái năm tuổi. Anh định nói gì với nó nhưng chưa tìm được lời lẽ thích hợp, đành phải im lặng. Vốn là một chiến sĩ đặc công, anh biết làm chủ mọi xúc cảm. Anh kể cho mẹ con tôi nghe những ngày chiến đấu, trong trận đốt kho xăng Nhà Bè. Anh đã từng xâm nhập vào sát rào gai, nằm im trong ánh đèn pha, nín thở trước những kíp mìn cực nhạy. Đã từng lặn ngụp trong nước mặn, chịu khát và đói, mắt trừng trừng về phía những bồn xăng, bụng cồn cào nỗi đau na-pan, nỗi đau cháy rát của những em bé, những bà mẹ bị đốt cháy lần áo, da thịt đang réo sôi. Lửa cực nóng luyện anh và đồng đội thành thép nguội. Anh nằm đó, với quyết tâm thiên niên kỷ, miễn là thời gian dành cho anh một giây, một phút nào đó vắng bọn tuần tr, để anh cắt rào gai mở hướng tấn công. Giây phút đắt giá nhất trong cuộc đời đã đến. Anh mở được đột phá khẩu, lao vào con đường đã thuộc lòng trên sa bàn và đến với chiến thắng. Ngọn lửa phụt lên, đó là tất cả trái tim anh, những gì còn lại đều vô nghĩa, kể cả thân xác anh và đồng đội. Anh phải mất nhiều ngày trầm mình trong nước mặn để rút về hậu cứ. Đồng đội anh có quá nửa chết vì đạn nhọn, vì sức ép, vì cá sấu. Nhưng không ai nghĩ tới điều nhỏ mọn ấy, họ hy sinh cho cái lớn hơn.

 

Nói về những kỷ niệm, anh coi tôi như là Đông Xuân, với khát vọng qua tôi truyền đạt tới Đông Xuân, tới thế hệ của con. Nhưng Đông Xuân lớn lên trong hòa bình, chiến tranh đối với con là xa lạ. Con vẫn cứ thờ ơ trước trăn trở của cha. Đối với con, đâu có giặc là ta cứ đi hay mà ta cứ đi chỉ là bài hát không cần rõ nghĩa. Anh nhăn nhó âu lo và vì như thế. Đó là nỗi ưu tư của anh, nỗi ưu tư thường trực: Anh chỉ biết đối thoại với con, anh vui mừng trước những ý thức ban sơ của con nhưng lắm lúc anh sốt ruột trước sự ngây thơ đáng yêu của con. Tôi đã phê bình gay gắt sự nhầm lẫn về tâm lý lứa tuổi của anh, đôi khi tôi cho là anh bị bệnh tâm thần phân liệt. Anh nhận ra ngay điều tôi nói bằng lý trí sáng suốt. Nhưng trái tim anh, tình cảm anh thì chống lại. Bao giờ anh cũng muốn thế hệ sau anh phải kế thừa truyền thống đấu tranh cách mạng như anh, phải dứt khoát quyết liệt với kẻ thù. Anh không chịu được sự ỡm ờ. Và thật trớ trêu, anh vẫn không phân tích được vì sao Đông Xuân, tuy rất yêu cha, yêu bộ đội, nhưng cũng sẵn sàng nhầm lẫn, sẵn sàng đặt ra trước anh những phản đề. Nhiều lần tôi gợi ý với anh, thôi đừng làm tình làm tội con nữa. Không nên bắt con chia sẻ tâm trạng se thắt của người lớn. Anh dễ dàng đồng tình nhưng sự thư thái trong tâm hồn anh không kéo dài được lâu. Khi nghe tin bọn Trung Quốc phát động di tản, chúng nổ súng chiếm hòn Thổ Chu, chúng đánh biên giới Việt Nam là anh không chịu nổi. Anh đòi trở về với binh chủng đặc công. Anh muốn đánh bọn Pôn Pốt ngay tại giường ngủ của Hoàng hậu Cốt-xa-mắc ở Hoàng cung Cham-ca Mon. Mọi nguyện vọng của anh đều chưa được thỏa mãn. Người ta trân trọng tấm lòng chiến sĩ của anh nhưng dẫu sao cũng thấy nó hơi quá đáng, có phần lên gân. Nhất là trong trường hợp anh đang mang trong bắp chân một viên đạn, cần phải mổ, ít ra cũng phải mất vài tháng trở lại bệnh viện và nhiều tháng luyện tập. Khi vết mổ đã lành, tuy cái chân vẫn còn khập khiễng, anh vẫn khẳng định mình có thể hành quân xa được. Vẫn với mơ ước đâu có giặc là ta cứ đi. Thế mà Đông Xuân vô tư lự đã hát rằng đâu có giặc "mà" ta cứ đi. Anh bắt bẻ con gái một cách vô lý làm cho nó  ngơ ngác tưởng như mình có lỗi. Mắt Đông Xuân tròn xoe nhìn ba, đầu lắc lia, không hiểu vì sao ba giận.

 

Hai cha con thôi hát, chuyển sang bữa ăn dã chiến, cơm vắt với muối mè. So với bữa cơm dã chiến trước đây, có thêm món chả lụa và tôm chiên bột. Đang ăn thì trời đổ mưa, phải chuyển vô chòi giữa vườn măng. Anh đưa con ngồi trên ghế đẩu. Đông Xuân ngồi một cách lúng túng. Nó kêu lên sợ sệt:

- Ba ơi ba, cái ghế này kỳ cục quá, con không biết dựa vào đâu, con sợ té lắm.

Đông Xuân ngửa lưng ra sau tìm một chỗ dựa, suýt chút nữa thì chiếc ghế ngã, nếu  anh không kịp đưa cánh tay ra đỡ lưng nó. Câu nói của con làm anh nhăn nhó, mày cau, môi mím lại. Ráng lắm anh mới cười, nụ cười bị lệch một bên. Anh bế con giọng đầy mỉa mai:

- Đồng chí bộ đội của ba. Con phải tập ngòi ghế không có chỗ dựa cho quen. Ghế của bộ đội không có chỗ dựa con à. Lưng bộ đội đâu cần ghế dựa hả con.

Đông Xuân ngơ ngác gật đầu. Lần này nó không dám cãi ba, chỉ cố gắng tỏ ra hiểu biết, miệng chúm chím cười. Nụ cười trẻ thơ sáng trưng làm anh tươi tỉnh ngay. Anh ôm ghì lấy con rồi cù lét nó, tung nó lên làm nó thích chí cười khanh khách:

- Ái ui! Ba thả con xuống đi - Đông Xuân kêu lên rồi chạy sang tôi. Nó nói nhỏ vài tao tôi:

- Mẹ ơi mẹ, cho con đi…

 

Nó nói thật nhỏ tiếng cuối, mắt dáo dác tìm chỗ.

- Con tìm gì đó Đông Xuân.

- Ba ơi, "toa lét" ở đâu?

- Con tiểu phải không, đi với mẹ.

 

Tôi dắt con ra vườn, chỉ một chỗ đất trống còn ướt nước mưa. Đông Xuân ngồi xuống rồi lại đứng lên. Nó nói như van lơn:

- Mẹ ơi, không có "bô" làm sao?

Nghe con nói, anh bật cười, cười đến chảy nước mắt. Tôi cũng buồn cười về một nét mới xuất hiện trong đời sống tâm lý con gái. Nó lớn lên trong tiện nghi, không quen đời sống dã chiến, chưa hề tiểu tiện ngoài toa lét. Cả anh và tôi đều bị bất ngờ về điều này. Giá như ai đó trong lứa chúng tôi phạm lỗi sính tiện nghi thì đáng trách vô cùng. Nhưng con cái chúng ta thì đáng yêu biết bao. Chúng cần có cuộc sống đầy đủ tiện nghi hơn thế hệ trước. Tôi ôm con, hôn lên tóc nó. Nhưng anh thì khác. Tuy không giận con, nhưng anh cười chế giễu con gái hoàn toàn không đúng lúc:

- Đồng chí bộ đội của ba. Muốn làm bộ đội phải biết… chỉ cần có gốc cây là được.

- Nhưng con sợ rắn lắm.

- Bộ đội không sợ rắn, chỉ có rắn mới sợ bộ đội. Đồng ý với ba chưa nào?

Đông Xuân khẽ gật đầu.

 

Đêm đó, khi Đông Xuân đã ngủ, anh nói chuyện về nó rất lâu. Đầu tiên, anh trách tôi không có ý thức theo dõi tâm tính của con, để con phát triển theo tự nhiên. Đến một lúc nào đó con sẽ trở thành con người quên truyền thống. Tôi hoàn toàn đồng ý với anh về mục đích giáo dục con, nhưng nói thẳng rằng phương pháp của anh là vội vàng, gượng ép. Anh ngồi im suy nghĩ thật lâu rồi khuyên tôi cố thu xếp cho con về ngoại trong mùa hè để nó biết đời sống nông thôn, đó là cách tập cho con gần với lao động, gần với thiên nhiên, với tập quán. Tắt đèn đã lâu nhưng anh không ngủ. Anh ngồi dậy, vấn thuốc sâu kèn, hút liên miên. Tôi vẫn thao thức theo anh.

- Anh tính như vầy, em đồng ý không?

- Anh tính điều gì?

- Anh sẽ ra mặt trận. Mặt trận biên giới đã mở rồi. Ở đó, anh cống hiến được nhiều hơn ở đây. Một mình em nuôi con.

- Chừng nào anh đi?

- Anh muốn đi càng sớm càng hay. Em sẽ cực hơn bây giờ.

- Chỉ ngại cái chân vừa mổ của anh.

- Anh đã đi vững bằng đôi chân của mình rồi. Chỉ lo em sẽ cực hơn. Vắng anh, em sẽ phải đảm đương nhiều việc hơn. Anh tính cho con học đàn pi-a-nô. Gặp chỗ nào có đàn nó cũng sà vô. Nó thèm đàn hơn cả quà bánh.

- Nhưng học đàn thì phải có đàn, làm sao mua nổi?

- Anh tính rồi, mình bán chiếc hon-đa và ít đồ đạc, gom góp lại đủ mua. Bạn anh, nhạc sĩ, nó nói đàn đang rẻ. Con nó ham đàn hát, tâm hồn nó phong phú thêm. Để nó khô khan như thế hệ chúng mình tội nghiệp. Chỉ sợ em phải đạp xe, gầy mòn thêm.

Không sợ. Vì con, em có thể chịu cực hơn nữa. Gầy yếu cơ thể tạm thời không đáng sợ so với gầy yếu tâm hồn - Tôi định nói thật nhiều để anh yên tâm đi mặt trận nhưng cổ tôi nghèn nghẹn. Tôi không dám nói tiếp vì sợ bật ra tiếng khóc. Phải thú thật rằng hơn bất cứ lúc nào tôi sợ vắng anh và cũng sợ anh không có tôi.

 

Anh đi ít lâu sau, việc mua đàn mới ổn thỏa, thành ra anh vẫn chưa thấy mặt cây đàn, vẫn chưa nghe tiếng đàn non nớt đầu tiên của con. Tôi phải viết những bức thư thật dài ra biên giới nói về việc dạy con theo ý anh, về năng khiếu của con. Đặc biệt là sự đam mê. Mười ngón tay xinh xắn mải miết tập đàn cả trong giấc ngủ. Anh viết thư về mừng rối rít. Anh không sao hiểu được Đông Xuân có năng khiếu âm nhạc. Anh cười trong thư: anh thì chăn trâu, kéo cày, còn em thì cạo mủ cao su vậy mà con có "gien" đàn pi-a-nô, thật lạ. Có lẽ tại đời mình sống lạc quan, cứ hát hò luôn miệng cho nên con sớm có tâm hồn nghệ sĩ. Anh nhờ tôi nói với cô giáo của Đông Xuân dạy cháu những bài hát về bộ đội. Tôi báo cho anh biết cô giáo chưa thể dạy đàn ca khúc theo như ý anh vì con đang luyện "mê-tốt". Anh nỏi nóng vì các từ "mê-tốt" và "ê-tuýt", viết thư phản đối cô giáo. Cô giáo giận, tôi phải năn nỉ. Còn anh thì ngược lại, anh rất mừng khi biết Đông Xuân đàn bài dân ca Lit-va rất đạt, vì nhớ ba. Tôi muốn kể cho anh thật tỉ mỉ những biến động trong tâm hồn con gái, nhất là trong lần đàn cho người bạn nhạc sĩ nghe bài dân ca buồn, nhưng lại ngại làm cho anh bận tâm trong khi đang ở chiến trường, thành ra chưa viết được.

- Mẹ ơi mẹ, bộ biên giới ở xa lắm sao mẹ, mồ hôi ướt lưng mẹ hết rồi đây nè.

- Biên giới phía xa kia kìa, chỗ mặt trời đang lặn.

 

Tôi nói trong hơi thở dồn  hảo hển. Đông Xuân xoa lưng cho tôi. Những ngón tay thon dài quá sớm do tập đàn chăm chỉ, vuốt nhẹ theo sống lưng tôi. Mười ngón tay rối rít gõ những hợp âm, những nốt yêu thương thôi thúc tôi đạp xe nhanh hơn.

 

Trời chiều, nắng nhạt, gió nhẹ hây hây, bình yên, dễ chịu hơn. Tôi rẽ vào con đường màu tím rực của đất đỏ nhuộm nắng chiều tà. Ngoài xa lộ, tiếng xe cộ xa dần, không gian yên tĩnh và trong lành, có thể ngửi được mùi lá dừa từ những đám ruộng giống mới đang trổ.

 

Phía trước tôi, trên ngọn đồi đất sừng sững một ngôi tháp màu trắng, đỉnh tháp rực rỡ một ngôi sao vàng. Ngọn tháp nhắc tôi nhớ mình đang đến đâu, làm tôi khựng lại, muốn quay về. Nhưng tôi biết rằng sau lưng tôi là lời hứa của tôi, là niềm tin của con. Tôi phải gò lưng đạp xe  lên dốc.

- Đông Xuân à.

- Dạ.

- Ba dạy con phải dũng cảm…

- Con đâu còn sợ ông kẹ nữa đâu, con dám ngủ riêng, con dám đi "toa lét" một mình.

Đông Xuân nói một hơi dài.

- Nhưng con phải dũng cảm hơn nữa.

- Dũng cảm hơn nữa là sao hở mẹ?

 

Câu hỏi đột ngột của Đông Xuân làm cổ tôi nghẹn lại. Tôi quên rằng tôi đã đòi hỏi con quá mức, bắt con phải dũng cảm, trong khi chính tôi cũng chưa làm được điều đó. Nước mắt tôi trào ra, nhểu vào bàn tay con đang ôm siết bụng tôi.

- Mệt quá, mẹ khóc hở mẹ. Bộ đội phải dũng cảm. Mẹ là vợ của bộ đội mà.

- Mẹ đâu có khóc. Mồ hơi rơi trên tay con chớ đâu phải là nước mắt.

Nước mắt tôi lại tuôn ra, lại rơi xuống tay con.

- Ý mẹ khóc thiệt rồi, nước mắt nóng hổi tay con nè.

- Không sao, mẹ sẽ nín ngay bây giờ. Con nhớ ba, con có khóc không?

- Không. Con đâu có khóc hồi nào đâu. Nhớ ba con đàn hay hơn rồi mà.

 

Đã đến nơi, tôi và Đông Xuân xuống xe. Nơi đây vắng lặng, không một bóng người. Tôi đã từng đến đây vào bất cứ giờ nào tôi có thể đến, nhưng chỉ đến một mình. Hôm nay là lần đầu tiên có mặt Đông Xuân. Tôi dắt con qua dãy mộ chí thẳng tắp như những hàng quân. Phía bên kia những dãy mộ có một ngôi nhà, đó là ngôi nhà khu ngoại vi nghĩa trang. Nhận ra ngôi nhà trước mặt, Đông Xuân mừng rỡ nhảy chân sáo, hai tay mở rộng, chiếc áo đầm xoè ra. Bỏ mặc tôi phía sau, Đông Xuân chạy bay tới trước. Con tôi reo lên:

- Mẹ ơi mẹ, doanh trại của ba kia rồi.

 

Nhưng hàng rào cuối dãy mộ chí đã ngăn bước chân của Đông Xuân. Con đứng sững lại, quay nhìn tôi ngơ ngác như một chú nai lạc đường, còn tôi, tôi d đã dừng lại tự  lúc nào tôi cũng không biết. Trước mặt tôi là tấm mộ chí của anh mà tôi quen thuộc từng dòng chữ, từng vết nứt. Tôi kịp nhớ ra rằng, tôi chưa bao giờ khóc tại đây với anh lần nào, tôi chỉ thắp hương và trồng một cây bông trang đỏ, tôi ngồi với anh hàng giờ để nghĩ về con mà không hề dám đưa con đến. Tất cả mọi người thân đều khuyên tôi như vậy. Tôi đã nghe lời khuyên và sa lầy mãi trong đau khổ một mình, không có con chia sẻ. Giờ đây, tôi mới cảm thấy nỗi ân hận vò xé. Tôi trách mình thiếu can đảm, không tin vào trẻ thơ. Giá như tôi cứ nói hết với Đông Xuân về cái chết của ba nó từ ngày đầu, đến nay hôm, vết thương trong tôi và con chắc đã qua giai đoạn đau nhức. Nhưng tôi không dám. Chẳng qua là vì nỗi đau đến đột ngột quá ngay khi tôi chờ đợi ngày gặp lại anh. Một bức điện khẩn gọi tôi đến bộ tư lệnh mặt trận biên giới. Tôi gửi Đông Xuân cho bạn, đi theo xe bộ đội ra tiền tuyến và gặp anh còn nằm trên cáng ở một trạm quân y tiền phương. Anh bị nổ mìn trên đường về, hai chân bị mất đứt, lõm sâu dưới lần chăn đắp. Nhìn anh, tôi rụng rời. Tôi chỉ còn biết hy vọng vào đôi mắt anh chưa nhắm lại. Tôi sà đến, dán mắt tôi vào đó, chút sinh lực còn lại rực lên long lanh. Nhưng đồng tử đã bất động, anh chỉ chăm chú nhìn vào một nơi vĩnh cửu nào đó trong bóng đêm. Những lời cuối cùng tôi chờ đợi, anh không hề nói, những lời nhỏ nhoi về tôi, về con, về những tiếng đàn non nớt của con. Anh thanh thản ra đi như không có ai để lại, kể cả con và tôi.

 

Tôi ôm ghì thân xác còn quá nửa của anh, cố gắng tuyệt vọng giành lại phân nửa đời tôi. Nhưng anh đã là người thiên cổ rồi. Người ta mang anh đi. Một chiếc xe nào đó chuyển bánh. Bao lời khuyên đồng đội anh vang bên tai tôi. Nhưng tôi có nghe thấy gì đâu, tôi chỉ còn nhớ mang máng rằng anh đã định cư ở đâu đó, anh đã nhận cho mình địa chỉ cuối cùng, địa chỉ của hương khói và thời gian. Sau đó, tôi trở về với con bằng bộ mặt người mẹ trước lúc ra đi. Con thơ ngây không linh cảm được tin dữ. Con nghe tôi, tin là ba đang tiến công về phía Tây, phía mặt trời lặn. Những chiến công từ phía mặt trời lặn được công khai rtên đài phát thanh và trên màn ảnh truyền hình củng cố thêm niềm tin của con, rằng ba con đang tiến về nơi nào đó, ở hướng Tây. Đông Xuân đàn bản dân ca Lit-va trong khi đang hướng về mặt trận. Đúng như thế, bọn Pôn Pốt đang bị tiến công, bị truy lùng đến tận hang ổ Chỉ trừ một sự kiện mà con chưa biết là trong số người ngã xuống cho cuộc tiến công đó có một người thân yêu nhất, là anh. Mọi người sống trong hòa bình, góp phần gián tiếp của mình vào chiến trường biên giới, trong đó có những người thân của tôi, đều xúc động trước sự thật tàn nhẫn này. Chính họ đã khuyên tôi hãy im lặng với con. Tôi nghe theo họ, tôi im lặng tuyệt đối, chống lại cả sự nổi dậy của trái tim thương nhớ.

 

Cho đến hôm nay…

 

Tôi cố gắng không để cơn xúc động làm run đôi vai, làm bật ra tiếng nấc. Nhưng không được, nước mắt tôi đã thú nhận với con tất cả. Từ phía hàng rào cuối cùng của nghĩa trang, Đông Xuân chạy đến, con đã thấy tôi đang quỳ khóc trước mộ chí. Nó tròn mắt hột nhãn nhìn tôi, ánh mắt ngây dại nghi ngờ. Giọng nó cộc lốc:

- Mẹ ngồi đây làm gì, dắt con qua doanh trại của ba đi. Tối rồi - Đồng Xuân chỉ tay về hướng những ngôi nhà ở ngoại vi nghĩa trang.

Tôi ôm con vào lòng, nói trong tiếng nấc:

- Ba con ở đây. Con đọc tấm mộ bia này đi.

 

Đông Xuân đẩy tôi ra, con kề mắt sát vào tấm bia và lẩm bẩm đọc. Con đọc thật lâu. Ban đầu thì đọc lướt qua, sau đó lại lẩm nhẩm đánh vần. Trờ-ân-trân-huyền-trần. Vờ-ăn-văn. A-nờ-an.

Đông Xuân đọc xong, đứng bật dậy như chiếc lò xo, khoa tay, lắc đầu nguầy nguậy. Không nhìn vào tôi. Con gào to lên:

- Không phải ba con. Người này là Trần Văn An, ba con là Dũng Chiến.

 

Đông Xuân làm tôi bàng hoàng. Đến giờ tôi mới nhớ ra, cháu chưa biết tên thật của ba. Nhưng chẳng lẽ lại nói với con điều này ngay bây giờ. Trong lúc này tôi chỉ muốn Đông Xuân tin tôi, rằng con không còn ba nữa.

- Con nghe mẹ nói đi con. Ba con đang nằm đây. Nấm mồ này…

- Không phải đâu, con nói ba con ở biên giới mà. Ba viết thư về cho mẹ rồi.

- Nhưng ba con bị… thương, và…

- Mẹ nói dối. Ba con bị thương, lành rồi, bác sĩ mổ lấy đạn ra rồi. Ba con lành rồi mới đi mà.

 

Đông Xuân vẫn xua tay, dậm chân, vuột ra ngoài tầm tay tôi. Mặt con xanh tái, mắt tròn xoe, lắc đầu dứt khoát phản đối tôi. Tôi hoảng hốt nhào tới, ôm siết con vào lòng.

- Đông Xuân ơi, hãy tin mẹ. Ba con bị mìn của bọn Pôn Pốt. Mẹ khổ biết chừng nào. Từ lâu mẹ giấu con.

 

Nghe tôi nói đến đây, đột nhiên Đông Xuân ôm ghì lấy cổ tôi, nó khóc òa lên. Nước mắt nó chảy lên mặt, lên cổ tôi nóng xót tận trong lòng tôi. Tôi muốn nói lời nào đó để an ủi con, thậm chí, tôi vẫn còn nuôi ý định dối con lần thứ hai. Nhưng bỗng nhiên Đông Xuân vùng dậy, gào lên tuyệt vọng:

- Mẹ ơi, mẹ ngốc lắm. Ba đâu có chết hồi nào đâu. Ba có viết thư cho con đâu.

- Trời ơi, con…

- Mẹ hư lắm. Ba con không có ở đây. Hãy đưa con về nhà đi mẹ ơi. Đây đâu phải là nhà của ba con. Mẹ đừng nói dối, con không tin.

 

Lần đầu tiên, Đông Xuân nói thẳng ra là con không tin mẹ. Nét mặt con gái tôi đanh sắc khác thường. Con không cần nghe lời khuyên của tôi, trái lại chỉ muốn tôi phải nghe. Và tôi đã nghe lời con tự lúc nào cũng không hay biết. Mắt tôi ráo lệ như chưa từng khóc. Như không hề có mất mát. Tôi đứng lên, nắm lấy tay con. Mẹ con tôi dắt nhau ra khỏi hàng mộ chí im lặng.

Tôi đạp xe một cách khó nhọc trên xa lộ về đêm. Đông Xuân ôm chặt lấy hông tôi. Tôi chưa biết phải nói gì với con trên đường về, dù chỉ một lời. Hy vọng rồi thời gian sẽ nói với con sự thật. Dẫu tôi biết rằng, ngay cả thời gian cũng không thể xóa được nỗi nhớ ba của con. Mười ngón tay Đông Xuân thẫn thờ tư lự gõ những hợp âm lên áo tôi. Những hợp âm mơ hồ, yếu ớt thấm vào tận đáy lòng tôi giai điệu của con, giai điệu nhớ ngàn năm.

 

Tháng 6 - 1984

Nguyễn Hồ
Số lần đọc: 2271
Ngày đăng: 14.03.2006
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Rồi cả một thời xưa tan tác đổ - Hoàng Thu Dung
Hoa biển - Minh Châu
Tình cho không biếu không - Vinh Huỳnh
Chuyện ở đồng tràm - Đặng Hoàng Thám
Rừng Mắm - Bình Nguyên Lộc
Mùa mắm còng - Nguyễn Hồ
Những thiên thần trong bão lửa - Ngọc Thủy
Chơi vơi màu nắng - Vũ Đình Giang
Còn lại với cõi đời này - Bích Ngân
Khỏang giữa cuộc đời - Đoàn Hữu Hậu
Cùng một tác giả
Chị tôi (truyện ngắn)
chim phóng sinh * (truyện ngắn)
Chú bé thổi còi (truyện ngắn)
Chung cư* (truyện ngắn)
Chân dung vô hình (truyện ngắn)
Hẻm sâu* (truyện ngắn)
Bạn già (truyện ngắn)
Tám chữ o tròn (truyện ngắn)
Về hưu non (truyện ngắn)
Mùa mắm còng (truyện ngắn)
Giai điệu nhớ (truyện ngắn)
Chú Năm tôi (truyện ngắn)
Đêm kỷ niệm (truyện ngắn)
Hoa Quỳnh (truyện ngắn)
Nàng Đae Chang Kim (truyện ngắn)
Ông Năm Cải Tạo (truyện ngắn)
Cô thư ký xinh đẹp (truyện ngắn)
Chuyến xe khuya (truyện ngắn)
tư duy (thơ)